Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII

 Ghi chép từ cuốn                
Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài
                                      Jerome  Richard  -- Paris 1778

Lời dẫn
    Trong cuốn Tư liệu văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây  NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì  Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài của giáo sĩ Jerome Richard thuộc loại tài liệu đáng chú ý nhất.
       Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc bản dịch trong tập tư liệu trên và  thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn sách đã được biên soạn theo hướng viết lịch sử xã hội là một việc mà ở ta chưa ai làm  nên càng cần thiết phải đọc.
       Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và đôi khi thử diễn giải lại theo cách hiểu của mình. Sự chọn lọc còn tùy tiện và bị chi phối bởi nhu cầu riêng. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ trong khi làm việc, đó là muốn lý giải hiện tại phải trở lại với lịch sử. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức .

  Phần đầu của cuốn sách dành để  miêu tả chung về  nhiệt độ, khí hậu ,cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là có một hòn đảo, được người Hà  Lan đặt là Đảo cướp . Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.
Các "đô thị" - chỉ là để tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có trò bắn tên có mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.
Người Trung hoa ở đô thị Kẻ chợ - đông, mạnh; họ cũng có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng.
Các loại phương tiện giao thông
-         Ngựa: quan;
-         chân trần: dân;
-         cáng: nhà giàu, người có địa vị
Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị phá.
Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở Trung Hoa đã có lúa vụ 3. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa. Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị, khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.

  Cách cư trú, phong tục
Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.
Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là H'mông - VTNh)

Tính cách con người
Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu, cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó lại hiếu động hay bị chia rẽ - thường xuyên nổi dậy và mưu phản.
Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò chơi, hơn là  bởi tham vọng hay tư tưởng về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.
Đặc tính người bên lương (thờ Phật )
- luôn luôn không hài lòng với hiện trạng
- ham tài sản, độc ác, phản trắc
- coi cuộc đời như một cực hình
- sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.
Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi  = cuồng tín.

Giao thiệp với người châu Âu.  
Triều đình biết quá ít về những lợi ích của mình  nên không buôn bán với người nước ngoài.
Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân  không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.

Ăn mặc: không tất, không giày, không quần lót.
 Giày dép là để phân biệt ngôi thứ:
- dân thường bị cấm.
- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép
- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày . 

Đời sống tinh  thần. Bộ máy quản lý
Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một bản năng khéo léo, chỉ thíêu khoa học – sinh ra tính ỳ.
 Nhưng nghèo khổ quá khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng nhác bẩm sinh.Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.
Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết, họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.
Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi phục dịch các đức ông.
Sở dĩ chính sách khắc nghiệt  vì người ta cho là phải làm thế mới trị được một đám dân hiếu động và dễ phản loạn.
Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ một số người thử vận may trong buôn bán.

Trung Hoa là một tấm gương.
Những người Trung Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo...Phong tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.
Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam gần giống Nho sinh Trung Quốc.
Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết riêng xuất phát từ Trung Hoa.

Luật pháp 
Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ. Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không sao.
Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.
(VTNh:  Luật chỉ  có tính chất nửa vời)
- ít đi học vì nghèo
- Có hiện tượng bán con vì nghèo
- Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê
Nạn vay nặng lãi phổ biến.
Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ.


Văn hoá giao tiếp Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa, có phân biệt
- dân gian: buông thả
- quý tộc: quản lý chặt hơn (như ở Trung Quốc)
Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng...
Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu kèm theo hộ vệ.
Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích -- với những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết -- chứng tỏ là mình xa hoa sang trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ sống.

Người  ta quen với chế độ chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.
Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.
Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.
Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện buồn rầu. Không có đồng hồ. Tất cả sống bằng ước tính.

Lễ hội - phóng túng quá đáng, người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết - sợ điều xấu. Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.
Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo rất kỳ cục,  vay mượn từ Trung Quốc. Nội dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện tình yêu và chuyện phiêu lưu.
Trò chơi - chọi gà, câu cá.
Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội (VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.

