Hình từ Phan Thanh Nam
Tôi thì thấy rất ngầu nhưng không ít bạn trẻ chê bai thời xưa: lính gì thấp bé ốm đói như ăn mày. Gươm dài sao xoay sở nhanh, khiên mây vậy đỡ sao được. Thành viên của nhóm nghiên cứu lịch sử mà nói thế là quá cạn. Nhận xét phải đặt mình vào bối cảnh để góc nhìn có sự khách quan. Nếu không biết rành thì cố tìm hiểu còn làm biếng thì dỏng tai mà nghe người biết hơn bình luận.
Một bạn giải thích thế này, nghe hợp lý.
Tim thông tin blog này:
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024
Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2023
Đâu là sự thật về Chiếu thoái vị của vua Bảo Đại.
Có mấy bản được đăng trên báo và mạng. Trong đó có bản ghi lại trong sách "Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam" của Bảo Đại. Bảo Đại sau khi kể lể, rồi cương lên Trẫm có 3 yêu cầu với chính phủ mới, mà thực ra là ông ta mong ước... (xem dưới)
Bản dưới đây có độ tin cây, phù hợp với tâm thế con người Bảo Đại. Đúng với bản chụp ở trung tâm lưu trữ quốc gia và trong hồi ký của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn cũng có chép lại.
Nội dung trong phần phụ lục như sau:
Bản dưới đây có độ tin cây, phù hợp với tâm thế con người Bảo Đại. Đúng với bản chụp ở trung tâm lưu trữ quốc gia và trong hồi ký của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn cũng có chép lại.
Nội dung trong phần phụ lục như sau:
Thứ Năm, 18 tháng 5, 2023
TIẾNG KHÓC TRÊN ĐÈO CÙ MÔNG
(Ảnh Đèo Cù Mông chụp những năm 20 thế kỷ XX)
Núi Cù Mông nằm ở phía bắc huyện Đồng Xuân và huyện Sông Cầu. Nửa núi phía bắc thuộc về địa giới huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, trên núi có trạm Bình Phú là một trạm dịch để liên lạc, thông tin, chạy giấy tờ giữa các địa phương; Phía tây có núi Nhuệ, núi Giả và Hùng Sơn, phía đông có núi Hùng, phía bắc có núi Qui. Núi đồi trùng điệp, địa thế rất hiểm yếu. Nằm chếch lên hướng tây có núi Phú Cốc, còn có tên khác là núi Hổ có hình giống như con hổ nằm phủ phục.
Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023
ĐÃ TÌM RA CHÂN DUNG VUA QUANG TRUNG?
Tác giả: NGUYỄN DUY CHÍNH
1. HÌNH ẢNH VUA QUANG TRUNG THEO SỬ CŨ
Cho đến gần đây, khuôn mặt vua Quang Trung vẫn còn là một câu hỏi. Tuy chính sử và ngoại sử cũng có những chi tiết đề cập đến dung mạo, hình dáng và y phục của ông nhưng quá mơ hồ và đáng tin đến mực nào thì vẫn không ai dám khẳng định.
Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021
Thời gian Nguyễn Ánh lưu lạc ở Xiêm.
Góc nhìn An Nam
Những dòng lịch sử dân tộc thấy câu chuyên này hay tôi đành viết theo ý của mình về cuộc đời về Vua Gia Long.
Câu chuyện khá dài nếu không được bạn có thể lướt qua, tôi mong ai đó đủ kiên nhẫn đọc hết để biết được về vị vua này .
Ngày trước có lẽ chúng ta được dạy rằng Nguyễn Ánh hèn hạ lưu vong ở Xiêm làm lính đánh thuê cho ngoại bang, vậy nay tôi muốn kể lại câu chuyện đó theo một góc nhìn khác hơn.
Như chúng ta đã biết, sau đại bại ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút trước thiên tài Nguyễn Huệ, tàn quân Xiêm còn sống trở về Băng Cốc chẳng còn được bao nhiêu. Nguyễn Ánh nhờ biết trước kết cục của Xiêm La, thành thử đi sau nên may mắn thoát nạn chạy về đất Thái, tạo nên giai thoại Gia Long tẩu quốc.
Thua rồi sao?
Thua rất nặng. Cháu của bệ hạ chủ quan khinh địch, gần như toàn bộ lính của ngài đều bỏ xác dưới sông Tiền.
Nguyễn Ánh kể lại sự tình cho Rama. Nghe xong quốc vương Xiêm nổi cơn thịnh nộ:
-Hai thằng cháu ta kiêu căng tự phụ vào sâu trong đất địch, không nghe lời quốc vương An Nam, tàn hại nhân dân nước ấy, làm nhục quốc thể!
Liền thét lôi ra chém. Rama cảm thấy xấu hổ, trước đây quân Nguyễn Ánh giúp ông làm nên cuộc đảo chính mở ra triều đại Chakri, cứu được cả gia đình bị cựu vương Taksin bắt giam. Nay Nguyễn Ánh nhờ cậy mà không giúp được nên có phần áy náy.
Ta sẽ cấp cho ông đất ở Tomsamrong, ngoại ô Bangkok. Ông cứ ở đấy mà sống.
Đa tạ bệ hạ.
Nguyễn Ánh cười buồn và bắt đầu cuộc sống ở quốc gia mới, Thái Lan. Rama đều đặn mỗi năm chu cấp cho Nguyễn vương 400 baht để tiêu dùng. Vua Xiêm cũng tặng cho Nguyễn Ánh những huy hiệu, một khay trầu, một bình nước hoàng kim, một thanh gươm khảm vàng và một lọng che cán ngắn. Nguyễn Ánh không cô đơn vì bấy giờ bên Thái Lan cũng có một thanh niên khốn khổ đang sinh sống là ông hoàng Nặc Ông Ấn của Campuchia. Cả hai đều được Rama đối xử như những hoàng tử lưu lạc theo nghi lễ trên đất nước họ. So với lão Campuchia thì Ánh đen hơn nhiều, lúc đó không có cả đất lẫn dân. Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đều gửi thư cho Rama yêu cầu giao người, nhưng vua Xiêm thấy lời lẽ trong thư trịch thượng nên càng ủng hộ Nguyễn Ánh.
Nguyễn Ánh ngoài việc khẩn hoang làm ruộng, chiêu mộ binh sĩ, cũng được lâm triều. Ông di chuyển bằng một chiếc thuyền kiểu Việt Nam có sáu tay chèo và vài tuỳ tùng che lọng. Trong triều đình Thái Lan, Nguyễn Ánh được xếp tại một sảnh phía tây điện Amarin, ngay trước tổng quản Ngự Lâm Quân. Khi thiết triều, tất cả các quan quỳ mọp chắp tay trước vua Rama, còn Nguyễn Ánh mặc y phục và đóng khăn kiểu Việt, ngồi xếp bằng trước ngai vàng đối diện vua Xiêm, có phiên dịch viên là Phra Ratchamontri.
Mẹ và gia quyến Nguyễn vương cũng được hưởng bổng lộc. Những người đi theo Nguyễn Ánh được ra khơi đánh cá mưu sinh mà không bị cản trở. Triều đình Thái Lan cho phép từ phó vương trở xuống được kinh doanh để "kiếm thêm", nói chung có mùi chủ nghĩa tư bản nhen nhúm.
Nếu có dịp đi qua Thái Lan những năm ấy để check in sống ảo, có thể bạn sẽ gặp cảnh tượng thú vị khi chứng kiến "Ông Thượng Sư" Nguyễn Ánh làm huấn luyện viên "dance sport" cho vũ công Xiêm. Vị chúa tài hoa này hướng dẫn cho người Thái một số điệu múa cung đình của người Việt và chúng vẫn còn lưu truyền tới ngày nay. Còn chờ gì mà không selfie một tấm với vua Gia Long sau buổi tập?
