Thuở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, được học bài Hai bà Trưng:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
...
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành ...
Nghe thầy giảng lúc ra trận hai bà mặc hồng quần, nghĩa là quần đỏ.
Cả lớp khoái chí, cười khúc khích.
Sau này đọc sách thấy nhiều học giả đồng ý với thầy.Hồng quần: quần chính nghĩa là cái váy, cái xiêm, phụ nữ xưa mặc quần đỏ. (Đinh Xuân Lâm và Chu Thiên , Đại Nam quốc sử diễn ca, Văn Học, 1966, tr. 87 ).
Hồng quần: đàn bà (xưa mặc quần đỏ). (Hoàng Xuân Hãn, tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 77).
Hồng quần: quần đỏ (tức con gái). (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển).
Hình ảnh hai bà Trưng mặc quần đỏ dẹp giặc đẹp quá!
Đẹp quá hoá ra ... đáng ngờ!
Theo truyền thuyết thì thời Hùng Vương, đàn ông Việt Nam đóng khố, đàn bà mặc váy kín (váy chui) hoặc váy mở (váy quấn). (Thời đại Hùng Vương, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr.177).
Sử nước ta lại cho biết thêm:
Năm 1414, nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; đàn bà con gái thì mặc áo ngắn quần dài, hoá theo phong tục phương Bắc. (Đại Việt sử kí toàn thư).
Nhà Minh muốn đồng hóa dân ta, cấm đàn bà con gái nước ta mặc váy, bắt phải mặc quần như người Tàu.
Năm 1428 Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước.
Sử không cho biết cách ăn mặc của dân ta dưới thời Lê Thái Tổ và mấy triều vua kế tiếp.
Thời tự chủ, với ý quyết xoá bỏ hết tàn tích nô lệ về y phục, vua Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức năm đầu (1653) định phép ăn mặc cho quan dân. Vua Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị thứ ba (1665) cấm đàn bà con gái không được mặc áo có thắt lưng và mặc quần có ống chân (nghĩa là bắt buộc phải mặc váy). (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, Đại Nam, tr. 206).
Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, 1961, tr. 173).
Chúa Võ Vương muốn "Triều đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà" (Kiều), độc lập đối với vua Lê chúa Trịnh đàng ngoài nên ra lệnh bắt đàn bà đàng trong phải ăn mặc như Tàu. Vì chúa muốn "Thà làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em", mà các bà đàng trong phải mặc quần.
Vua Minh Mạng đi xa thêm một bước nữa:
Tháng tám (có chỗ hát tháng chín) có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì bóc lột quần chồng sao đang.
Thật ra thì chưa chắc đã là tháng tám hay tháng chín vì sử nhà Nguyễn chép: tháng 10 năm 1828, truyền đổi cách ăn mặc từ sông Gianh trở ra Bắc. (Quốc triều chính biên toát yếu, Thuận Hoá, 1998, tr. 188).
Quần không đáy, "vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không", tức là cái váy. Minh Mạng bắt cả đàn bà đàng ngoài mặc quần, cấm mặc váy.
Trên lí thuyết thì từ năm 1828 đàn bà cả nước ta đều phải mặc quần theo ý muốn của nhà vua.
Nhưng thực tế thì ra sao?
Thực tế thì "phép vua thua lệ làng". Đằng sau luỹ tre xanh, mọi chuyện trong nhà ngoài xóm đều được dàn xếp theo bộ luật bất thành văn "lệnh ông không bằng cồng bà". Vua nói vua nghe, váy bà bà mặc. Minh Mạng làm sao mà đụng được vào cái váy của các bà nhà quê đàng ngoài! Trong lúc tỉnh thành xôn xao kháo nhau cởi váy mặc quần thì thôn quê miền Bắc vẫn khư khư giữ cái váy. Cho mãi đến những năm 1940 vẫn còn cảnh:
Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục
Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn
Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức
Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm (Anh Thơ, Đêm ba mươi tết, 1941)
Cái váy của ta cứ âm thầm "Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi"(Phạm Duy). Nhiều phen được vua yêu, lắm lúc bị chúa ghét! Cái váy cứ nhẫn nhục bám lấy các bà mà tồn tại.
Thế mà hai bà Trưng đã tung ra mốt mặc quần từ những năm 40-43, nghĩa là gần 14 thế kỉ trước khi nhà Minh ra lệnh bắt đàn bà nước ta mặc quần, gần 18 thế kỉ trước khi vua Minh Mạng cấm mặc váy!