 Tôn giáo
Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín. Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ báng.
Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.
Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những người dân dưới đáy tới vua chúa.

Về Khổng Tử và Nho giáo
Các giáo điều chính:
- lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên trong về sự vật
- nhấn mạnh chữ tâm
- đề cao lòng thành.

 Khoa học, kỹ thuật.
Khoa học - lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.
- Không hiểu gì về thế giới.
- Giải thích về khí hậu rất nực cười.
Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.
Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới những quan nịêm mang tính đạo đức.

Thi cử
Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến là tình trạng chung của vương quốc.
Do đó các cuộc thi tiến sĩ cố tỏ ra nghiêm khắc. Nhưng  học hành chẳng theo chương trình nào. Khả năng đỗ phụ thuộc trí nhớ  ( chứ không phải hiểu biết). Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định cho mình.
Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua có thông ngôn - tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.
Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc trông khủng khiếp và kỳ quái.
Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn giản như làm việc không cần thước.

Nội ngoại thương . Quan hệ với người Hoa
Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói quen phụ thuộc tuyện đối, như là cái đảm bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống nộp quan trên khá nhiều.
Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.
Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa tối cần đối  với sự sống còn của vương quốc. (Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây).
 Trong thương mại của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.
Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin mình không thể làm gì bằng người Hoa.
Nghề người Hoa làm:
- khai thác hầm mỏ
- đúc vàng bạc
- khắc ván in, làm ra những cuốn sách.
Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người cung cấp hàng  cao cấp cho chính quyền và đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các loại hàng khác cho dân thường.
Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.
Dân nghèo quá , nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.
Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị. Rồi tiền từ Trung Hoa tới -- "hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy"
Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính quyền bao nhiêu, là do họ tính.
Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm, nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.
Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng Ngoài chỉ là "những tay buôn vô cùng kém cỏi".Buôn vải, tơ. Buôn quế - vua độc quyền khiến  dân miền núi thành kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre - tuỳ tiện. Ai muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.
Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người  châu Âu.

Quyền lực
Đàng Ngoài từng là một bộ phận của Trung Hoa. Nhưng vẫn là một dân tộc hoàn toàn khác biệt. Trung Quốc gọi họ là man di.
Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ quân). Lê Đại Hành xưng vương…
Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục, cách làm ăn kiểu Trung Quốc “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối thế kỷ XVIII.
Dân chúng Đàng Ngoài lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục và luật lệ của Trung Quốc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do xa xưa và mong ước trở lại.
Quan hệ Trung Quốc: có triều cống, nhận ấn phong vương “coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân ở đất nước họ.
Nhà Lê suy yếu.  Mạc Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.
Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này .
Ở phương Đông được làm vua thua làm giặc. Còn ai cũng gian ác. Vua là một danh nghĩa, giống như một đồ trang sức.
Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập). Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị đẩy vào cảnh nghèo đói. Một số bị điên.
Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến, đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng của vương quốc đã chết.

Lực lượng quân đội
Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối

Luật pháp.
Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người nghèo cũng được bảo vệ.
Nhà vua được xem là người duy nhất quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú đến lợi ích của riêng họ. Nhưng ở  thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất .
Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức vụ.
Người hiểu biết phải kinh ngạc vì bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.
  Nhìn đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn, và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất này -- nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa -- lại gian xảo hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và  hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.
 Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng thái ngờ vực.
Rất nhiều luật lệ, có những điều luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.
Nhưng không phải chúng được thực hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua bán một cách tuỳ tiện.
Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ XVIII  (70-80 năm trước khi xuất bản sách này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho đất nước trở nên nghèo đói.
Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền, hám quyền của bọn quan lại.

Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống tầm thường quanh mình.

Nhà tù
Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối, bùn, và rác. Thường xuyên là người sống với những xác chết bị thối một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.
 Nhưng đó là một nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.