Nguyễn Ánh vẫn chưa thôi khát vọng. Ông tuyển mộ binh lính, đóng ráp chiến thuyền, và ngầm liên lạc với điệp viên trong nước để "một là báo phục, hai là bá vương". Người Thái tuy một mặt cưu mang chúa Nguyễn nhưng vẫn có tâm lý đề phòng. Nếu Nguyễn Ánh phục quốc thành công thì sẽ trở thành một địch thủ đáng quan ngại ở phía đông. Nhưng tình cờ Miến Điện lại xâm lược...
Lại nói Myanmar ngày xưa vốn là một thế lực quân sự khét tiếng, họ ở gần cả Ấn Độ lẫn Trung Quốc mà không bị đô hộ, còn đánh cho nhà Thanh thảm bại 4 lần. Vua Miến Điện Bodawhpaya ra lệnh:
Chia 5 đạo quân chiếm lấy Xiêm La cho trẫm!
Rama điều động:
Đem 7 vạn quân ra trấn giữ 4 trọng điểm. Hoàng đệ trẫm sẽ chặn quân Miến ở ải Ba Chùa. Cháu trẫm sẽ ngăn chúng ở Naknon Sawan, cản bước chúng tràn về đồng bằng. Các tướng quân tuyệt đối không để Ratburi thất thủ. Đích thân trẫm sẽ phòng thủ Bangkok!
Quân Miến Điện tiến rất nhanh và tràn như châu chấu vào lãnh thổ Thái Lan, khép chặt vòng vây. Thái Lan xưa nay luôn ở chiếu dưới khi so găng cùng tên láng giềng hùng mạnh. Tuy quân Thái từng cắt được đường chở lương buộc một cánh quân Miến phải rút về, nhưng kinh thành Bangkok vẫn bị đe doạ. Nguyễn Ánh lập tức tâu:
Bọn Miến Điện hành quân từ xa đến, chở lương đi nghìn dặm đã mệt mỏi lắm rồi. Tôi giúp sức đánh nhanh chắc là được!
Thế là Nguyễn vương tập hợp binh lính, nai nịt gọn gàng rồi lên ngựa trực chỉ Thavoi. Theo chân dung 13 vua triều Nguyễn, hầu hết nom hiền lành, chỉ có Gia Long và Minh Mạng là nhìn có phong thái "đại ca" nhất. Nếu Minh Mạng là người đem về lãnh thổ to số một, thì Gia Long đúng nghĩa một chiến binh thực thụ. Có lần Rama hỏi thăm:
Ông sợ à?
Tôi không sợ. Nhà nước tôi trải đời truyền nối 200 năm, nay quốc vận trung suy, Tây Sơn lại tàn sát dã man gia tộc, nhưng tôi ít đức kém tài không làm gì được, thành ra buồn bã trong lòng. Nghĩ muốn trả thù, bắt giặc Tây Sơn làm thịt mà ăn, nằm gai nếm mật bao nhiêu cũng được. Có sợ gì đâu?
Anh hùng Gia Định Châu Văn Tiếp tình cờ đi ngang nghe thấy, liền bước tới quỳ xuống ôm đầu gối Nguyễn Ánh mà khóc. Rama cảm động phục chúa, khen tôi. Chinh chiến từ 15 tuổi, trong bất kỳ chiến dịch, trận đánh hay pha combat lớn nào, Gia Long cũng đều xung trận chỉ huy và được lịch sử công nhận là một chiến tướng tài giỏi.
Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, sử dụng ống phun lửa. Châu Thị Đậu, theo ta!
Nguyễn vương trỏ gươm, nổi trống. Quân Miến Điện bị tấn công bất ngờ, tan vỡ đội hình. Nguyễn Ánh và các tướng tả xung hữu đột chém giết, quân Miến xác chết đầy đồng, 500 tên bị bắt sống giải về Bangkok. Rama được tin mừng lắm, tặng Ánh vàng lụa và đề nghị:
Tôi sẽ lại giúp ông đánh Tây Sơn.
Tuy nhiên Nguyễn Văn Thành trong buổi họp đã nói với chúa Nguyễn:
Vua Thiếu Khang chỉ còn một xíu quân còn dựng được cơ nghiệp nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh, đợi địch sơ hở rồi đánh. Đừng mượn người ngoài giúp nữa, sẽ có hậu hoạ về sau.
Ngươi nói rất phải.
Nguyễn Ánh gật đầu và gác chuyện ấy lại. Nguyễn vương tìm cách liên lạc với người Bồ Đào Nha và được hứa giúp cho một số chiến thuyền. Nhưng điều này là tối kỵ vì theo luật của Thái thì cấm giao thiệp với nước ngoài mà không do Bangkok chủ trì. Tuy Rama hậu đãi chúa Nguyễn, nhưng hoàng đệ Sathanmongkhon lại không thích. Hắn lo đội quân của Nguyễn Ánh sẽ đủ sức tạo nên một cuộc đảo chính trong Bangkok và là mối hiểm hoạ chết người cho triều đại Chakri. Nguyễn Ánh dò biết được, bèn tập hợp tâm phúc để nói:
Chúng ta trốn Tây Sơn đến đây được vua Rama che chở. Ông ấy đối với ta rất tốt và chu đáo, ta thực sự vui lòng. Rama cũng giúp ta đánh Tây Sơn khôi phục vương quốc nhưng bất thành. Hiện ông ấy đang lo lắng về Miến Điện, xem ra khó giúp ta được nữa. Nếu ta đề nghị Rama cho ta rời đất Thái để tự sức phục quốc, e rằng ông ấy sẽ giận. Chi bằng lén trốn đi thì mới mong thành công.
Mọi người bàn tán một lúc rồi nhất trí. Nguyễn Ánh nói tiếp:
Ta sẽ viết một lá thư và để nó trên bệ thờ. Các ngươi chuẩn bị thuyền lớn và đợi ta ở đảo Sichang.
Tối hôm đó Nguyễn vương mời các thị vệ dưới quyền chỉ huy của cháu Rama đến nhà nhậu. Nguyễn Ánh cười và chuốc rượu. Mấy anh thị vệ say quắc cần câu. Xong xuôi, ông nói khẽ:
Trói họ lại và đem xuống khoang thuyền.
Nguyễn Ánh lần mò trong đêm tối, dẫn theo gia quyến cùng mấy người Việt khác sống ở Bangkok, gồm thợ cả của các đội chạm, mộc, khắc của kinh thành. Tất cả lên thuyền rồi hối hả nhổ neo dưới ánh trăng. 150 người trên 4 thuyền, chèo điên cuồng về Việt Nam.
Dân chúng biết được và báo cho hoàng gia. Rama và em trai hay tin đều bất ngờ. Sathanmongkhon vô cùng tức tối vì để sổng con mồi:
Cử mấy tay chèo khoẻ nhất ra đây, phải bắt cho được chúng. Ta sẽ đi cùng các ngươi!
Quân Xiêm khẩn trương rượt và đến tảng sáng họ đã thấy thuyền Nguyễn vương ở cửa vịnh. Lúc ấy vô cùng nguy cấp vì trời lặng gió, không thể giương buồm được. Nguyễn Ánh toát mồ hôi, đốt nến, thắp hương, và thiêu vàng mã để cầu khấn thần thánh:
Nếu trời cho ta thoát chết để đánh bại kẻ thù và khôi phục giang sơn như lòng ta bao lâu nay mong mỏi thì hãy nổi gió lên.
Sathanmongkhon gầm lớn:
Ngươi chạy đi đâu?
Đoàn thuyền ngự kéo đến mỗi lúc một đông như kiến cỏ mà gió vẫn không thèm thổi. Nguyễn Ánh hối:
Chèo mau lên, nhanh nữa lên!