Đầu thế kỉ 20, đàn bà nước ta "quần phần nhiều mặc quần sồi, lĩnh thâm, đôi khi cũng có người mặc quần nhiễu đỏ; ở Nam kỳ và Trung kỳ thì người phong lưu mặc quần nhiễu trắng, chốn quê mặc quần vải xanh". (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng hợp Đồng Tháp,1990, tr. 330).
Đến khoảng 1938, dân ta "quần thì chỉ dùng sắc trắng và nâu. Những người già cả mà giàu sang thì ngày hội hè tết nhất mới dùng quần đỏ". (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, sđd, tr. 173).
Hai bà Trưng nhìn xa, đi trước thiên hạ hay cái quần của hai bà ... có vấn đề?
Bàn về quần, trước hết phải đặt câu hỏi quần là cái gì? Chết thật! Ngần này tuổi đầu mà không biết quần là cái gì à?
Quần (chữ hán, bộ y) được Huỳnh Tịnh Của và Đào Duy Anh định nghĩa là đồ để che phần dưới thân thể.
Tự điển Génibrel dịch chữ quần là pantalon (quần dài), culotte (quần đùi), jupe (váy đàn bà), vêtement descendant depuis les reins jusqu'aux pieds (đồ mặc che từ eo xuống đến chân).
Quần được Thiều Chửu dịch là cái quần, cái xiêm.
Đang tìm hiểu cái quần lại bị vướng vào cái xiêm. Vậy xiêm là cái gì?
Xiêm là áo choàng che trước ngực (Thiều Chửu), áo che đàng trước (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển), cái váy (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều), đồ bận dưới, cái củn (củn là đồ bận trên), cái váy (Huỳnh Tịnh Của), jupe (váy dài), jupon (váy ngắn), vêtement inférieur (đồ mặc che phần dưới) (Génibrel), manteau (áo choàng) (Gustave Hue).
Đúc kết các định nghĩa trên, chúng ta hiểu rằng xiêm là cái áo choàng, áo mặc ngoài. Xiêm ngắn, chỉ che phần trên thân thể, thì chỉ có một tên gọi là xiêm. Xiêm dài (che cả phần dưới thân thể) thì ngoài tên xiêm, còn được gọi là quần, hay váy.
Quần là chữ dùng để chỉ đồ mặc che phần dưới thân thể. Quần được dùng cho cả đàn ông và đàn bà. Quần có thể là cái sa rông của người Miên, cái kilt của người Ecosse ... Đàn ông và đàn bà Tàu đều mặc quần hai ống, cho nên quần đàn ông hay quần đàn bà Tàu đều là ... quần (như cách hiểu ngày nay).
Chỉ có cái quần đàn bà Việt Nam mới lận đận, rắc rối.
Ngày xưa (tạm cho là trước thời thuộc Minh) đàn bà nước ta không mặc quần. Thế à? Các bà không mặc quần hai ống như ngày nay mà chỉ mặc váy thôi.
Chữ quần (hán), chỉ đồ mặc để che phần dưới thân thể của đàn bà Việt Nam ngày xưa, phải được hiểu và phải được dịch nôm là cái váy để khỏi nhầm lẫn với cái quần đàn ông.
Điều này đã được tranh dân gian Oger (1909) chứng minh rõ ràng hơn qua một tấm vẽ đàn bà mặc váy. Tranh được ghi chú bằng chữ hán nôm "dã phụ y thử quần, tục danh quần đùm" (váy của đàn bà nhà quê, tục gọi là váy đùm). Người đàn bà trong tranh mặc váy, do đó chữ quần (hán) phải được dịch (nôm) là váy. Váy đùm là váy buộc túm cạp lại.
Dường như chỉ có văn học mới dùng hồng quần hay quần hồng để chỉ cái váy.
Bốn cột lang, nha cắm để chồng
Ả thì đánh cái, ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phới phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
Cột nhổ đem về để lỗ không.
(Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)
Hai cô gái đánh đu, khoe "tám bức quần hồng". Vậy là mỗi cô có "bốn bức quần hồng". Hồ Xuân Hương cũng đưa ra "bốn mảnh quần hồng" trong bài Đánh đu:
( ...)
Trai du gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song ...
Bốn bức hay bốn mảnh quần hồng ở đây là cái gì? Nếu chỉ là cái quần hai ống thì mỗi ống phải xẻ hai. Ta không có kiểu quần tân kì như thế. Cũng không phải là một mình cái váy vì không có váy nào lại xẻ tư như vậy. Chỉ còn cái áo tứ thân (áo tứ thân có 2 vạt đằng trước, 1 vạt đằng sau) cộng với cái váy mới hợp thành bốn mảnh quần hồng. Cái áo tứ thân (cái xiêm của ta) đã được các tác giả gọi là cái quần. Chúng ta hiểu vì sao Thiều Chửu đã định nghĩa quần là cái xiêm, và Huỳnh Tịnh Của lại định nghĩa cái xiêm là đồ bận dưới, tức là cái quần.
