Tim thông tin blog này:

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2018

"Gì cũng cái, chỉ có rựa là đực"

Rựa là công cụ đa năng: có thể chặt, phát quang, chẻ nhỏ cây...
Tại sao họ rèn cái đầu nó cong xuống? - Đây là sáng tạo của người Việt: Để tăng sức nặng cho thế chặt. Khi chặt lưỡi ôm theo cây, vừa tận dụng hết tầm lưỡi, vừa lấy đó định mức vị trí chặt và cho khỏi vuột khỏi cây hay nhánh. Nếu chặt rựa va phải đá do có đầu mũi cong xuống nên không bị mẻ lưỡi. Người ta còn dùng nó để khèo móc, rong cành cây, dây leo...

Nam bộ, thời khẩn hoang

Nam bộ, thời khẩn hoang: Phảng, cù nèo và ruộng cỏ
09/08/2007 04:07 GMT+7

TTCT - 1- Khoảng năm 1985, trong đợt điều tra về các hình thức diễn xướng dân gian ở ngoại thành TP.HCM, tôi được chị Nguyễn Thị Mười hát cho nghe mấy bài lý, trong đó có bài Lý cây phảng trên đây.

Khác mùa huê nở trường đông...Mùa màng, mộng mạ, giống má thất bát, cà đun (*) gieoPhảng kia phát chế, kèo nèo huơ, kèo nèo huơ...
(Lý cây phảng)


Các loại nọc cấy và phảng cấy

Chơ Ma Liên

Sau khi đi một vòng ở bãi biển Long Thủy, du khách cũng có thể thả bộ đến Ma Liên để tìm chút cảm giác mạnh, đó là phần đất thổ mộ nằm giữa hai làng Ma Liên và Mỹ Á toàn cây bàn chải, gò nống và cồn cát. Từ Mỹ Quang xuống Long Thủy hay ngược lại đều phải đi qua khu nghĩa địa Ma Liên này. Tuy vậy ít người dám ngang qua giữa trưa tròn bóng hay khi hoàng hôn buông xuống, hoặc giữa đêm hôm khuya khoắt.

070403-LANG-MA-LIEN.jpg
Làng Ma Liên - Ảnh: Trần Quỳ
Tương truyền, trên đất Ma Liên có cồn Xương nằm bên đông núi Hòn Mây, là nơi ngày xưa các vua chúa triều Nguyễn đã cho chém đầu hoặc chôn sống hàng ngàn người trong phong trào “Bình Tây sát tả” để thanh trừng những người tà đạo (theo Thiên Chúa giáo), đến nỗi xương nổi lên thành cồn cao, gọi là Cồn Xương. Khi phong trào ấy chấm dứt, người dân trong vùng gom góp tiền của xây dựng đình lẫm để cúng tế các cô hồn chết oan ức trong thời kỳ ấy vào tháng 3 âm lịch hàng năm.

Từ truyền thuyết Cồn Xương mà trong dân gian có câu chuyện “Ma Liên tiên”, tức là các cô hồn thành ma biến thành các tiên nữ, tiên nam trà trộn vào với con người trong các phiên chợ tại Ma Liên. Các ma tiên này cũng mua bán y như con người, rất sòng phẳng. Tuy nhiên khi mua bán xong, về đến nhà đếm tiền lại thì thấy toàn vàng mã đã đốt thành tro. Vì vậy nên những người mua bán tại chợ này thường kèm theo thau nước để thử tiền: hễ tiền nổi trên mặt nước là tiền giả của ma tiên, còn loại tiền bỏ vào liền chìm xuống đáy thau là tiền thật. Vì vậy nên có câu ca dao:

Chính những người lao động tha phương cầu thực mở đất Nam Bộ

"Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long"
(Huỳnh Văn Nghệ)
Không rõ ai vẽ tranh dưới, nhìn rất có ý nghĩa: người Chăm vác cái phảng phát hoang (bị mất nước phải tìm đất mới), người Việt gánh cái bị đồ dùng (ý bám trụ đường dài), người Hoa cầm cái dù (ý là người có ít tiền làm chủ). Chính những người lao động tha phương cầu thực mở cõi ờ vùng đất hoang vụ. Sau đó triều đình mới dùng quân với gươm súng để giành quyền thống trị đất đai, con người.