Nhưng thuyền Xiêm mỗi lúc một đến gần, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Nguyễn Ánh cay đắng:
Nếu ta chạy không thoát và người Thái bắt được ta chắc chắn sẽ giết không tha, hoặc sẽ giam cầm suốt đời. Thiên mệnh đã tuyệt thì ta cũng chẳng sống làm gì cho chật đất.
Nguyễn Ánh bằng một động tác dứt khoát tuốt gươm ra khỏi vỏ đưa lên cổ. Một tâm phúc nhảy vào giằng lấy khiến lưỡi gươm cắt đứt môi. Anh ta khóc nói:
Chúa thượng việc gì phải vội vã tự vẫn như thế? Trước khi rời đất Thái, chúng ta đã cầu khấn và xin âm dương. Ông trời nói rõ chúng ta sẽ thoát nạn và hoàn thành đại nghiệp. Chúa thượng chính là chân mạng đế vương!
Nguyễn Ánh nhắm mắt thở dài:
Có cách nào?
Mùa này chính là mùa gió nổi để đưa chúng ta ra khơi. Bây giờ còn sớm nên chưa thấy. Chỉ chút nữa sẽ ứng nghiệm.
Khi người tâm phúc vừa dứt câu thì gió mạnh nổi lên đùng đùng, bốn chiếc thuyền Việt Nam dùng cả buồm lẫn chèo bứt tốc cho thuyền Thái Lan ngửi khói. Nguyễn Ánh mừng rỡ, vẫy tay chào tên hoàng đệ đang điên tiết chửi thề. Thuyền của họ rẽ sóng vươn ra hải phận quốc tế rồi đến đảo Sichang. Nguyễn Ánh gặp chiếc thuyền đã hẹn, ông kể lại:
Lần này thoát nhờ vua Rama nhân ái cấm các viên chức hải phòng làm khó dễ thuyền chúng ta. Còn bây giờ đi đâu?
Dạ, đảo Dot thì quá gần Tây Sơn. Đảo Kut gần Thái Lan nên Tây Sơn sẽ không mạo hiểm đâu. Ở đây chắc đủ nước ngọt. Sang đó nghỉ ngơi sẽ tốt hơn cả.
Lại nói Sathanmongkhon hụt mất Nguyễn Ánh thì trở về Bangkok méc anh và xin thêm chiến thuyền. Vua Rama cho người đến lục soát nơi ở Nguyễn Ánh thì tìm thấy lá thư:
Tôi, Nguyễn Phúc Ánh, đã đến sống dưới sự che chở của bệ hạ. Ngài đã nhân đức chăm lo khiến tôi rất vui lòng. Tuy nhiên lúc này tôi rất quan tâm về đất nước, nếu như công khai xin bệ hạ cho tôi trở về e rằng bệ hạ sẽ quở trách. Thành thử tôi đành phải trốn đi, nhưng tôi không hề có ý định âm mưu nổi loạn hay làm hại hoàng thượng một chút nào.
Rama đọc xong lá thư, ngăn em trai lại:
Đừng đuổi bắt hắn làm chi. Hắn thấy ta không giúp được vì chính ta cũng đang bận rộn với những cuộc chiến. Hắn quyết định bỏ đi để thực hiện công cuộc phục quốc. Chúng ta đã đối đãi với hắn vô cùng hậu hĩ. Viết bằng tay rồi lại xoá đi bằng chân thì không phải chút nào.
Sathanmongkhon hậm hực:
Gã Phúc Ánh này nếu chúng ta để hắn đi mà không bắt lại. Trong tương lai khi triều đại này qua rồi, thế nào hắn cũng gây rắc rối cho con cháu ta. Đệ khẳng định luôn. Hắn sống ở Bangkok mấy năm và cái gì cũng biết. Hiện nay tại Samutprakan không có gì đáng lo vì ta không có kẻ thù đến từ biển cả. Nhưng nếu sau này Nguyễn Ánh trở mặt đánh lại thì so tài với hắn không hề dễ dàng. Nếu huynh không cho phép rượt hắn thì hãy để đệ xây một thành phố ngoài cửa biển đề phòng.
Rama bằng lòng cho xây một chiến luỹ tại Lat Tonpho, nhưng xây chưa xong thì Miến Điện lại gây sự. Lại nói đoàn thuyền chúa Nguyễn 5 chiếc vượt trùng khơi, sau 7 ngày đêm thì mới cập bến đảo hoang Kut. Họ không đủ lương thực nên Nguyễn Ánh phải bắt cả rùa và đào củ dại mà ăn. Một bữa nọ, ông thấy một chiếc thuyền ghé lại gần đảo. Nguyễn Ánh cảnh giác dắt cả nhà chạy vào rừng và thăm dò xem nó từ đâu tới. Hoá ra là thuyền chở gạo của một người Hoa tên Hun sống ở Chanthaburi, đi từ Thái Lan về Cà Mau và Rạch Giá.
Tương kiến Nguyễn vương.
Hun vái tạ. Nguyễn Ánh nói:
Bọn ta sống trên đảo này không có gạo ăn. Sẵn đây tiền để dành do vua Xiêm cấp, hãy bán gạo cho ta theo giá của ngươi.
Nguyễn vương ăn ở thiếu thốn đã lâu. Tôi xin hiến tặng miễn phí toàn bộ số gạo trên thuyền.
Nguyễn Ánh lắc đầu, ông lấy giấy bút viết một biên nhận rồi đóng dấu hình rồng đưa cho Hun, nói:
Nếu ngày kia ta thành công và trở thành vua nước Nam, ngươi cứ đến gặp để ta báo ơn.
Hun dỡ hết gạo trên tàu xuống và từ biệt chúa Nguyễn để trở về nhà. Vua Rama nghe tin Nguyễn Ánh đang lưu lạc ở Kut, bèn ra lệnh cho vài chiến thuyền mang theo súng ống, đạn dược, đồng thời dặn các quan ở Trat đem chúng đến đảo tặng Nguyễn Ánh. Hoàng đế Việt Nam tương lai mừng lắm:
Đã tới lúc trở về Gia Định và dạy cho Nguyễn Lữ một bài học.
Và cuối thu năm 1787, họ đổ bộ lên những hòn đảo Việt Nam, bắt đầu huyền thoại Gia Long phục quốc.
Ảnh: Rama và Gia Long. Triều đại của Rama vẫn đang cai trị Thái Lan tới 2016, còn triều đại của Gia Long đã kết thúc từ 1945.
Ps: Bài củ đăng lại sưu tầm
____________
(Tựa đề: TC
Nguyễn Ánh (Ong Chiang Sue) trong một buổi thiết triều của vua Rama I tại điện Amarin năm 1782. (Chúa Nguyễn ngồi xếp bằng chứ không quỳ mọp như các quan Xiêm La).
Tranh vẽ 1987, hình chụp lại đưa vào sách kỷ yếu hoàng gia Thái Lan.
Những dòng lịch sử dân tộc thấy câu chuyên này hay tôi đành viết theo ý của mình về cuộc đời về Vua Gia Long.
Câu chuyện khá dài nếu không được bạn có thể lướt qua, tôi mong ai đó đủ kiên nhẫn đọc hết để biết được về vị vua này .
Ngày trước có lẽ chúng ta được dạy rằng Nguyễn Ánh hèn hạ lưu vong ở Xiêm làm lính đánh thuê cho ngoại bang, vậy nay tôi muốn kể lại câu chuyện đó theo một góc nhìn khác hơn.
Như chúng ta đã biết, sau đại bại ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút trước thiên tài Nguyễn Huệ, tàn quân Xiêm còn sống trở về Băng Cốc chẳng còn được bao nhiêu. Nguyễn Ánh nhờ biết trước kết cục của Xiêm La, thành thử đi sau nên may mắn thoát nạn chạy về đất Thái, tạo nên giai thoại Gia Long tẩu quốc.
