Trần Ðộ
(1923 - 09.08.2002)
Trung tướng QĐNĐVN
Phó chính ủy quân giải phóng.
Thứ trưởng Bộ Văn Hóa
Trưởng ban Văn hóa Văn Nghệ Trung ương
Phó Chủ tịch Quốc Hội.
Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Huân chương Hồ Chí Minh
Do
bất đồng chính kiến với một số lãnh đạo cao cấp khác của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, ông bị khai trừ khỏi Đảng ngày 4 tháng 1 năm 1999 khi đã 58
tuổi đảng.
Ông
mất ngày 9 tháng 8 năm 2002 sau một thời gian dài lâm bệnh nặng, tuổi
cao, sức yếu. Đám tang ông có sự tham dự đông đảo mọi tầng lớp quần
chúng và trí thức, văn nghệ sĩ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi vòng hoa
đến viếng và gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn đã có mặt đông đủ.
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, Hà Sĩ Phu viết:
- Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
- Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm.
(trích Wikipedia)
Một đám tang không bình thường
2002-08-18
Lời giới thiệu: Quốc Hội Việt Nam Khóa XI đã họp xong và một chính phủ
mới do Đảng chỉ định cũng vừa được Quốc Hội chấp thuận. Tin thời sự này
đáng lẽ đã phải là điều đáng để cho dư luận trong và ngoài nước bàn
tán. Tin này tuy nhiên gần như đã bị lu mờ bởi một tin khác về cái chết
của tướng Trần Độ và đặc biệt về đám tang không bình thường của ông.
Mục ỘÁ Châu, Nhìn từ bên ngoàiỢ hôm nay có bài nhận định sau đây của
Trần Sơn Nam về những sự kiện ít khi được thấy trong những trường hợp
tang lễ được tổ chức cho một người vừa nằm xuống...
Về Tướng Trần Độ thì ít lâu nay, trong nước và ngoài nước, ai cũng
biết ông là đảng viên lâu năm của Đảng Cộng Sản Việt Nam với một bề dầy
là 58 tuổi đảng, ông cũng đã giữ nhiều trách nhiệm quan trọng trong
guồng máy của chế độ như Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Trưởng Ban Văn Hóa Văn
Nghệ Trung Ương v.v...
Gần đây, ông đã nhận thấy tình trạng bế tắc về mọi mặt ở trong nước và
đặc biệt hơn cả, mặt trái của cái Đảng mà ông đã phục vụ trong gần hết
cuộc đời. Ông công khai lên tiếng chỉ trích và lên án chế độ độc tôn,
toàn trị, phản dân chủ của Đảng, vì vậy mà bị Đảng khai trừ năm 1999 và
từ đó đến nay thường bị theo dõi, vu cáo, sách nhiễu cho tới ngày ông
từ trần vào cuối tuần qua.
Nếu chỉ có vậy thì chẳng qua đó cũng chỉ là một sự đau buồn cá nhân
của một ông tướng hơi giống nhân vật trong truyện ngắn ỘTướng về hưuỢ
của Nguyễn Huy Thiệp. Nghĩa là của một người mà đem cả cuộc đời ra
đóng góp cho Đảng, rồi đến cuối đời nhận thấy là đã bị Đảng phản bội.
Sự đau buồn ở đây lại khác, đó là một sự đau buồn chung cho tất cả mọi
người khi thấy Đảng đã cư xử tàn tệ với một vị tướng như ông Trần Độ
trước và ngay cả đến lúc ông nằm xuống, làm cho đám tang của ông không
còn là một đám tang bình thường nữa.
Ông mất ngày thứ Sáu tuần trước, song phần vì lúng túng không biết
phải phản ứng ra sao, phần khác lại ngại không dám để cho tin ông mất
loan rộng ra, mãi đến ngày thứ Ba vừa qua các phương tiện truyền thông
của Nhà nước mới đưa tin về cái chết của ông.
Đến hôm làm lễ tang, Nhà nước lại ra lệnh tang lễ chỉ được cử hành
trong một vài giờ đồng hồ để tránh sự tập trung của những người vì yêu
mến ông Trần Độ mà muốn đến phúng viếng và tiễn đưa ông về nơi an nghỉ
cuối cùng.
Nhà cầm quyền lúng túng, không biết đối xử với cái chết của ông Trần
Độ thế nào cho phải, điều đó cũng dễ hiểu vì dầu sao ông cũng là một
đảng viên kỳ cựu với 58 tuổi đảng, một cựu chiến binh mà có người gọi
là anh hùng, đã từng có nhiều đóng góp trong quá khứ.
Sau nhiều ngày cân nhắc Đảng mới có được quyết định cử ông Vũ Mão,
Trưởng Ban Đối Ngoại của Quốc Hội, đứng ra đọc điếu văn nhân ngày tang
lễ này và không để cho một nhân vật cao cấp nào trong Đảng hay Nhà Nước
đến dự.
Nhưng cái tệ chính là ở những cử chỉ nhỏ nhen, không xứng đáng, từ
phía chính quyền mà người ta nhận thấy trong buổi lễ. Hạn chế thời
gian hành lễ xong, Nhà nước còn bắt cắt bỏ tất cả những dòng chữ ỘVô
cùng thương tiếcỢ trên các vòng hoa phúng điếu thì quả thật là quá
đáng, chưa bao giờ ai thấy một việc ngang ngược như vậy ở một đám tang
từ trước đến nay.