 Đoạn kết: Khả năng tự hoàn thiện
Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng - chẳng hạn hoạt động kinh doanh-- không bao giờ được nâng lên.
Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát  mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ tội phạm. Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc. Vì rằng mọi tài sản đều là tạm bợ  và những vinh hiển cũng chỉ có lúc, con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy  trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì cứu được họ. Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội.
Nguồn: Vuongtrinhan

*****

Số phận hẩm hưu của 'An Nam tứ đại khí'

An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo của nước ta thời Lý, Trần bao gồm: Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng chùa Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh. Mặc dù là những vật quốc bảo song khi rơi vào tay giặc, tứ đại khí cái bị cướp, cái bị phá đi không còn hình dáng ban đầu.
Tháp Báo Thiên có tên gọi đầy đủ là Đại thắng tư thiên bảo tháp, được xây cất vào năm Đinh Dậu (1057) đời Lý Thánh Tông. Tháp cao 20 trượng (khoảng 70 m) và gồm 30 tầng (có tài liệu chép là 12 tầng), nằm trong khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phường Báo Thiên (nay ở vào khoảng bên phải đền Lý Quốc Sư đến đầu phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội) nên còn gọi là tháp Báo Thiên.

cd205tukhi1.jpg
Tháp Báo Thiên một thời là biểu tượng sự bền vững của nhà Lý.
Lý do để tháp được coi là một trong tứ đại khí do có số tầng chẵn biểu thị sự cân bằng, ổn định, tĩnh tại, bền vững như triều đình nhà Lý đầy khí thế, sẽ tồn tại dài lâu. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ Đao Ly Thiên tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm. Đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua; vì thế, được Nho thần danh sĩ miêu tả là: “Trấn áp đông tây cũng đế kỳ/Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy/Sơn hà bất động kình thiên trụ/Kim cổ nan nan lập địa chùng?. Dịch: (Trấn giữ đông tây vững đế kỳ/Tháp cao sừng sững thật uy nghi/Là cột chống trời yên đất nước/Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì”.
Tuy nhiên, trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ! Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất hai tầng về góc bên đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng sáu năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương (84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai) đỉnh tháp lại bị đổ. Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp để chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được đổ đất thành gò cao để dựng đàn tràng.
cd205tudai2.jpg

Chùa Một Cột là nơi chuông Quy Điền được đóng.
Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng hai năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ). Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa.
Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.
Tượng chùa Quỳnh Lâm thuộc chùa Quỳnh Lâm, xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh là một trong những ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất đời Trần. Tương truyền, tượng cao đến 6 trượng (khoảng 20 m). Thời giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi. Đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi!.
image001_jpg.jpg
Chùa Phổ Minh nơi nhắc nhở về chiếc Vạc Phổ Minh, một trong tứ đại khí.
(Ảnh minh họa)
Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.
Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí.
Cũng giống như số phận tứ đại khí, bốn ngôi chùa liên quan cũng có số phận khá buồn. Chùa Quỳnh Lâm bị đốt trụi thời Thiệu Trị, chùa Sùng Khánh thời thuộc Pháp cũng bị phá để xây Nhà thờ Lớn, hiện chỉ còn chùa Diên Hựu (Một Cột) và chùa Phổ Minh.
Vân Nhi (Đất Việt)
Nguồn: Baodatviet

Ông chủ Cà phê Trung Nguyên tìm chỗ cắm "ngọn cờ nhân văn"

(Tìm mãi mới ra "Lá cờ nhân văn" nổi tiếng của ông chủ Cà phê Trung Nguyên)

Việt Nam làm gì để phồn vinh cạnh "cái bóng" Trung Quốc?