Hình ảnh ấn tượng

"Ông trâu kễnh"



Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018

Đời sống nhà nông xưa

Đời sống nhà nông (La vie aux champ) là mảng đề tài được khai thác rất  nhiều trên các bức bưu ảnh xưa.
AgriMark sưu tầm những bức ảnh xưa miêu tả lại cảnh hoạt động sản xuất và nếp sinh hoạt của người nông dân ở những vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam. 
Photobucket
Vác cày

Dấu tích Chăm trên đất Tây Nguyên

Có giả thuyết cho rằng,Tây Nguyên là một vùng cư trú biệt lập, không liên quan với thế giới bên ngoài, ít nhất cho đến thế kỷ 14 - 15 (?!)
Đến nay, điều đó đã được “giải mã” và cho thấy giả thuyết ấy không đứng vững được nữa khi một loạt di chỉ khảo cổ học được phát hiện trên vùng đất kỳ bí này từ những năm 90 thế kỷ trước cho đến nay.

Ngoài những di chỉ tiêu biểu như Buôn Triết (Đắk Lắk), Kiến Đức (Đắk Nông), Lung Leng (Kon Tum) và gần đây nhất là An Khê (Gia Lai)… với hàng nghìn hiện vật đồ đá, đồ gốm, đồ đồng được giới khảo cổ học phát hiện và công bố đã cho thấy hàng vạn năm trước, con người ở đây vốn có sự giao thoa, gần gũi với cư dân vùng đồng bằng Duyên hải miền Trung cũng như vùng Trung du Bắc Bộ trên các mặt văn hóa, xã hội và kinh tế… thì những dấu tích người Chăm còn tồn lưu, phát lộ trên vùng đất Tây Nguyên càng góp phần củng cố vững chắc cho nhận định trên.

Thực tế đã có rất nhiều di tích kiến trúc, văn hóa Chăm được tìm thấy rải rác ở các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và Kon Tum. Ngoài 4 di tích Chăm được khám phá tại Đắk Lắk: Tháp Yang Prông (Ea Súp), quần thể kiến trúc Chăm (Krông Ana), giếng Chăm và phế tích Chăm (chưa xác định chính xác là gì) tại Krông Bông, những nhà nghiên cứu văn hóa và khoa học còn tìm thấy nhiều công trình kiến trúc Chăm tiêu biểu như tháp Yang Mum, đền Drang Lai, thành Quai King (tỉnh Gia Lai) và Kon Klor (TP. Kon Tum). Những cái tên đó được nhiều nhà nghiên cứu (chủ yếu là người Pháp) tiếp cận và mô tả cặn kẽ, chuẩn xác để làm rõ mối quan hệ, giao thoa giữa các cộng đồng người ở khu vực Tây Nguyên – đồng bằng Duyên hải miền Trung trong suốt chiều dài lịch sử.

Nghề nông cổ truyền (I)

NGHỀ NÔNG CỔ TRUYỀN VÙNG ĐẤT KHÁNH HÒA XƯA
NÔNG CỤ, VẬT DỤNG VÀ CÁCH SỬ DỤNG TRONG NGHỀ NÔNG CỔ TRUYỀN TẠI TỈNH KHÁNH HÒA XƯA
 
(Kỳ 1)
 