Trong bài Chỗ lội làng Ngang Nguyễn Khuyến có nói đến cái quần đàn bà:
Đầu làng Ngang có một chỗ lội
Có đền ông Cuội cao vòi vọi
Đàn bà đến đấy vén quần lên
Chỗ thì đến háng chỗ đến gối
Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười
Cái gì trăng trắng như con cúi
Đàn bà khép nép đứng liền thưa
Con trót hớ hênh ông xá tội ...
Đàn bà vén quần, hớ hênh, để lộ cả cái gì trăng trắng như con cúi. Các nhà quan sát có thẩm quyền kết luận rằng người đàn bà trong câu chuyện mặc váy. Quần hai ống vén đến gối hay đến háng thì vẫn còn kín đáo, chưa để lộ bí mật.
Nguyễn Khuyến đã dùng chữ quần theo nghĩa chữ hán, để chỉ cái váy của các bà.
Hình ảnh vén váy để hở cả cơ đồ còn được thấy qua tấm tranh dân gian Hứng dừa dí dỏm.
Qua vài thí dụ kể trên thì thấy rằng từ thế kỉ 15 (Hồng Đức quốc âm thi tập) đến đầu thế kỉ 20 (Nguyễn Khuyến) chữ quần đã được văn học Việt Nam dùng theo nghĩa của chữ hán, để chỉ đồ che nửa dưới thân thể. Quần của đàn bà (miền Bắc) Việt Nam ngày xưa là cái váy, cái áo dài (xiêm), chứ chưa phải là cái quần hai ống ngày nay.
Hồng quần của hai bà Trưng phải được hiểu là cái váy màu đỏ.
Từ ngày người Pháp cai trị nước ta thì các bà nhà quê miền Bắc mới dần dần mặc quần hai ống như các ông. Một số bà tân thời ở tỉnh thành mặc màu trắng. Dân quê chỉ dùng màu đen hay màu nâu. Ngày nay, cả hai phái nước ta, phái mạnh và phái đè đầu phái mạnh, đều mặc quần hai ống, nhiều màu sắc, kể cả màu hồng, màu đỏ.
Cái váy, cái quần không những đã ám ảnh vua chúa mà còn đè nặng lên đời sống của đám dân đen.
Người xưa có phương thuật "chữa mắt hột bằng gấu quần đàn bà".
Quần nào chả là quần, tại sao không dùng quần đàn ông mà phải dùng quần đàn bà? Chẳng nam nữ bình quyền tí nào cả! Nam nhi thua thiệt quá!
Thật ra thì phương thuật dùng gấu váy, sau này váy hiếm, khó kiếm người ta mới thay váy bằng quần, dĩ nhiên phải là quần đàn bà.
Chữ váy, ngoài nghĩa thông dụng là cái váy đàn bà, còn có nghĩa khác là nạo vét, lau chùi (curer, nettoyer, tự điển Génibrel). Váy là dùng vật gì mà vặn xáy (xoáy) hoặc móc ra. Váy tai nghĩa là móc cứt ráy trong lỗ tai ( Huỳnh Tịnh Của).
Váy (đồ mặc) đồng âm với váy (lau chùi, xoáy móc). Do đó, giới bình dân đã dùng cái váy để tượng trưng cho động tác lau chùi. Ai bị đau mắt hột thì lật mí mắt lên, lấy gấu váy dí nhẹ vào mí là tất cả các hột sẽ được đánh sạch.
Từ ngày các bà không mặc váy nữa thì người ta dùng gấu quần. Đứng về mặt chữ nghĩa thì cái quần không giải thích được ý nghĩa của phương thuật. Phải thông qua cái váy mới rõ nghĩa.
Quần đàn ông không dính dáng gì đến váy cho nên không chữa được mắt hột! Quần của các ông thua quần các bà chứ không phải các bà kì thị các ông!
Xưa kia, "thợ may và thợ giặt không nhận may váy, giặt váy cho các bà". Pierre Huard và Maurice Durand (Connaissance du Vietnam, EFEO, Paris, 1954, tr. 178) cho rằng ta bắt chước tục Tàu. Người Tàu kiêng để lẫn lộn quần áo vợ chồng còn trẻ, dưới 70 tuổi.
Thuyết âm dương của Tàu e rằng cao siêu quá, vượt quá xa cái triết lí bình dân của cái váy của ta:
Sáng trăng em tưởng tối trời
Em ngồi em để sự đời em ra
Sự đời bằng cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Bọn thợ may, thợ giặt sợ cái váy có lẽ chỉ vì họ tin rằng váy có ma thuật nạo vét của cải, làm hao tài, sạt nghiệp mà thôi.