Thua rồi sao?
Thua rất nặng. Cháu của bệ hạ chủ quan khinh địch, gần như toàn bộ lính của ngài đều bỏ xác dưới sông Tiền.
Nguyễn Ánh kể lại sự tình cho Rama. Nghe xong quốc vương Xiêm nổi cơn thịnh nộ:
-Hai thằng cháu ta kiêu căng tự phụ vào sâu trong đất địch, không nghe lời quốc vương An Nam, tàn hại nhân dân nước ấy, làm nhục quốc thể!
Liền thét lôi ra chém. Rama cảm thấy xấu hổ, trước đây quân Nguyễn Ánh giúp ông làm nên cuộc đảo chính mở ra triều đại Chakri, cứu được cả gia đình bị cựu vương Taksin bắt giam. Nay Nguyễn Ánh nhờ cậy mà không giúp được nên có phần áy náy.
Ta sẽ cấp cho ông đất ở Tomsamrong, ngoại ô Bangkok. Ông cứ ở đấy mà sống.
Đa tạ bệ hạ.
Nguyễn Ánh cười buồn và bắt đầu cuộc sống ở quốc gia mới, Thái Lan. Rama đều đặn mỗi năm chu cấp cho Nguyễn vương 400 baht để tiêu dùng. Vua Xiêm cũng tặng cho Nguyễn Ánh những huy hiệu, một khay trầu, một bình nước hoàng kim, một thanh gươm khảm vàng và một lọng che cán ngắn. Nguyễn Ánh không cô đơn vì bấy giờ bên Thái Lan cũng có một thanh niên khốn khổ đang sinh sống là ông hoàng Nặc Ông Ấn của Campuchia. Cả hai đều được Rama đối xử như những hoàng tử lưu lạc theo nghi lễ trên đất nước họ. So với lão Campuchia thì Ánh đen hơn nhiều, lúc đó không có cả đất lẫn dân. Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đều gửi thư cho Rama yêu cầu giao người, nhưng vua Xiêm thấy lời lẽ trong thư trịch thượng nên càng ủng hộ Nguyễn Ánh.
Nguyễn Ánh ngoài việc khẩn hoang làm ruộng, chiêu mộ binh sĩ, cũng được lâm triều. Ông di chuyển bằng một chiếc thuyền kiểu Việt Nam có sáu tay chèo và vài tuỳ tùng che lọng. Trong triều đình Thái Lan, Nguyễn Ánh được xếp tại một sảnh phía tây điện Amarin, ngay trước tổng quản Ngự Lâm Quân. Khi thiết triều, tất cả các quan quỳ mọp chắp tay trước vua Rama, còn Nguyễn Ánh mặc y phục và đóng khăn kiểu Việt, ngồi xếp bằng trước ngai vàng đối diện vua Xiêm, có phiên dịch viên là Phra Ratchamontri.
Mẹ và gia quyến Nguyễn vương cũng được hưởng bổng lộc. Những người đi theo Nguyễn Ánh được ra khơi đánh cá mưu sinh mà không bị cản trở. Triều đình Thái Lan cho phép từ phó vương trở xuống được kinh doanh để "kiếm thêm", nói chung có mùi chủ nghĩa tư bản nhen nhúm.
Nếu có dịp đi qua Thái Lan những năm ấy để check in sống ảo, có thể bạn sẽ gặp cảnh tượng thú vị khi chứng kiến "Ông Thượng Sư" Nguyễn Ánh làm huấn luyện viên "dance sport" cho vũ công Xiêm. Vị chúa tài hoa này hướng dẫn cho người Thái một số điệu múa cung đình của người Việt và chúng vẫn còn lưu truyền tới ngày nay. Còn chờ gì mà không selfie một tấm với vua Gia Long sau buổi tập?
Nguyễn Ánh vẫn chưa thôi khát vọng. Ông tuyển mộ binh lính, đóng ráp chiến thuyền, và ngầm liên lạc với điệp viên trong nước để "một là báo phục, hai là bá vương". Người Thái tuy một mặt cưu mang chúa Nguyễn nhưng vẫn có tâm lý đề phòng. Nếu Nguyễn Ánh phục quốc thành công thì sẽ trở thành một địch thủ đáng quan ngại ở phía đông. Nhưng tình cờ Miến Điện lại xâm lược...
Lại nói Myanmar ngày xưa vốn là một thế lực quân sự khét tiếng, họ ở gần cả Ấn Độ lẫn Trung Quốc mà không bị đô hộ, còn đánh cho nhà Thanh thảm bại 4 lần. Vua Miến Điện Bodawhpaya ra lệnh:
Chia 5 đạo quân chiếm lấy Xiêm La cho trẫm!
Rama điều động:
Đem 7 vạn quân ra trấn giữ 4 trọng điểm. Hoàng đệ trẫm sẽ chặn quân Miến ở ải Ba Chùa. Cháu trẫm sẽ ngăn chúng ở Naknon Sawan, cản bước chúng tràn về đồng bằng. Các tướng quân tuyệt đối không để Ratburi thất thủ. Đích thân trẫm sẽ phòng thủ Bangkok!
Quân Miến Điện tiến rất nhanh và tràn như châu chấu vào lãnh thổ Thái Lan, khép chặt vòng vây. Thái Lan xưa nay luôn ở chiếu dưới khi so găng cùng tên láng giềng hùng mạnh. Tuy quân Thái từng cắt được đường chở lương buộc một cánh quân Miến phải rút về, nhưng kinh thành Bangkok vẫn bị đe doạ. Nguyễn Ánh lập tức tâu:
Bọn Miến Điện hành quân từ xa đến, chở lương đi nghìn dặm đã mệt mỏi lắm rồi. Tôi giúp sức đánh nhanh chắc là được!
Thế là Nguyễn vương tập hợp binh lính, nai nịt gọn gàng rồi lên ngựa trực chỉ Thavoi. Theo chân dung 13 vua triều Nguyễn, hầu hết nom hiền lành, chỉ có Gia Long và Minh Mạng là nhìn có phong thái "đại ca" nhất. Nếu Minh Mạng là người đem về lãnh thổ to số một, thì Gia Long đúng nghĩa một chiến binh thực thụ. Có lần Rama hỏi thăm:
Ông sợ à?
Tôi không sợ. Nhà nước tôi trải đời truyền nối 200 năm, nay quốc vận trung suy, Tây Sơn lại tàn sát dã man gia tộc, nhưng tôi ít đức kém tài không làm gì được, thành ra buồn bã trong lòng. Nghĩ muốn trả thù, bắt giặc Tây Sơn làm thịt mà ăn, nằm gai nếm mật bao nhiêu cũng được. Có sợ gì đâu?
Anh hùng Gia Định Châu Văn Tiếp tình cờ đi ngang nghe thấy, liền bước tới quỳ xuống ôm đầu gối Nguyễn Ánh mà khóc. Rama cảm động phục chúa, khen tôi. Chinh chiến từ 15 tuổi, trong bất kỳ chiến dịch, trận đánh hay pha combat lớn nào, Gia Long cũng đều xung trận chỉ huy và được lịch sử công nhận là một chiến tướng tài giỏi.
Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, sử dụng ống phun lửa. Châu Thị Đậu, theo ta!
Nguyễn vương trỏ gươm, nổi trống. Quân Miến Điện bị tấn công bất ngờ, tan vỡ đội hình. Nguyễn Ánh và các tướng tả xung hữu đột chém giết, quân Miến xác chết đầy đồng, 500 tên bị bắt sống giải về Bangkok. Rama được tin mừng lắm, tặng Ánh vàng lụa và đề nghị:
Tôi sẽ lại giúp ông đánh Tây Sơn.