Những nông cụ cũng như các vật dụng dùng làm đất, gieo trồng, vận chuyển, chăm bón, thu hoạch, bảo quản nông sản của người nông dân trong tỉnh canh tác ruộng ngày xưa có những nông cụ, vật dụng khác với những nông cụ, vật dụng ngày nay. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại, phát triển, canh tác nông nghiệp đã chuyển sang cơ giới hóa, một số việc canh tác và cả thu hoạch, vận chuyển, một số nơi dùng máy móc, thay thế sức người, sức vật, sức kéo. Từ đó, một số các nông cụ, vật dụng người nông dân sử dụng từ xưa, khoảng hơn 100 năm nay, dần dần không được sử dụng nữa, nên sinh ra hư hao, mất mát, mai một theo thời gian, hiện nay tìm kiếm rất khó khăn, chỉ được tìm thấy trong sách báo tranh ảnh, trong các nhà bảo tàng Nhà nước, sưu tập của tư nhân hay trong các khu du lịch sinh thái phục hồi, làm mới lại...
Đa số các nông cụ xưa đều làm bằng tre, một số làm bằng gỗ (có nông cụ phải dùng loại danh mộc), bằng song mây to nhỏ, bằng sắt ...
Ở Khánh Hòa, tre mọc nhiều ven các sông lớn nhỏ trong tỉnh và cả ven đất, ven xóm nhà dân. Người dân trồng tre không những giữ đất hai bên sông đỡ sụp lở mà cây tre còn là vật liệu làm ra nhiều đồ dùng hàng ngày, dùng trang trí, xây cất ... Trong đó, nông cụ, vật dụng ngày xưa đa số từ tre mà hình thành nên.
 
Tre có thể dùng cả đoạn tre hay chẻ ra thành nan để đan (tiếng địa phương gọi là đương) các nông cụ, vật dụng. Tre được trồng ven sông suối, ven nhà là loại tre đồng. Còn tre tự mọc trên rừng gọi là tre rừngTre rừng có nhiều gai, nhánh dày, đan xen nhau, thấp hơn tre đồng. Loại tre rừng mọc hoang, phát triển nhanh, trải rộng thành đám, có khi chiếm cả ngọn đồi. Tre rừng đặc ruột, thân có đường kính trung bình từ 4 đến 6cm. Gốc tre rừng người ta thường dùng làm chuôi cán các nông cụ hay binh khí, như làm cán rựa, cán giáo mác, cây đỏi của cái cày … vì nó rất bền chắc. Nếu nó bị hơi cong, người ta dùng lửa hơ cho nóng đoạn cong đó rồi uốn lại cho thẳng. Người ta cũng dùng thân tre rừng có độ già để làm nhà hay trại có độ bền trăm năm, sau một thời gian ngâm tre dưới nước bùn để tránh mối mọt ăn sau này.

Nghề nông cổ truyền (II)

II. NHỮNG NÔNG CỤ DÙNG TRONG VẬN CHUYỂN KHI GIEO TRỒNG, THU HOẠCH1/ Giỏ trạc mạ :
Giỏ trạc mạ không phải là cái bội ở Quảng Nam, Bình Định hay cái sọt ở phía Bắc. Về hình dáng và cách đan thì có giống nhau, nhưng cái bội ngắn hơn, chỉ bằng một nửa chiều cao của giỏ trạc mạ. Miệng cái bội lớn hơn đáy bội, thường người ta hay nhốt gà.
Giỏ trạc mạ đan bằng tre, cao khoảng 1m, đường kính trên miệng giỏ khoảng 0,7m, trên dưới có đường kính gần bằng nhau. Giỏ trạc mạ dùng để đựng mạ, gánh ra ruộng cho người cấy, sau khi ruộng đã được cày bừa xong. Vì phải đựng nhiều mạ, gánh nặng nên phần trên miệng giỏ trạc mạ người thợ đan phải cuốn vành thật dày để có độ bền chắc. Muốn cho vững chắc hơn, người ta còn bện thêm hai sợi dây quai vào hai bên đối diện miệng giỏ, nơi cây đòn gánh tra vào.
Giỏ trạc mạ còn dùng để đựng bắp, cỏ … gánh về nhà. Giỏ trạc mạ đi đôi với đòn gánh dành riêng cho giỏ.
2/ Gióng và đòn gánh : 
Chiếc gióng, đôi gióng (miền Bắc gọi là quang) là một vật dụng rất cần thiết  trong nghề nông. Đưa mạ, đưa phân bón ra đồng, đưa lúa từ ruộng về nhà, đưa gạo, ngũ cốc ra chợ, đi bán rong thức ăn thức uống … không thể không có đôi gióng và cái đòn gánh. Gióngđược làm bằng mây, và chỉ có mây thắt gióng thì gióng mới lâu bền. Tùy theo sử dụng gióng mà người ta dùng các loại mây khác nhau.Mây conmây nước chỉ dùng thắt những đôi gióng nhỏ, gánh những vật liệu nhẹ. Mây xà vuông dùng để thắt gióng gánh những vật liệu nặng như phân bón, bó lúa, gạch, đất … Mây to phải chẻ đôi, chẻ tư, chuốt sạch bớt một phần bụng sợi mây. Phần tết lại những sợi dây mây để tạo thành một hình chữ nhật có lỗ để xỏ đầu đòn gánh vào đòi hỏi phải có kỹ thuật và khéo tay. Gióng có loại gióng 6 mây dùng để gánh những vật nặng. Người ta cũng có thể dùng tre cật chẻ ra thắt gióng nhưng sử dụng không bền, để lâu dễ mốc, mục, gãy.
Gióng gồm có đế gióng và 4 hay 6 quai gióng ở 4 góc.