Giới trí thức cũng bị váy, quần làm cho vướng mắc lùng bùng ...
Ngày xưa, "thư sinh, nhà nho kiêng không sờ vào váy, vào quần đàn bà giữa ban ngày".
Không biết cụ Khổng lúc bé có phải giặt giũ, phơi quần áo giúp mẹ không?
Nhiều người cho rằng vì váy, quần đàn bà là vật ô uế nên nhà nho không đụng đến. Giải thích như vậy nghe không ổn. Cho dù váy, quần của các bà có ô uế thật đi nữa thì cũng chỉ ô uế vài ngày lúc các bà có tháng thôi. Còn những ngày bình thường thì quần đàn ông hay váy đàn bà đã chắc gì cái nào sạch hơn cái nào? Không riêng gì nhà nho, đến người mù chữ cũng chẳng ai muốn đụng đến những đồ ô uế.
Nhà nho là người dùi mài kinh sử chuyên nghiệp. Ông nào cũng đầy một bụng chữ thánh hiền. Ban ngày ban mặt, nhỡ mà đụng vào cái váy hấp dẫn kia thì còn đâu là chữ nghĩa nữa! Cái váy sẽ cạo vét, lau chùi sạch sành sanh cái bụng chữ thì làm sao mà mở mày mở mặt với thiên hạ được! Có muốn sờ thì chờ lúc nhá nhem hãy sờ."Tối lửa tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh", mèo nào cũng xám như nhau. Tranh tối tranh sáng thì ... có mắt cũng như không, còn thấy đường nào mà cạo với vét!
Dân gian có một giai thoại về cái váy.
Chuyện kể rằng ông lí làng kia mới tậu được cái ô đen. Ông rất hãnh diện, đi đâu cũng che ô để khoe với dân làng. Một hôm ông vênh vang đi qua chỗ có mấy cô gái đang làm cỏ ruộng. Một cô hát:
Hôm qua tôi mất xống thâm
Hôm nay tôi gặp người cầm ô đen.
Một cô phụ hoạ thêm:
-Nói thế thì ra người ta ăn cắp cái xống thâm, cái váy đen của chị về may ô à? Em nhớ là xống thâm của chị tươi đẹp hơn ô đen kia cơ mà. Để em lên mượn, chúng mình xem cho kĩ nhé.
Ông lí bầm gan tím ruột định mắng mấy con "vén váy không nên" kia, nhưng ông chợt nghĩ nhỡ đụng phải bọn "xắn váy quai cồng" thì thật là nan giải. Nghĩ vậy, ông lí vội cụp ô, chuồn cho nhanh.
Hải Phòng cũng có một giai thoại tương tự.
Trong một cuộc hát đúm, cô gái tấn công trước:
Hôm qua em mất cái váy thâm
Hôm nay em thấy anh cầm một chiếc ô đen.
Cô gái chanh chua vừa dứt lời, liền được chàng trai nhã nhặn đáp lễ:
Em nói thế là em cũng nhầm
Hôm qua anh thấy ông đội khăn thâm ra đình
Trong lúc các bà nhà quê phải mất nhiều năm mới bỏ được cái váy sồi, váy đùm, váy đụp, thì mấy cô ở thành thị lại hớn hở tung hô cái váy xoè, váy chẽn, váy cụt của phương Tây.
Thú phô trương ao ước bấy lâu nay! Giờ mới được mân mê cái váy hiện đại, hiện sinh ... hiện hình!
Khách bên đường sững sờ liếc trộm cái của lạ muôn màu, muôn vẻ ... Muôn năm!
Thấy mà chóng cả mặt, chỉ ... muốn nằm!
Nguyễn Dư
THỜI TRANG và LỊCH SỬ
VÁY hay QUẦN ?
TRÁI hay PHẢI ?
VÁY hay QUẦN ?
TRÁI hay PHẢI ?
Biên khảo
Trần thị Lai Hồng
Trần thị Lai Hồng
Tự thuở hồng hoang, loài người đã tìm cách lưu lại sinh hoạt bằng ngôn ngữ tạo hình, qua những nét vẽ hoặc khắc trên vách đá hang động, thân cây, tảng đá, tấm gỗ, thanh tre ... rồi tiến dần văn minh, đẽo gỗ, khắc phù điêu, tạc bia mộ, vẽ tranh, đúc gạch ngói, đúc tượng, đúc trống đồng ...