Tuy nhiên Nguyễn Văn Thành trong buổi họp đã nói với chúa Nguyễn:
Vua Thiếu Khang chỉ còn một xíu quân còn dựng được cơ nghiệp nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh, đợi địch sơ hở rồi đánh. Đừng mượn người ngoài giúp nữa, sẽ có hậu hoạ về sau.
Ngươi nói rất phải.
Nguyễn Ánh gật đầu và gác chuyện ấy lại. Nguyễn vương tìm cách liên lạc với người Bồ Đào Nha và được hứa giúp cho một số chiến thuyền. Nhưng điều này là tối kỵ vì theo luật của Thái thì cấm giao thiệp với nước ngoài mà không do Bangkok chủ trì. Tuy Rama hậu đãi chúa Nguyễn, nhưng hoàng đệ Sathanmongkhon lại không thích. Hắn lo đội quân của Nguyễn Ánh sẽ đủ sức tạo nên một cuộc đảo chính trong Bangkok và là mối hiểm hoạ chết người cho triều đại Chakri. Nguyễn Ánh dò biết được, bèn tập hợp tâm phúc để nói:
Chúng ta trốn Tây Sơn đến đây được vua Rama che chở. Ông ấy đối với ta rất tốt và chu đáo, ta thực sự vui lòng. Rama cũng giúp ta đánh Tây Sơn khôi phục vương quốc nhưng bất thành. Hiện ông ấy đang lo lắng về Miến Điện, xem ra khó giúp ta được nữa. Nếu ta đề nghị Rama cho ta rời đất Thái để tự sức phục quốc, e rằng ông ấy sẽ giận. Chi bằng lén trốn đi thì mới mong thành công.
Mọi người bàn tán một lúc rồi nhất trí. Nguyễn Ánh nói tiếp:
Ta sẽ viết một lá thư và để nó trên bệ thờ. Các ngươi chuẩn bị thuyền lớn và đợi ta ở đảo Sichang.
Tối hôm đó Nguyễn vương mời các thị vệ dưới quyền chỉ huy của cháu Rama đến nhà nhậu. Nguyễn Ánh cười và chuốc rượu. Mấy anh thị vệ say quắc cần câu. Xong xuôi, ông nói khẽ:
Trói họ lại và đem xuống khoang thuyền.
Nguyễn Ánh lần mò trong đêm tối, dẫn theo gia quyến cùng mấy người Việt khác sống ở Bangkok, gồm thợ cả của các đội chạm, mộc, khắc của kinh thành. Tất cả lên thuyền rồi hối hả nhổ neo dưới ánh trăng. 150 người trên 4 thuyền, chèo điên cuồng về Việt Nam.
Dân chúng biết được và báo cho hoàng gia. Rama và em trai hay tin đều bất ngờ. Sathanmongkhon vô cùng tức tối vì để sổng con mồi:
Cử mấy tay chèo khoẻ nhất ra đây, phải bắt cho được chúng. Ta sẽ đi cùng các ngươi!
Quân Xiêm khẩn trương rượt và đến tảng sáng họ đã thấy thuyền Nguyễn vương ở cửa vịnh. Lúc ấy vô cùng nguy cấp vì trời lặng gió, không thể giương buồm được. Nguyễn Ánh toát mồ hôi, đốt nến, thắp hương, và thiêu vàng mã để cầu khấn thần thánh:
Nếu trời cho ta thoát chết để đánh bại kẻ thù và khôi phục giang sơn như lòng ta bao lâu nay mong mỏi thì hãy nổi gió lên.
Sathanmongkhon gầm lớn:
Ngươi chạy đi đâu?
Đoàn thuyền ngự kéo đến mỗi lúc một đông như kiến cỏ mà gió vẫn không thèm thổi. Nguyễn Ánh hối:
Chèo mau lên, nhanh nữa lên!
Nhưng thuyền Xiêm mỗi lúc một đến gần, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Nguyễn Ánh cay đắng:
Nếu ta chạy không thoát và người Thái bắt được ta chắc chắn sẽ giết không tha, hoặc sẽ giam cầm suốt đời. Thiên mệnh đã tuyệt thì ta cũng chẳng sống làm gì cho chật đất.
Nguyễn Ánh bằng một động tác dứt khoát tuốt gươm ra khỏi vỏ đưa lên cổ. Một tâm phúc nhảy vào giằng lấy khiến lưỡi gươm cắt đứt môi. Anh ta khóc nói:
Chúa thượng việc gì phải vội vã tự vẫn như thế? Trước khi rời đất Thái, chúng ta đã cầu khấn và xin âm dương. Ông trời nói rõ chúng ta sẽ thoát nạn và hoàn thành đại nghiệp. Chúa thượng chính là chân mạng đế vương!
Nguyễn Ánh nhắm mắt thở dài:
Có cách nào?
Mùa này chính là mùa gió nổi để đưa chúng ta ra khơi. Bây giờ còn sớm nên chưa thấy. Chỉ chút nữa sẽ ứng nghiệm.
Khi người tâm phúc vừa dứt câu thì gió mạnh nổi lên đùng đùng, bốn chiếc thuyền Việt Nam dùng cả buồm lẫn chèo bứt tốc cho thuyền Thái Lan ngửi khói. Nguyễn Ánh mừng rỡ, vẫy tay chào tên hoàng đệ đang điên tiết chửi thề. Thuyền của họ rẽ sóng vươn ra hải phận quốc tế rồi đến đảo Sichang. Nguyễn Ánh gặp chiếc thuyền đã hẹn, ông kể lại:
Lần này thoát nhờ vua Rama nhân ái cấm các viên chức hải phòng làm khó dễ thuyền chúng ta. Còn bây giờ đi đâu?
Dạ, đảo Dot thì quá gần Tây Sơn. Đảo Kut gần Thái Lan nên Tây Sơn sẽ không mạo hiểm đâu. Ở đây chắc đủ nước ngọt. Sang đó nghỉ ngơi sẽ tốt hơn cả.
Lại nói Sathanmongkhon hụt mất Nguyễn Ánh thì trở về Bangkok méc anh và xin thêm chiến thuyền. Vua Rama cho người đến lục soát nơi ở Nguyễn Ánh thì tìm thấy lá thư:
Tôi, Nguyễn Phúc Ánh, đã đến sống dưới sự che chở của bệ hạ. Ngài đã nhân đức chăm lo khiến tôi rất vui lòng. Tuy nhiên lúc này tôi rất quan tâm về đất nước, nếu như công khai xin bệ hạ cho tôi trở về e rằng bệ hạ sẽ quở trách. Thành thử tôi đành phải trốn đi, nhưng tôi không hề có ý định âm mưu nổi loạn hay làm hại hoàng thượng một chút nào.
Rama đọc xong lá thư, ngăn em trai lại:
Đừng đuổi bắt hắn làm chi. Hắn thấy ta không giúp được vì chính ta cũng đang bận rộn với những cuộc chiến. Hắn quyết định bỏ đi để thực hiện công cuộc phục quốc. Chúng ta đã đối đãi với hắn vô cùng hậu hĩ. Viết bằng tay rồi lại xoá đi bằng chân thì không phải chút nào.
Sathanmongkhon hậm hực:
Gã Phúc Ánh này nếu chúng ta để hắn đi mà không bắt lại. Trong tương lai khi triều đại này qua rồi, thế nào hắn cũng gây rắc rối cho con cháu ta. Đệ khẳng định luôn. Hắn sống ở Bangkok mấy năm và cái gì cũng biết. Hiện nay tại Samutprakan không có gì đáng lo vì ta không có kẻ thù đến từ biển cả. Nhưng nếu sau này Nguyễn Ánh trở mặt đánh lại thì so tài với hắn không hề dễ dàng. Nếu huynh không cho phép rượt hắn thì hãy để đệ xây một thành phố ngoài cửa biển đề phòng.