Phản biện "ngọn cờ nhân văn" của ông chủ Trung Nguyên


*****

Nhìn lại những quan điểm của tướng Trần Độ


Trần Ðộ
(1923 - 09.08.2002)
 Trung tướng QĐNĐVN
Phó chính ủy quân giải phóng.
Thứ trưởng Bộ Văn Hóa
Trưởng ban Văn hóa Văn Nghệ Trung ương
Phó Chủ tịch Quốc Hội.
Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Huân chương Hồ Chí Minh

Do bất đồng chính kiến với một số lãnh đạo cao cấp khác của Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông bị khai trừ khỏi Đảng ngày 4 tháng 1 năm 1999 khi đã 58 tuổi đảng.
Ông mất ngày 9 tháng 8 năm 2002 sau một thời gian dài lâm bệnh nặng, tuổi cao, sức yếu. Đám tang ông có sự tham dự đông đảo mọi tầng lớp quần chúng và trí thức, văn nghệ sĩ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi vòng hoa đến viếng và gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn đã có mặt đông đủ.
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, Hà Sĩ Phu viết:
Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm.
(trích Wikipedia)

Một đám tang không bình thường


2002-08-18

Lời giới thiệu: Quốc Hội Việt Nam Khóa XI đã họp xong và một chính phủ mới do Đảng chỉ định cũng vừa được Quốc Hội chấp thuận. Tin thời sự này đáng lẽ đã phải là điều đáng để cho dư luận trong và ngoài nước bàn tán. Tin này tuy nhiên gần như đã bị lu mờ bởi một tin khác về cái chết của tướng Trần Độ và đặc biệt về đám tang không bình thường của ông. Mục ỘÁ Châu, Nhìn từ bên ngoàiỢ hôm nay có bài nhận định sau đây của Trần Sơn Nam về những sự kiện ít khi được thấy trong những trường hợp tang lễ được tổ chức cho một người vừa nằm xuống...

Về Tướng Trần Độ thì ít lâu nay, trong nước và ngoài nước, ai cũng biết ông là đảng viên lâu năm của Đảng Cộng Sản Việt Nam với một bề dầy là 58 tuổi đảng, ông cũng đã giữ nhiều trách nhiệm quan trọng trong guồng máy của chế độ như Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương v.v...

Gần đây, ông đã nhận thấy tình trạng bế tắc về mọi mặt ở trong nước và đặc biệt hơn cả, mặt trái của cái Đảng mà ông đã phục vụ trong gần hết cuộc đời. Ông công khai lên tiếng chỉ trích và lên án chế độ độc tôn, toàn trị, phản dân chủ của Đảng, vì vậy mà bị Đảng khai trừ năm 1999 và từ đó đến nay thường bị theo dõi, vu cáo, sách nhiễu cho tới ngày ông từ trần vào cuối tuần qua.

Nếu chỉ có vậy thì chẳng qua đó cũng chỉ là một sự đau buồn cá nhân của một ông tướng hơi giống nhân vật trong truyện ngắn ỘTướng về hưuỢ của Nguyễn Huy Thiệp. Nghĩa là của một người mà đem cả cuộc đời ra đóng góp cho Đảng, rồi đến cuối đời nhận thấy là đã bị Đảng phản bội. Sự đau buồn ở đây lại khác, đó là một sự đau buồn chung cho tất cả mọi người khi thấy Đảng đã cư xử tàn tệ với một vị tướng như ông Trần Độ trước và ngay cả đến lúc ông nằm xuống, làm cho đám tang của ông không còn là một đám tang bình thường nữa.

Ông mất ngày thứ Sáu tuần trước, song phần vì lúng túng không biết phải phản ứng ra sao, phần khác lại ngại không dám để cho tin ông mất loan rộng ra, mãi đến ngày thứ Ba vừa qua các phương tiện truyền thông của Nhà nước mới đưa tin về cái chết của ông.

Đến hôm làm lễ tang, Nhà nước lại ra lệnh tang lễ chỉ được cử hành trong một vài giờ đồng hồ để tránh sự tập trung của những người vì yêu mến ông Trần Độ mà muốn đến phúng viếng và tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nhà cầm quyền lúng túng, không biết đối xử với cái chết của ông Trần Độ thế nào cho phải, điều đó cũng dễ hiểu vì dầu sao ông cũng là một đảng viên kỳ cựu với 58 tuổi đảng, một cựu chiến binh mà có người gọi là anh hùng, đã từng có nhiều đóng góp trong quá khứ.