Đồng thời với hình tượng ngôn ngữ tạo hình, tiếng nói được lưu truyền bằng văn học dân gian với truyện kể và thi ca liên hệ đến sinh hoạt xã hội và lịch sử, và sau đó được thể hiện bằng chữ viết để diễn đạt tư tưởng, phổ biến hiểu biết, mở rộng và nối kết liên lạc khắp toàn cầu. Từ ngôn ngữ tạo hình khắc vẽ đi đến chữ viết là cả một thời gian dài bốn mươi lăm nghìn năm!
Theo đà tiến hóa, con người phát triển những ngành nghệ thuật, và thời trang là tiếng nói thầm lặng của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Kể từ khi biết che thân, loài người đã tìm cách làm đẹp với những vật dụng thô sơ như lá cây, vỏ cây, da thú, lông chim, và sau đó tìm cách ngâm lá ngâm vỏ và thân cây như cây gai cây đay, cán bông vải, lấy sợi đan hay kết lại, rồi tìm ra tơ tằm dệt gấm lụa, tiến đến kỹ thuật chế biến tơ sợi hóa học... và sáng tạo nhiều kiểu may mặc.
Áp chui đầu và váy sợi vỏ cây, đầu thời đồ đồng.
Bảo tàng viện Copenhahue, Denmark
Bảo tàng viện Copenhahue, Denmark
Tự thuở nào, y phục cũng như chữ viết - những nét văn hóa của một dân tộc - trở thành biểu tượng quốc gia. Và tự thuở nào, y phục biến đổi trở thành thời trang từng miền, từng địa phương, giao thoa, pha trộn, gạn lọc, nhưng vẫn giữ nét riêng trong tổng thể thế giới để không bị đồng hóa hay mai một.
Thời trang ngày nay là thị trường lớn của thế giới. Thời trang là đề tài học hỏi của sinh viên, từ Royal Academy ở London đến Viện Kỹ thuật Thời trang Fashion Institute of Technology New York, nơi nhà tạo mẫu Calvin Klein tốt nghiệp và nổi danh với thương hiệu CK; và từ Metropolitan Museum ở New York với Costume Institute, đến Victoria và Albert Museum ở London. Ngay từ tháng 4 năm nay 2008 và còn tiếp diễn cho đến giữa tháng 7, đang có triển lãm tại Bảo tàng viện Boston's Museum of Fine Arts, qua tranh của hai họa sĩ Tây Ban Nha El Greco và Valazquez, về thời trang thế kỷ XXI và XVII.
Thời trang Việt Nam lần đầu tiên được trưng bày suốt ba tháng liền tại Wing Luke Museum Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, với những bộ áo dài và khăn quàng lụa vẽ Art onSilk của Trần thị Lai Hồng, từ tháng 9 năm 1992. Mới đây, tháng 4 năm 2006, một số áo mệnh phụ triều Nguyễn thế kỷ XX được nghệ sĩ Trịnh Bách phục chế, trưng bày cùng một số áo dài gọi là "cách điệu" của các nhà thiết kế Lê Sĩ Hoàng, Đặng thị Minh Hạnh, Lê Minh Khoa, Lê Phương Thảo và Monica Trần tại Viện Bảo tàng San José Museum of Quilts & Textiles, California.
Thời trang Việt Nam ngày nay rộ nở huy hoàng từ trong nước ra hải ngoại. Không thiếu những buổi trình diễn, nhan nhản từ thôn quê quan họ Bắc Ninh hay vùng Đồng Tháp, Huế Sàigòn Hà Nội, và khắp nơi nào có bóng dáng người Việt.
Tuy nhiên, qua thời gian, sự diễn đạt có khi đi lạc, nhất là khi dựng lại những nhân vật lịch sử, có thể vô tình, không đặt đúng vị trí không gian và thời gian xuất phát.
Mẹ Âu Cơ bốn nghìn năm trước, thời huyền sử, không thể dùng thời trang áo váy tứ thân thế kỷ XIV - XV hay áo ngũ thân quần hai ống thế kỷ XVIII. Hai Bà Trưng đầu thế kỷ thứ nhất không thể mặc quần mang boots mang bao tay và đội khăn vành Hoàng hậu Nam Phương. Công chúa Huyền Trân của triều đình Nhà Trần thế kỷ XIV không thể dùng thời trang triều Nguyễn thế kỷ XIX- XX.
VÁY hay QUẦN???
Những dẫn nhập dài dòng không phải vô tình mà có ý, khi nhắc nhở những nhân vật lịch sử.