Nghề nông cổ truyền (III)

1/ Vòng hái :
Dân địa phương có câu đố : Cái gì có vòi không phải con voi / Nó thấy lúa chín nó đòi ăn ngay ? Đó chính là cái vòng hái. Tự điển của Huình Tịnh Paulus Của (sđd) định nghĩa vòng hái là cái vòng bằng cây có thể tra lưỡi hái. Vòng hái dùng để gặt lúa. Đã là đi gặt hái, thời trước, ai cũng có ít nhất một cái vòng hái, phù hợp với những chân ruộng trũng.
Vòng hái có hai bộ phận : Phần vòng hái và lưỡi hái.
Phần vòng hái có hình chữ V không đều hai nét. Vòng hái thường làm bằng một đoạn cây rừng, loại cây nhẹ như cây còng, cây mù u, cây quao ..., sau khi chặt về người ta còn phải chuốt gọt lại cho vừa kích cỡ. Vòng hái còn làm bằng nhánh cây tre già đặc ruột. Người ta còn làm vòng hái bằng gỗ, hai cạnh chữ V được ghép chặt lại bằng mộng hay vặn vít.
Vòng hái tuy có hình chữ V nhưng có một cạnh thẳng đứng chứ không xiên như trong chữ V ta gọi là thanh A, có độ lớn bằng cán rựa (đường kính khoảng 3 - 4cm), dài khoảng 0,6m, đó là tay cầm của người gặt. Một mặt của thanh A ở cuối thanh, ngay chỗ tay cầm vòng hái, người ta đục khoét một đường rãnh hình chữ nhật, rộng 1cm, dài 10cm và sâu vào 1cm. Phía mặt bên kia, người ta kẽ sâu một đường dài khoảng 2cm, sâu 1mm phía trên đường mặt kia.
Còn cạnh chữ V còn lại ta gọi là thanh B, có đường kính của thanh nhỏ hơn thanh A, nhưng có chiều dài dài hơn và hơi vòng cong ra phía ngoài. Mũi của thanh B được vót nhọn, đường kính có xu hướng nhỏ dần về phía mũi.
Lưỡi hái, phần lưỡi dài 20cm, đầu bằng, phần chuôi dài có móc để tra vào thanh vòng. Khi dùng vào việc gặt lúa, người ta lấy chiếc lưỡi hái tra vào cái rãnh ở thanh A , ấn qua đường kẽ nhỏ, phần đuôi còn lại có mũi nhọn bấm chặt vào lòng của đường rãnh. Sau đó, dùng một mảnh tre có độ dài và rộng đậy vừa khít cái rãnh, rồi buộc dây lại cho chặt để khi cắt lúa, lưỡi hái không lung lay, hay bật cái đuôi nhọn ra ngoài làm trở ngại bàn tay cầm vòng hái gặt lúa.

Vòng hái (Ảnh Internet)

Tìm kiếm Blog này