Sau nhiều ngày cân nhắc Đảng mới có được quyết định cử ông Vũ Mão, Trưởng Ban Đối Ngoại của Quốc Hội, đứng ra đọc điếu văn nhân ngày tang lễ này và không để cho một nhân vật cao cấp nào trong Đảng hay Nhà Nước đến dự.

Nhưng cái tệ chính là ở những cử chỉ nhỏ nhen, không xứng đáng, từ phía chính quyền mà người ta nhận thấy trong buổi lễ. Hạn chế thời gian hành lễ xong, Nhà nước còn bắt cắt bỏ tất cả những dòng chữ ỘVô cùng thương tiếcỢ trên các vòng hoa phúng điếu thì quả thật là quá đáng, chưa bao giờ ai thấy một việc ngang ngược như vậy ở một đám tang từ trước đến nay.

Đến bài điếu văn của ông Vũ Mão cũng vậy, hoàn toàn thiếu tế nhị. ỘNghĩa tử là nghĩa tận,Ợ người Việt ta đã có câu nói thật chí lý và chí tình, vậy mà trong phần cuối bài điếu văn, ông Vũ Mão vẫn còn thấy cần nhân danh Đảng nhắc lại là Ộthật đáng tiếc, ông Trần Độ đã phạm một số sai lầmỢ như để ám chỉ đến sự kiện ông đã công khai đòi Đảng phải tôn trọng quyền con người và thực thi tự do, dân chủ.

Đám tang của ông Trần Độ đã không bình thường do thái độ không mấy xứng đáng của nhà cầm quyền, nó lại còn không bình thường hơn nữa do phản ứng của tang gia đối với đại diện của nhà cầm quyền.

Nghe xong bài điếu văn của ông Vũ Mão, người con trai trưởng của ông Trần Độ là ông Trần Thắng đã đứng lên tuyên bố là gia đình ông không chấp nhận bài điếu văn của đại diện Nhà nước và lời tuyên bố này đã được ngay sự đồng tình của số đông những người đến tham dự đám tang.

Nói chung về trường hợp ông Trần Độ, người vừa nằm xuống, thì gần đây, ngay trong lúc ông lên tiếng chống đối Đảng, cũng vẫn có người chỉ trích ông là một đôi khi ông còn ngây thơ nuôi hy vọng Ộcứu ĐảngỢ và mãi đến cuối đời ông mới nhìn ra sự thật về mặt trái của Đảng, trong khi một phần đông dư luận đã đi tới kết luận điều này là vô vọng.

Nhưng cũng có một số người khác ghi nhận cách ứng xử ngay thẳng và can đảm của ông những năm gần đây. Sống trong vòng kìm kẹp của một chế độ có thể đối xử tàn tệ với cá nhân ông hay gia đình ông, ông đã không ngần ngại chấp nhận rủi ro để nói lên sự thật. Trong cuốn ỘNhật Ký Rồng RắnỢ mà Công An tịch thu năm ngoái, ông đã ví chế độ như Ộmột sự kết hợp giữa cái ngu muội của Tần Thủy Hoàng với cái dã man của chế độ phát-xít Hitler.Ợ

Đây thật là một sự lên án nặng nề đến từ một người đã nhiều năm phục vụ chế độ như ông, nên dầu như sự đóng góp đó vào công cuộc đấu tranh đòi lại tự do, dân chủ cho dân tộc có muộn màng đi chăng nữa, nó vẫn cùng đi theo hướng mà nhiều người ở trong nước cũng như ngoài nước đang theo đuổi.