Người Việt Nam ai cũng nhớ công đức Hai Bà Trưng, hai vị phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đã đứng lên hô hào tập hợp binh mã chống lại và đánh đuổi bọn thống trị Đông Hán, dành lại độclập. Hằng năm đến ngày giỗ Hai Bà, mồng 6 tháng 2 âm lịch, dân chúng trong cũng như ngoài nước đều long trọng tổ chức tưởng niệm. Có tế lễ, có diễn hành xe hoa, có đại nhạc hội, có họp bạn, và tất nhiên có trình diễn hình ảnh Hai Bà.
Trong nước, Hai Bà cỡi voi thật đi diễn hành. Ngoài nước thì dựng bàn thờ, có tranh vẽ Hai Bà rất trang trọng. Cả trong và ngoài nước đều có thiếu nữ công dung ngôn hạnh đóng vai Hai Bà, áo quần rực rỡ, huy hoàng lọng tía tàng vàng.
Vấn đề nêu ra, là trang phục của Hai Bà Trưng.
Tuy sử sách ta cũng như Tàu không hình ảnh để lại, nhưng đều ghi rõ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc. Hai Bà khởi nghĩa vào năm 39 thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, đánh đuổi Thái thú Tô Định, dành lại độc lập cho quê hương. Cả hai cùng lên ngôi vua, lấy hiệu Trưng Nữ Vương, trị vì từ năm 40 đến năm 43, thì bị Nhà Hán bên Tàu cử lão tướng Mã Viện sang đánh bại.
Thời điểm thế kỷ thứ nhất, trên tất cả thế giới, từ Tây sang Đông, đàn ông cũngnhư đàn bà đều mặc váy, vì chưa phát minh ra chiếc quần. Mãi đến thế kỷ thứ ba sau Thiên Chúa loài người mới sáng chế chiếc quần, và chỉ dân vùng đồng hoang cỏ dại cỡi ngựa chăn nuôi săn bắn mới dùng. Khi xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp, quần chỉ phổ biến trong giới bình dân. Chiếc quần qua Cổ Ba Tư vào thế kỷ thứ VI, lan sang Hy Lạp, La Mã, qua Trung Á, lên Mông Cổ, Mãn Châu, xuống Tàu vào thế kỷ XVII rồi vào Việt Nam. Phụ nữ Việt Nam vẫn mặc xống/ váy, nên có cụm từ áo xống đặc biệt ở Đàng Ngoài, cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ XVIII, đàn bà Đàng Trong mới bắt đầu bỏ chiếc váy để mặc quần cùng áo dài, dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, và cụm từ áo quần xuất phát vào thời điểm này.
Khăn đội đầu, áo khoác, váy, giày nam chiến sĩ
20,000 Years of Fashion, The History of Costume and Personal Adornment, Francois Boucher
Cuối thế kỷ XIV, đàn ông Tây phương vẫn mặc váy hoặc áo chùng
Ngay tại quốc gia văn minh tân tiến như nước Mỹ, mãi tới thế kỷ XIX, đàn bà Mỹ mới bắt đầu thay váy mặc quần, theo phong trào The Bloomer Costume hay Bloomers, do bà Amelia Jenks Bloomer cổ võ trên đặc san The Lily, tờ báo nữ đầu tiên tại Mỹ, vào năm 1848. Thời điểm này, đàn ông Anh, nhất là vùng Bắc Tweed, vẫn còn mặc váy, có khi ngắn cũn cỡn.
Thế kỷ thứ nhất, y phục Hai Bà Trưng tất nhiên là y phục xưa còn rõ nét khắc trên cán dao, lưỡi rìu, tượng đồng, và hoa văn trống đồng, gồm yếm, áo bên trong tròng đầu hoặc xẻ phía trước, ngắn ngang hông hoặc có hai vạt dài, áo khoác ngắn bên ngoài, mặc váy quấn hoặc váy chui, buộc thắt lưng có bản thòng dài che cả phía trước và phía sau, đeo kiếm, đầu quấn khăn gắn lông chim, bông lau hoặc tàu cau, lá cây, chân quấn xà cạp, mang dép giản dị.
Hai Bà Trưng, tranh Võ Đình
***
TRÁI hay PHẢI ???
Trước khi nói đến chuyện trái hay phải, xin hãy nhận xét áo của các đấng nam nhi. Có phải áo của quý vị mày râu vạt úp qua phải và cài nút bên phải không? Đúng vậy !
Bây giờ, mời quý vị nhìn lại, nếu quý bà quý cô ăn mặc theo kiểu Tây phương, chắc chắn áo quý vị cài bên trái.
Nhưng, xin nhấn mạnh chữ nhưng này, nhưng nếu quý bà quý cô mặc áo dài, thì áo dài Việt Nam của quý bà quý cô lại cài bên phải, như đàn ông ! Áo dài cài bên phải, dấu vết nô lệ còn sót lại sau một nghìn năm ta bị Tàu đô hộ. Nếu có người đẹp nào mặc qi pao/cheongsam/xường xám, tức là áo Tàu, thì rõ ràng áo Tàu cài bên phải.