Rama bằng lòng cho xây một chiến luỹ tại Lat Tonpho, nhưng xây chưa xong thì Miến Điện lại gây sự. Lại nói đoàn thuyền chúa Nguyễn 5 chiếc vượt trùng khơi, sau 7 ngày đêm thì mới cập bến đảo hoang Kut. Họ không đủ lương thực nên Nguyễn Ánh phải bắt cả rùa và đào củ dại mà ăn. Một bữa nọ, ông thấy một chiếc thuyền ghé lại gần đảo. Nguyễn Ánh cảnh giác dắt cả nhà chạy vào rừng và thăm dò xem nó từ đâu tới. Hoá ra là thuyền chở gạo của một người Hoa tên Hun sống ở Chanthaburi, đi từ Thái Lan về Cà Mau và Rạch Giá.
Tương kiến Nguyễn vương.
Hun vái tạ. Nguyễn Ánh nói:
Bọn ta sống trên đảo này không có gạo ăn. Sẵn đây tiền để dành do vua Xiêm cấp, hãy bán gạo cho ta theo giá của ngươi.
Nguyễn vương ăn ở thiếu thốn đã lâu. Tôi xin hiến tặng miễn phí toàn bộ số gạo trên thuyền.
Nguyễn Ánh lắc đầu, ông lấy giấy bút viết một biên nhận rồi đóng dấu hình rồng đưa cho Hun, nói:
Nếu ngày kia ta thành công và trở thành vua nước Nam, ngươi cứ đến gặp để ta báo ơn.
Hun dỡ hết gạo trên tàu xuống và từ biệt chúa Nguyễn để trở về nhà. Vua Rama nghe tin Nguyễn Ánh đang lưu lạc ở Kut, bèn ra lệnh cho vài chiến thuyền mang theo súng ống, đạn dược, đồng thời dặn các quan ở Trat đem chúng đến đảo tặng Nguyễn Ánh. Hoàng đế Việt Nam tương lai mừng lắm:
Đã tới lúc trở về Gia Định và dạy cho Nguyễn Lữ một bài học.
Và cuối thu năm 1787, họ đổ bộ lên những hòn đảo Việt Nam, bắt đầu huyền thoại Gia Long phục quốc.
Ảnh: Rama và Gia Long. Triều đại của Rama vẫn đang cai trị Thái Lan tới 2016, còn triều đại của Gia Long đã kết thúc từ 1945.
Ps: Bài củ đăng lại sưu tầm
____________
(Tựa đề: TC
Tranh vẽ 1987, hình chụp lại đưa vào sách kỷ yếu hoàng gia Thái Lan.
Thứ Hai, 23 tháng 11, 2020
Việt Nam muốn thoát Hán tự khi nào, ai muốn?
Chả lâu đâu, Phạm Quỳnh một người yêu nước có công lớn trong việc nâng cao dân trí... Phạm Quỳnh luôn tự hào dân tộc An Nam đại diện là cho văn minh Hoa Hạ, ông đã viết trên Nam Phong tạp chí năm 1931 như thế này:
“Chủng tộc thuần một giống An Nam, văn hóa truyền tự nước Tàu, nghiễm nhiên thuộc về thế giới Chi-Na”
“Thiên chức của giống Việt Nam ta là phải thực dân cả cõi Đông Dương này, đem cờ hiệu Chi-na mà chiến đấu với thế với Ấn Độ, khiến cho dân Ấn- Độ Chi-na này thành một đất Chi-na dòng”
VN coi TQ là đại bá và mình muốn làm tiểu bá tự khi nào?
PQ là người học sâu biết rộng, đi nhiều. Ông bàn về cục diện Châu Á, quan tâm đến mối quan hệ 3 nước Đông Dương, ai quan tâm xem ở đây:
https://elearning.tdmu.edu.vn/elearning-ebook/T%E1%BA%A1p%20Ch%C3%AD%20S%E1%BB%91%20Ho%C3%A1/02.Du%20hanh%20va%20anh%20tuong%20dan%20toc%20Du%20an%20quoc%20gia%20qua%20the%20tai%20du%20ki%20cua%20chu%20but%20Nam%20Phong%20tap%20chi%20.pdf
“Chủng tộc thuần một giống An Nam, văn hóa truyền tự nước Tàu, nghiễm nhiên thuộc về thế giới Chi-Na”
“Thiên chức của giống Việt Nam ta là phải thực dân cả cõi Đông Dương này, đem cờ hiệu Chi-na mà chiến đấu với thế với Ấn Độ, khiến cho dân Ấn- Độ Chi-na này thành một đất Chi-na dòng”
VN coi TQ là đại bá và mình muốn làm tiểu bá tự khi nào?
PQ là người học sâu biết rộng, đi nhiều. Ông bàn về cục diện Châu Á, quan tâm đến mối quan hệ 3 nước Đông Dương, ai quan tâm xem ở đây:
https://elearning.tdmu.edu.vn/elearning-ebook/T%E1%BA%A1p%20Ch%C3%AD%20S%E1%BB%91%20Ho%C3%A1/02.Du%20hanh%20va%20anh%20tuong%20dan%20toc%20Du%20an%20quoc%20gia%20qua%20the%20tai%20du%20ki%20cua%20chu%20but%20Nam%20Phong%20tap%20chi%20.pdf
Kinh Việt và Tàu bản copy sau trước
Phan Quang
Ngay trong thời hiện đại bạn sẽ thấy Kinh Việt và Tầu có những điểm giống nhau kỳ lạ. Giống về tâm thức chứ không đơn thuần là cái xác bề ngoài.
Tàu coi họ là văn minh Trung Hoa, ánh sáng 5 ngàn năm. Việt lập thuyết Bách Việt coi Hà Đồ Lạc Thư, Kinh Dịch thảy đều là của mình, Tầu chỉ là đứa học mót, đoạt khống!
Người Tầu từ 20 năm trước có trào lưu Hán phục, Giờ Kinh Việt có trào lưu Việt phục. Tâm tính, cách nghĩ y xì đúc nhau, yêu nước như nhau, hành xử cũng hệt nhau.
Tầu gọi mình là Hán tộc, Việt có trào lưu Việt tộc. Trào lưu này chứng minh sự tinh túy, thuần chủng của người Kinh Việt.
Cũng phải nói rõ hơn khi người Việt lập quốc thì Choang tộc là khu trái độn giữa Việt và Tống. Choang (ở ta gọi là Tày, Nùng, Thái) cũng tiếp xúc với văn hóa văn minh China sớm hơn ta, nhưng họ lại không bị Hán hóa.
Ta thì từ tâm tính tới cách hành xử hệt anh Tầu con. Nhiều người Việt tỏ ra khinh Cham. Họ kiên quyết bài bác bàn tay khối óc của Cham góp vào văn minh sông Hồng.
Hầu hết những gì mà người Việt hiện đại đang dùng để chống Tầu, khẳng định tình yêu dân tộc, quốc gia đều hệt anh Tầu. Chỉ khác là Tầu luôn đi trước, ta lũi cũi đi sau học mót.
Nếu nói là không có di truyền chi phối từ Hán tộc (văn hóa Hán) thì mới là lạ.
Không sòng phẳng với mình, không dám vượt lên tồn đọng quá khứ, loay hoay trong vòng hào quang ảo và giá trị của một lịch sử sáng tạo. Đó cũng là nguồn cơn của những bí bách tư tưởng của người Việt Nam hiện đại.
Ta bước qua đời nhau, để làm nhau đau!
https://www.facebook.com/song.han.9461/posts/3477774728969028
Tàu coi họ là văn minh Trung Hoa, ánh sáng 5 ngàn năm. Việt lập thuyết Bách Việt coi Hà Đồ Lạc Thư, Kinh Dịch thảy đều là của mình, Tầu chỉ là đứa học mót, đoạt khống!