Đảng Cộng Sản, qua lời của ông Vũ Mão, cho rằng Ộvào cuối đời, ông Trần Độ đã phạm một số sai lầm.Ợ Thực ra, nhìn vào cung cách đối xử nhỏ nhen và không xứng đáng của Đảng đối với ông Trần Độ ngay cả lúc ông đã nằm xuống, người ta có thể nói rằng nếu có sai lầm thì ông Trần Độ đã sai lầm khi còn non trẻ ông đã chẳng may đặt nhầm niềm tin vào một chủ thuyết không tưởng, lỗi thời và một Đảng không có tình người.



Nhìn lại những quan điểm của tướng Trần Độ, 4 năm sau ngày ông qua đời
2006-08-09

Nguyễn An, phóng viên đài RFA Hôm nay kỷ niệm bốn năm ngày trung tướng Trần Độ qua đời. Ông mất vào lúc 2 giờ 15 chiều ngày 9 tháng tám năm 2002 tại Hà nội, và được hoả táng lúc 1 giờ trưa ngày 14.



Cố tướng Trần Độ.

Con người Trần Độ

Trần Độ là một con ngừơi dũng cảm và có lòng. Là người theo đảng cộng sản từ năm 16 tuổi, gắn bó với đảng trong từng hoạt động, từng chiến dịch, nhưng sau 59 năm, ông lại bị khai trừ khỏi đảng chỉ vì muốn đảng tốt hơn.
Sống trong đảng từng ấy năm, ông hiểu rõ đến ngọn nguồn cái sức mạnh ghê gớm và tàn nhẫn của guồng máy đảng, nhưng ông vẫn mạnh dạn lên tiếng nói lên điều mà ông nhận thấy bằng trí tuệ và trái tim của mình, vốn là điều tuyệt đối cấm kỵ tại bất cứ nơi nào đảng có mặt.
Nhưng chính vì nói lên được những tiếng nói như thế nên ông trở thành một trong những người tiên phong trên con đừơng dân chủ cho đất nứơc mặc dù bản thân ông bị vùi dập cho đến khi trở về với cát bụi.
Sinh năm 1924 tại làng Thư Điền, huyện Tiền Hải tỉnh Thái bình trong một gia đình nho giáo trứơc khi thân phụ trở thành thư ký ở toà thống sứ Bắc kỳ.
Ông bắt đầu tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1939, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1940, bị Pháp bắt, kết án 15 năm tù và đầy đi Sơn La vào năm 1941. Ba năm sau ông vượt ngục và từ đó hoạt động trong nhiều lãnh vực mà ở lãnh vực nào cũng là người lãnh đạo.
Trong quân đội, ông là uỷ viên ban quân sự cách mạng thủ đô Hà nội từ năm 1946, rồi phó chính uỷ khu 2 Hà nội, chính uỷ trung đoàn 209, rồi quyền chính uỷ đại đoàn 312. Năm 1955, ông đựơc phong thiếu tướng, chính uỷ quân khu hữu ngạn sông Hồng đến năm 1964 thì trở thành chính uỷ, phó bí thư quân uỷ quân giải phóng miền Nam.

Những thăng trầm

Hoà bình lập lại, ông là phó trưởng ban tuyên huấn trung ương, thứ trưởng bộ Văn Hoá Thông Tin rồi Trưởng ban Văn hoá văn nghệ trung ương cho đến năm 1990. Ông là uỷ viên ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam các khoá 3, 4, 5 và 6, đại biểu quốc hội các khoá 7 và 8, chủ nhiệm uỷ ban văn hoá giáo dục và phó chủ tịch quốc hội.
Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế chấp nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng nhằng, nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi cũng không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một phương thức độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.
Đến khi phong trào đổi mới xuất hiện vào năm 1986, ông là một trong những người cổ vũ mạnh nhất, và cũng là nhân vật chính trong việc soạn thảo nghị quyết 5 về văn hoá văn nghệ, thừơng đựơc gọi là nghị quyết cởi trói, tạo điều kiện xuất hiện cho dòng văn học phản kháng ở trong nước.
Khi đảng Cộng sản Việt Nam thay đổi chính sách và xiết chặt trở lại sau sự sụp đổ dây chuyền của các chế độ Cộng sản đông âu cuối năm 1989, ông bị thất sủng.