Nhìn quanh thế giới, từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, như có một luật lệ ngầm không văn bản không ký kết, nhưng loài người cùng tôn trọng: đàn ông mặc áo cài bên phải, đàn bà cài qua trái. Duy chỉ có người Tàu, đàn ông đàn bà nhất loạt áo cài qua bên phải.
Những tài liệu tiền nhân để lại cho thấy người Việt luôn luôn cố gắng phấn đấu, không những bảo tồn từng tấc đất giang sơn, mà còn gìn giữ căn bản văn hóa dân tộc, trong số, phải kể đến chiếc áo dài phụ nữ. Sử sách ghi chép rằng người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo cài bên trái. Chỉ từ khi bị người Tàu xâm chiếm đô hộ, ta bị buộc đồng hóa, phải dùng kiểu Tàu: áo cài bên phải.
Trong bài viết về Y Phục Người Việt Qua Các Thời Đại, học giả Thái Văn Kiểm nhắc đến các sách Tàu như Lễ Ký, Luận Ngữ, Xuân Thu Tả Truyện, Hoài Nam Tử, nói về văn hóa, phong tục tập quán các sắc dân phía Nam nước Tàu, trong số có người Văn Lang Lạc Việt, thuộc nhóm Bách Việt phía Nam Hồ Động Đình.
Đặc biệt sách Luận Ngữ ghi chép những nhận định của Đức Khổng Tử, bản dịch của Đoàn Trung Còn, và Sử Ký Tư Mã Thiên, Sử Trung Quốc, bản dịch của học giả Nguyễn Hiến Lê, đều có nhắc lời Đức Khổng Tử khen Quản Trọng. Sách Luận Ngữ do Đoàn Trung Còn dịch, chương 14 về Hiến Văn, trang 222, ghi lời Đức Khổng Tử khi luận về các công thần tài trí hơn người, đã nói " Vi Quản Trọng ngô kỳ bị phát tả nhậm hỉ. " Nghĩa là nếu không có Quản Trọng thì ngày nay ta - tức là người Tàu phương Nam, trong số có Khổng Tử quê nước Lỗ ở phương Nam - phải cắt tóc, mặc áo cài bên trái vậy.
Quản Trọng là ai ?
Sử Ký Tư Mã Thiên ghi Quản Trọng là Tể tướng của Tề Hoàn Công nước Tề đời nhà Chu bên Tàu, thế kỷ X trước Tây lịch. Thời đó dân Việt còn ở phía Nam nước Tàu và là một trong nhóm Bách Việt. Rất tài trí, Quản Trọng lập chính sách " Phú quốc Cường binh, " tổ chức " ngũ gia liên binh " giúp Tề giàu mạnh, thu phục chư hầu, chinh phục các nước nhỏ phía Nam, coi như man-di, sửa đổi văn hóa phong tục, cách ăn mặc, bắt . bỏ kiểu áo cài bên trái gọi là tả nhậm, và phải theo Tàu cài qua phải gọi là hữu nhậm.
Lời khen của Đức Khổng Tử rất quan trọng, xác nhận các sắc dân phía Nam nước Tàu, phía Nam sông Dương Tử - trong số có Lạc Việt - xưa mặc áo cài qua trái nhưng bị Tàu đồng hóa buộc cài qua phải như họ.
Thế kỷ XVIII, thời ta bị nhà Thanh đô hộ, họ còn cấm dân ta để tóc dài, bắt phải dóc tóc bím đuôi sam, và không cho nhuộm răng đen. Người Tàu gốc nhà Minh không chịu theo nhà Thanh, đã di tản sang sinh sống tại Việt nam với cao trào Phản Thanh Phục Minh, không chịu dóc tóc thắt bím.
Việt nam cũng không chịu khuất phục áp lực người Tàu, mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ xuất quân ra Bắc quyết đánh đuổi quân xâm lược. Đêm ba mươi Tết, mặc tối đen âm thầm, mặc quân nhà Thanh ăn Tết, quân Nam tiến băng rừng tràn ra sa trường ...Bài hịch xuất quân chữ nôm của Vua Quang Trung nhấn mạnh:
Đánh để cho dài tóc/ đánh để cho răng đen
Đánh để cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ ...
Mặc dầu qua thời gian, việc cắt tóc ngắn và để răng trắng là những tiện nghi hữu ích, và là nét văn hóa chung cả toàn thế giới, nhưng tinh thần bất khuất của Vua Quang Trung cho thấy nước Nam ta có nền văn hóa riêng, và không bao giờ cúi đầu chịu nhục ngoại bang áp đặt đồng hóa.