Người Tầu từ 20 năm trước có trào lưu Hán phục, Giờ Kinh Việt có trào lưu Việt phục. Tâm tính, cách nghĩ y xì đúc nhau, yêu nước như nhau, hành xử cũng hệt nhau.
Tầu gọi mình là Hán tộc, Việt có trào lưu Việt tộc. Trào lưu này chứng minh sự tinh túy, thuần chủng của người Kinh Việt.
Cũng phải nói rõ hơn khi người Việt lập quốc thì Choang tộc là khu trái độn giữa Việt và Tống. Choang (ở ta gọi là Tày, Nùng, Thái) cũng tiếp xúc với văn hóa văn minh China sớm hơn ta, nhưng họ lại không bị Hán hóa.
Ta thì từ tâm tính tới cách hành xử hệt anh Tầu con. Nhiều người Việt tỏ ra khinh Cham. Họ kiên quyết bài bác bàn tay khối óc của Cham góp vào văn minh sông Hồng.
Hầu hết những gì mà người Việt hiện đại đang dùng để chống Tầu, khẳng định tình yêu dân tộc, quốc gia đều hệt anh Tầu. Chỉ khác là Tầu luôn đi trước, ta lũi cũi đi sau học mót.
Nếu nói là không có di truyền chi phối từ Hán tộc (văn hóa Hán) thì mới là lạ.
Không sòng phẳng với mình, không dám vượt lên tồn đọng quá khứ, loay hoay trong vòng hào quang ảo và giá trị của một lịch sử sáng tạo. Đó cũng là nguồn cơn của những bí bách tư tưởng của người Việt Nam hiện đại.
Ta bước qua đời nhau, để làm nhau đau!
https://www.facebook.com/song.han.9461/posts/3477774728969028
"Trần Quốc Tuấn lúc chưa dô đảng và Má Lê Lợi đội bàn cờ"
Ấy là con nói tượng hai ngài ở Phú Iên quê con chứ không có ý xúc phạm tiền nhân ạ!
(Ảnh từ @Đoàn Ngọc Thành)
(Ảnh từ @Đoàn Ngọc Thành)
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020
Nguyễn Ánh (Ong Chiang Sue) trong một buổi thiết triều của vua Rama I
tại điện Amarin năm 1782.
(Chúa Nguyễn ngồi xếp bằng chứ không quỳ mọp như các quan Xiêm La).
Bức tranh vẽ này được treo trong cung điện Thái Lan, có DLV chửi mọi TL coi VN như một chư hầu, NA quỳ là một sự sỉ nhục. Ý nói chầu thiên triều TQ nước mẹ mới xứng đáng. Tôi không nghĩ vậy, trong khi NA đang thất thế, bôn tẩu đi cầu viện nước ngoài, vua Xiêm ứng xử vậy là trọng thị đúng lễ ngoại giao.
Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2019
Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là 'vô lý'
Tiến sỹ Nguyễn Văn HuyGửi cho BBC từ Pháp
17 tháng 9 2014
17 tháng 9 2014
cộng đồng người Khmer Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán Việt Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.
Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát biểu của ông Trần Văn Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói rằng miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao lại cho Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết :
"Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.
Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017
Thành cổ Việt Nam
MỘT SỐ THÀNH CỔ VIỆT NAM Qua các hình ảnh trên, có thể thấy nghệ thuật xây dựng thành trì của các cụ ta rất tiến bộ thậm chí là vượt cả nghệ thuật xây thành của Trung Quốc. Để chứng minh cho điều này admin xin phép dành vài dòng cho quan niệm của người Trung Quốc cái đã. Người Trung Quốc thường bị đe dọa bởi hàng loạt các bộ tộc du mục phía Bắc, tiêu biểu là Hung Nô, Mông Cổ, Kim - Mãn,.... Các bộ tộc này thường giỏi đánh trận mở nhưng lại yếu trong vây hãm vì vậy chỉ có một thứ có thể bảo vệ được họ lâu dài khỏi các cuộc xâm lăng của tộc người phía Bắc - đó chính là các bức tường, các bạn nếu để ý trong phim TQ sẽ thấy hiếm có ngôi nhà nào mà không có tường rào, là thứ tường rào của họ vững chắc chứ không chỉ là tường đất bè thấp như nước ta thậm chí một số nơi ở nước ta chỉ cắm vài cái cọc, rộng hơn thì xây cả một bờ thành vững chãi để bảo vệ cả một khu định cư, và rộng hơn nữa là Vạn Lý Trường thành - ví dụ tiêu biểu nhất cho tư duy xây thành của người TQ. Do đó thành trì của người Trung Quốc rất rộng và vững chãi điều này tưởng chừng có thể bảo vệ được họ nhưng vô hình trung lại gây bất lợi vì thành càng rộng thì quân phòng thủ càng phải nhiều, lại phải dàn trải quân sĩ ra nhiều nơi để phòng vệ nên cho dù thành có vững chãi cũng chỉ có tác dụng với pháo binh của địch, ngoài ra thành rộng thì dễ mất đi các vị trí then chốt, chiến lược (do người dân sinh sôi nảy nở, rồi người di cư thành rộng bao nhiêu cho đủ). Trở lại thành trì của ta. Như trong các hình trên, các bạn có thể thấy thành trì của ta đã khắc phục được nhược điểm của thành trì TQ - không quá rộng lớn và lại được đặt ở các vị trí chiến lược. Một số thành như thành Điện Hải (Đà Nẵng), Thành Bắc Ninh, đặc biệt là thành Bát Quái có những chỗ lỗi, lõm đó là một kiểu xây dựng vô cùng tiến bộ trong kiến trúc thành trì, nó tăng cường khả năng của pháo binh trên thành, các bạn có thể so sánh với các pháo đài phương Tây thời cận đại cũng có kiểu kiến trúc ấy. Đa số thành ở nước ta đều không được nguyên vẹn phần nhiều là do tác động của chiến tranh, một số thì bị phá bỏ trong quá trình phát triển của đất nước. -----------------8----------------- - Các bạn có thể tham khảo thêm một số thành trì ở đây : (https://www.facebook.com/notes/tr%E1%BA%A7n-v%C5%A9-tu%E1%BA%A5n/kh%C3%A1m-ph%C3%A1-50-t%C3%B2a-th%C3%A0nh-c%E1%BB%95-vi%E1%BB%87t-nam/576953685651027) - Nguồn : facebook Trần Vũ Tuấn Nam Thanh Phan. #kinglamakhung
Xem tiếp: Hình ảnh một số thành cổ
Xem tiếp: Hình ảnh một số thành cổ
Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017
Bình luận về vai trò của Tướng Võ Nguyên Giáp
Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
DANHNHANVIET. Blog Ô Sin đăng bài về Tướng Giáp: ..."Ngoài tài năng còn có một yếu tố quan trọng khác, ông là một người có đầu óc thực tiễn ghê gớm, luôn tổng kết trong thắng, trong bại để tìm ra cách đánh mới".
Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017
Thứ Năm, 3 tháng 8, 2017
Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017
Bộ đội Hải ngoại của quân đội ta
Có một đặc điểm chung lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đó là ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, vì nhân dân, vì Tổ quốc Việt Nam mà chiến đấu.
Từ các đội tự vệ trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, đến du kích Nam Kỳ, du kích Ba Tơ, du kích Bắc Sơn, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, các đội Cứu quốc quân…, được sự chăm lo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự giúp đỡ của nhân dân, đã phát triển thành các đơn vị chủ lực lớn mạnh sau này…
Tất cả đều ra đời trong đấu tranh cách mạng của nhân dân và trưởng thành trong chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, chiến đấu dưới lá cờ “Quân kỳ quyết thắng” quang vinh còn có một số đơn vị vũ trang ra đời trong phong trào cách mạng của Việt kiều ở nước ngoài - đó là các đơn vị bộ đội hải ngoại từ Thái Lan, Lào và Campuchia về nước tham gia kháng chiến. Đây là một nét độc đáo trong lịch sử xây dựng và phát triển của quân đội ta. Bài viết này xin giới thiệu sơ bộ về một số những đơn vị bộ đội hải ngoại đó.
Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017
Giai đoạn bốn ông nước Nam sợ làm vua
Ở xứ Annam có giai đoạn bốn ông nghe nói được chỉ định làm vua đã hãi và kết cục...
Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho con nuôi là lúc ấy 17 tuổi. Hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường bèn dâng lên Hoàng thái hậu Từ Dụ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức. chỉ phế truất ông vào ngày 23 tháng 7 năm 1883 và giam vua Dục Đức ở Dục Đức Đường, rồi Thái Y Viện, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Ở đây, nhà vua bị bỏ đói cho đến chết. Vì chỉ làm vua được ba ngày chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức là theo tên nơi nuôi dạy
Dục Đức Đường.
Hai Phụ chính trên đề nghị lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, đưa Nguyễn Phúc Hồng Dật lên làm vua lúc ấy 37 tuổi. Nhà Hồng Dật ở Kim Long (Huế), khi đình thần ra đó rước, dù năn nỉ mấy, Hồng Dật cũng không đi vì sợ chết, nên cuối cùng phải dùng đến vũ lực mới đưa được ông vào Tử Cấm thành. Hồng Dật lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Vua muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi, nhưng các quan có nhiều người không chịu, lo ngại cho tính mạng của mình, nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Khâm sứ Pháp, tìm cách bãi bỏ các quan Phụ chính đại thần. Không may cho vua Hiệp Hòa, việc này bị Tôn Thất Thuyết phát hiện, hai người thấy vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu, bắt vua Hiệp Hòa uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho con nuôi là lúc ấy 17 tuổi. Hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường bèn dâng lên Hoàng thái hậu Từ Dụ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức. chỉ phế truất ông vào ngày 23 tháng 7 năm 1883 và giam vua Dục Đức ở Dục Đức Đường, rồi Thái Y Viện, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Ở đây, nhà vua bị bỏ đói cho đến chết. Vì chỉ làm vua được ba ngày chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức là theo tên nơi nuôi dạy
Dục Đức Đường.
Hai Phụ chính trên đề nghị lên Hoàng thái hậu Từ Dụ, đưa Nguyễn Phúc Hồng Dật lên làm vua lúc ấy 37 tuổi. Nhà Hồng Dật ở Kim Long (Huế), khi đình thần ra đó rước, dù năn nỉ mấy, Hồng Dật cũng không đi vì sợ chết, nên cuối cùng phải dùng đến vũ lực mới đưa được ông vào Tử Cấm thành. Hồng Dật lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Vua muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi, nhưng các quan có nhiều người không chịu, lo ngại cho tính mạng của mình, nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Khâm sứ Pháp, tìm cách bãi bỏ các quan Phụ chính đại thần. Không may cho vua Hiệp Hòa, việc này bị Tôn Thất Thuyết phát hiện, hai người thấy vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu, bắt vua Hiệp Hòa uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2017
Brother Enemy (Anh em thù địch) của Nayan Chanda (II)
Thái Tử Norodom Sihanouk: Kẻ chiến thắng
Tại ngôi nhà sang trọng trên đường Anti-Imperalism ở Bắc Kinh Thái Tử Norodom Sihanouk được tin Phnom Pênh thất thủ. Một bản tin điện do một viên chức Bắc Kinh mang đến cho ông vào sáng hôm 17 tháng Tư 1975. Đồng minh của ông năm năm nay đang tiến vào thủ đô Cam Bốt.
Tướng Lon Nol, bệnh bại liệt, người cầm đầu cuộc đảo chánh năm 1970 lật đổ Sihanouk đã lưu vong sang Hoa Kỳ. Những tên “phản bội” hợp tác với Lon Nol, hoặc trốn chạy, hoặc đầu hàng Khmer Đỏ. Chiến tranh chấm dứt. Canh bạc thái tử chơi hồi tháng Tư/1970 với kẻ thù lâu năm Cộng Sản cũng trả xong rồi. Danh dự của ông được bảo tồn. Những tướng tá và chính trị gia phản động và tham lam tiền bạc đã đổ tên ông xuống bùn nhơ sau cuộc đảo chánh, nay bị quăng vào thùng rác lịch sử. Người cha đẻ của nền độc lập Cam Bốt không muốn chấm dứt sự nghiệp chính trị của mình bằng cuộc đời lưu vong của đấng quân vương. Ông ta cũng nhận biết đủ rằng chiến thắng của Khmer Đỏ cũng có nghĩa là chấm dứt vai trò của ông: Biểu tượng cho sự thống nhất và chính thống cuộc kháng chiến của nhân dân Khmer. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1973, khi Khmer Đỏ không còn dùng ông ta nữa, Thái Tử Sihanouk nói: “Họ có thể nhổ phẹt tôi như nhổ phẹt hột anh đào. Đó là sự biểu lộ nỗi sợ hãi chính đáng để nhắm trước những điều sau này sẽ phát triễn thêm”. Khi lễ mừng chiến thắng ở Bắc Kinh đã qua và nhiều tuần lễ qua đi, chẳng có tin tức nào gọi Sihanouk trở về vùng giải phóng, Sihanouk bắt đầu lo lắng tự hỏi khi nào thì giờ phút kinh hoàng của đời ông sẽ đến.
Brother Enemy (Anh em thù địch) của Nayan Chanda (III)
4. Một nét tổng quát về lịch sử
Dù đoàn đại biểu Pol Pot đi bằng máy bay Jet và xe hơi Hồng Kỳ hơn là đi xe ngựa, tới lăng Mao thay vì lâu đài hoàng đế để tỏ lòng thành kính, cuộc viếng thăm của phái đoàn Cam Bốt tại Bắc Kinh, theo nhiều phương cách, đó là sự lặp lại của lịch sử. Một quan chức cao cấp Bộ Ngoại Giao Trung Hoa bay tới Phnom Pênh để tháp tùng đoàn quan khách đến thủ đô. Ngày xưa, quan chức triều đình Trung Hoa phải tới biên giới để tháp tùng sứ bộ các chư hầu tới triều cống rất linh đình. Tuy nhiên, quan trọng hơn hình thức đó là quan điểm về chiến lược và chính trị xác định mối liên hệ của Trung Hoa với các nước láng giềng Đông Nam Á.
Từ thế kỷ thứ ba sau Tây Lịch cho đến cuối thế kỷ 15, vua các vương quốc khác (Phù Nam, Chân Lạp, Chiêm Thành và Cam Bốt – vùng sau này trở thành Nam Việt Nam) đều chấp nhận quyền lực tối thượng của Trung Hoa, ít ra trên mặt biểu tượng, thỉnh thoảng phải triều cống cho thiên tử. Các đoàn đi sứ này thực ra chỉ là hình thức giả dạng của một công việc mà lý do chính thức khác là tìm sự che chở của Trung Hoa. Vua các nước vùng Đông Nam Á hy vọng một lời cảnh cáo từ vị hoàng đế đầy quyền lực Trung Hoa đủ ngăn cản cuộc xâm lăng của nước láng giềng. (1)
Phương cách triều cống như trên chỉ hữu hiệu khi đế quốc Trung Hoa vững mạnh, đủ sức bảo trợ lời đe dọa của họ bằng sức mạnh quân sự hoặc khi Trung Hoa không gặp khó khăn nội bộ. Năm 1407, vua nhà Minh Yongle gởi một đạo quân mạnh 200 ngàn người trừng phạt Việt Nam về nhiều tội, luôn cả tội tấn công Chiêm Thành.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)