Trăn trở với vận nước

Sau mấy năm nghiền ngẫm về thành quả mà đảng Cộng sản đem lại cho đất nứơc và dân tộc, đầu tháng giêng năm 1995, ông viết một bức thư gửi cho Tổng bí thư đảng lúc đó là ông Đỗ Mười, nêu ra vấn đề mà ông cho là căn cốt và cơ bản. Đó là mối liên quan giữa đảng và chính quyền.
Ông cho rằng đảng phải chọn lựa một trong hai cách điều hành đất nứơc: “Đảng cầm quyền hay đảng lãnh đạo. Đảng cầm quyền đồng nghĩa với đảng toàn trị, đảng điều khiển sai bảo nhà nứơc, còn đảng lãnh đạo thì phải có một nhà nứơc dân chủ pháp quyền, một nhà nứơc do dân, vì dân và của dân, như điều 112 của hiến pháp năm 1992 đã nói.” Trong tinh thần đó, ông hô hào phải có sự cải cách cơ bản chế độ bầu cử và ứng cử để bảo đảm chọn đựơc các nhân tài thực sự cho đất nước.
Lá thư của ông không được trả lời, và đảng Cộng sản tiếp tục theo đường lối cũ. Ông tiếp tục viết nhiều bài yêu cầu đảng trả lại tự do dân chủ cho người dân, phê bình đường lối lãnh đạo của Đảng từ khi hoà bình lập lại là sai lầm và chỉ đưa dân chúng đến đói khổ, đất nứơc đến điêu tàn tụt hậu. Kết quả là đầu năm 1999, ông bị khai trừ khỏi đảng sau 59 năm theo đảng trên mọi chặng đường và trong mọi hoạt động và từng đựơc ban thửơng những huân chương cao quý nhất. Trong bức thư viết vào tháng 7 năm đó, ông tuyên bố:
“Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế chấp nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng nhằng, nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi cũng không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một phương thức độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.”

Khát vọng dân chủ

Đó là một trong những phát súng thần công đầu tiên của khát vọng dân chủ bắn thẳng vào pháo đài của đảng Cộng Sản bởi một con ngừơi đã cống hiến cho đảng gần hết cuộc đời của mình.
Một tập họp bài viết quan trọng của ông Trần Độ là tập “Nhật ký Rồng và Rắn,” viết vào thời gian cuối năm Canh Thìn tức 2000 và đầu năm Tân Tỵ tức 2001, chỉ hơn một năm trứơc khi ông qua đời. Cuốn sách này đựơc chính tác giả gọi là máu và nứơc mắt của ông trong những ngày cuối đời, từng bị công an tịch thu, và dù ông viết thư nhiều lần để đòi lại, những người đồng chí cũ của ông lúc đó đang ở các vị trí cao nhất nứơc vẫn làm ngơ.
Trong bài viết ngày 3 tháng 12 năm 2000, ông nêu rõ bốn thứ của một xã hội đời thường, đựơc ví như bốn bánh xe của một cỗ xe, đó là:
1. Một xã hội công dân 2. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi. 3. Một nhà nứơc pháp quyền (và) 4. Một nền dân chủ đầy đủ. Ông nhấn mạnh rằng bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ.
Nói dân chủ là thì cứ phải dân chủ đã, không phải chưa nói đến dân chủ đã đề phòng “dân chủ quá trớn”, đề phòng “lợi dụng dân chủ”.
Ở đoạn sau, ông viết:
“Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng nhờ có nó sẽ có một bộ máy nhà nứơc bảo đảm đựơc mọi mặt nhu cầu đời sống của mọi người chỉ là một ảo tưởng hão huyền. Thế mà đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng. Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.”