Click this bar to view the full image. |
Về phía người bình dân, tập Tranh Dân gian Việt Nam Imagerie Populaire Vietnamienne của Maurice Durand, một học giả Pháp chuyên nghiên cứu Việt nam, viết về nghề khắc gỗ làm mộc bản, có in một bức Hai Bà Trưng và một bức Bà Triệu, ba vị nữ anh hùng dân tộc.
Hầu hết tranh dân gian từ cả 500 năm trước hoàn toàn chịu ảnh hưởng nặng nề của Tàu. Nhưng điểm son nghệ nhân khắc hai bức mộc bản này, là đã tôn trọng nét văn hóa Việt Nam rất rõ rệt: Hai Bà mặc áo kiểu Việt Nam xưa, không cài qua bên phải theo Tàu. Đặc biệt bức mộc bản Bà Triệu càng rõ rệt y phục người Việt xưa, vùng Núi Nưa Thanh Hóa mà cho đến nay người Mường còn giữ nếp cũ. Bộ y phục này bên trong là yếm và bên ngoài có áo cánh rồi áo khoác giống áo tứ thân nhưng không có cổ cao kiểu Tàu mà lại là giao lãnh, tức là hai vạt trước giao vào nhau.
Qua nhiều gian lao thử thách với các biến chuyển lịch sử, có khi chiếc áo dài bị hạn chế phổ biến vì cho là xa xỉ phẩm như dưới thời nội chiến Quốc Cộng Nam Bắc, suốt 30 năm liền, đàn bà ngoài Bắc phải ngắn gọn quần tây áo cộc như đàn ông. Nhưng sau khi chiếm được miền Nam, thống nhất đất nước, người Bắc ùa vào Nam thấy trù phú sung túc bèn " nhận hàng ",rồi chẳng bao lâu các bà các cô vụt bung đua đòi quần là áo lượt thời thượng rực rỡ màu mè, cổ cao cổ thấp không cổ hay khoét rộng hở vai hở ngực, tay dài tay ngắn tay loe, vạt hẹp vạt rộng ba tà bốn tà hay mớ ba mớ bảy, dài lệt bệt quét đất chẳng thấy đâu chiếc quần ...nhưng vẫn nô lệ áo cài bên phải theo lệnh Tàu.
Thời trang thay đổi tùy thích mỗi người theo phong trào chung cả thế giới, vì nếu không đổi mới chẳng được gọi là thời trang. Thay đổi để tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã và hài hòa kết hợp, nhưng vẫn giữ gìn truyền thống căn bản của mỗi dân tộc.
Nhưng, lại vẫn chữ nhưng quan trọng này, ta thoát ách đô hộ Tàu cả nghìn năm trước, và nay đã là một quốc gia hoàn toàn độc lập, không có lý do giữ lại dấu vết nô lệ lạc lõng giữa phụ nữ thế giới với quy luật y phục chung cho toàn cầu, là áo phụ nữ cài qua bên trái.
Áo dài phụ nữ cài bên trái, lý tình đều thuận hợp.
Trần thị Lai Hồng
Hoa Bang, hè 2007 sang Xuân 2008
Trích và bổ túc Tìm Hiểu Áo Dài Việt Nam của Trần thị Lai Hồng, đầu tiên đăng trên Phụ Nữ Ngày Nay 1986, và sau đó trên nhiều báo chí hải ngoại, báo điện tử www.gio-o.com/ cùng nhiều báo điện tử khác.
Nguồn: http://www.gio-o.com/TranThiLaiHongThoiTrangVaLichSu.htm
Tài liệu tham khảo :
- Anna Buruma, Fashion of the Past, Collins & Brown, London 1999
- Association for Viet Arts, Áo Dài: A Modern Design Coming of Age, San Jose Museum of Quilts & Textiles 2006
- Bernard Dupaigne, Vidage d'Asie, Edition Hazan, Italy 2000
- Francois Boucher, 20,000 Years of Fashion, The History of Costume and Personal Adornment, Expanded Edition 1967
- Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Linh, Hoàng Hưng, Lê Văn Lan, Thời đại Hùng Vương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1976
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Văn nghệ 2003
- Nguyễn văn Huyên, La Costume Annamite, Hanoi 1940
- Trần Trọng Kim, Việt nam Sử lược, Khai Trí 1971
- P. Huard và M. Durand, Connaissance du VietNam, E.F.E.O. Hanoi, 1954
- Tranh Võ Đình, tư liệu của Trần thị LaiHồng
Nguồn: Hocthuatphuongdong