Nhận định về đảng CSVN

Trong bài viết đề ngày 7 tháng 12 cùng năm, khi nói về sự chuyên chính tư tưởng, ông Trần Độ tuyên bố:
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng. Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần cuả nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều……… Nó đang làm hại cả một nòi giống.”
Trong bài viết đề ngày 24 tháng 12, ông Trần Độ nói, “thực chất là chế độ thì rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân,” và ông liệt kê ra một số thủ đoạn tiêu biểu bao gồm:
Thứ nhất là, thần thánh hoá, thiêng liêng hoá đảng, cấp uỷ và các nghị quyết, mà điều vô lý nhất là bắt toàn dân phải học nghị quyết của đảng……Không ai, kể cả báo chí, đựơc quyền nhận xét phê phán phân tích các nghị quyết cả. Đã là nghị quyết thì chỉ có đúng và tài tình, là rất thiêng liêng.
Thứ hai là khuyến khích và bồi bổ tệ nạn sùng bái cá nhân, là tệ nạn đã bị lên án nặng nề trong phong trào cộng sản thế giới. Bao giờ ý kiến của bí thư, uỷ viên thường vụ và cấp uỷ cũng là quan trọng, là thiêng liêng, là chân lý.”

Một con người quả cảm

Những nhận định thẳng thắn như thế chỉ có thể viết ra bởi một con ngừơi dũng cảm và có lòng. Trong bài viết đầu năm Tân Tỵ, ông Trần Độ đưa ra những điểm mà đảng Cộng sản phải thực hiện nếu muốn bứơc ra khỏi con đường mà ông cho là phản bội cách mạng:
“Thứ nhất là phải xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nứơc bằng cách tôn trọng tất cả mọi ngừơi.
Thứ hai là phải tôn trọng hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân đựơc tự do làm ăn.
Thứ ba là phải để cho mọi tổ chức từ chính phủ, quốc hội, toà án cho đến mặt trận tổ quốc, đựơc độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình, để cho mọi công dân đựơc suy nghĩ độc lập
Thứ tư, cụ thể là phải sửa ngay luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân.”
Trên đây là trích dẫn một số bài viết của ông Trần Độ trong nhật ký Rồng và Rắn. Những nhận xét ấy mặc dù cực kỳ nghiêm khắc, nhưng vẫn mang nặng ân tình; mặc dù nêu lên những điều thật khó tin, nhưng hoàn toàn sát với thực tế, bởi tác giả của nó từng theo đảng trong suốt 59 năm và dù bị hắt hủi, vẫn tha thiết với những lý tửơng và những đồng chí của thời thanh xuân.
Ông đã đứng về phía nhân dân để nói lên những yêu cầu mặc dù đơn giản, và hợp lý mà chưa hề đựơc đáp ứng. Nhưng cũng vì thế mà có những người khác tiếp bứơc ông trên con đường dân chủ hoá đất nứơc. Con đừơng ấy dẫu có dài, nhưng đã đi thì ắt là có lúc đến.

"Đảng Cộng Sản nêu khẩu hiệu đoàn kết toàn dân nhưng trên thực tế hành động thì không. Đối với những người Việt còn ở nước ngoài thì ai cũng như là kẻ địch, còn trong nước đối với trí thức không tin cậy, đối với tôn giáo thì cũng nhiều nghi ngờ. Chứ nếu thực lòng đoàn kết toàn dân thì sẽ tạo nên một sức mạnh ghê gớm lắm." - Trần Độ

Hai tháng trước khi qua đời, tướng Trần Độ đã dành cho đài BBC Luân Đôn một cuộc phỏng vấn dài, trong đó ông kể lại cuộc đời hoạt động của ông cũng như những băn khoăn suy nghĩ về Đảng Cộng Sản và những mong ước cho đất nước.
Links:

 Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 1
 Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 2
 Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 3
(theo BBC)


*****

Tìm kiếm Blog này