Đến bài điếu văn của ông Vũ Mão cũng vậy, hoàn toàn thiếu tế nhị.
ỘNghĩa tử là nghĩa tận,Ợ người Việt ta đã có câu nói thật chí lý và
chí tình, vậy mà trong phần cuối bài điếu văn, ông Vũ Mão vẫn còn thấy
cần nhân danh Đảng nhắc lại là Ộthật đáng tiếc, ông Trần Độ đã phạm một
số sai lầmỢ như để ám chỉ đến sự kiện ông đã công khai đòi Đảng phải
tôn trọng quyền con người và thực thi tự do, dân chủ.
Đám tang của ông Trần Độ đã không bình thường do thái độ không mấy
xứng đáng của nhà cầm quyền, nó lại còn không bình thường hơn nữa do
phản ứng của tang gia đối với đại diện của nhà cầm quyền.
Nghe xong bài điếu văn của ông Vũ Mão, người con trai trưởng của ông
Trần Độ là ông Trần Thắng đã đứng lên tuyên bố là gia đình ông không
chấp nhận bài điếu văn của đại diện Nhà nước và lời tuyên bố này đã được
ngay sự đồng tình của số đông những người đến tham dự đám tang.
Nói chung về trường hợp ông Trần Độ, người vừa nằm xuống, thì gần đây,
ngay trong lúc ông lên tiếng chống đối Đảng, cũng vẫn có người chỉ
trích ông là một đôi khi ông còn ngây thơ nuôi hy vọng Ộcứu ĐảngỢ và
mãi đến cuối đời ông mới nhìn ra sự thật về mặt trái của Đảng, trong
khi một phần đông dư luận đã đi tới kết luận điều này là vô vọng.
Nhưng cũng có một số người khác ghi nhận cách ứng xử ngay thẳng và can
đảm của ông những năm gần đây. Sống trong vòng kìm kẹp của một chế độ
có thể đối xử tàn tệ với cá nhân ông hay gia đình ông, ông đã không
ngần ngại chấp nhận rủi ro để nói lên sự thật. Trong cuốn ỘNhật Ký Rồng
RắnỢ mà Công An tịch thu năm ngoái, ông đã ví chế độ như Ộmột sự kết
hợp giữa cái ngu muội của Tần Thủy Hoàng với cái dã man của chế độ
phát-xít Hitler.Ợ
Đây thật là một sự lên án nặng nề đến từ một người đã nhiều năm phục
vụ chế độ như ông, nên dầu như sự đóng góp đó vào công cuộc đấu tranh
đòi lại tự do, dân chủ cho dân tộc có muộn màng đi chăng nữa, nó vẫn
cùng đi theo hướng mà nhiều người ở trong nước cũng như ngoài nước đang
theo đuổi.
Đảng Cộng Sản, qua lời của ông Vũ Mão, cho rằng Ộvào cuối đời, ông
Trần Độ đã phạm một số sai lầm.Ợ Thực ra, nhìn vào cung cách đối xử
nhỏ nhen và không xứng đáng của Đảng đối với ông Trần Độ ngay cả lúc
ông đã nằm xuống, người ta có thể nói rằng nếu có sai lầm thì ông Trần
Độ đã sai lầm khi còn non trẻ ông đã chẳng may đặt nhầm niềm tin vào
một chủ thuyết không tưởng, lỗi thời và một Đảng không có tình người.
Nhìn lại những quan điểm của tướng Trần Độ, 4 năm sau ngày ông qua đời
2006-08-09
Nguyễn An, phóng viên đài RFA Hôm nay kỷ niệm bốn năm ngày trung tướng Trần Độ qua đời. Ông mất vào lúc 2 giờ 15 chiều ngày 9 tháng tám năm 2002 tại Hà nội, và được hoả táng lúc 1 giờ trưa ngày 14.
Cố tướng Trần Độ.
2006-08-09
Nguyễn An, phóng viên đài RFA Hôm nay kỷ niệm bốn năm ngày trung tướng Trần Độ qua đời. Ông mất vào lúc 2 giờ 15 chiều ngày 9 tháng tám năm 2002 tại Hà nội, và được hoả táng lúc 1 giờ trưa ngày 14.
Cố tướng Trần Độ.
Con người Trần Độ
Trần Độ là một con ngừơi dũng cảm và có lòng. Là người theo đảng cộng
sản từ năm 16 tuổi, gắn bó với đảng trong từng hoạt động, từng chiến
dịch, nhưng sau 59 năm, ông lại bị khai trừ khỏi đảng chỉ vì muốn đảng
tốt hơn.
Sống trong đảng từng ấy năm, ông hiểu rõ đến ngọn nguồn cái sức mạnh
ghê gớm và tàn nhẫn của guồng máy đảng, nhưng ông vẫn mạnh dạn lên
tiếng nói lên điều mà ông nhận thấy bằng trí tuệ và trái tim của mình,
vốn là điều tuyệt đối cấm kỵ tại bất cứ nơi nào đảng có mặt.
Nhưng chính vì nói lên được những tiếng nói như thế nên ông trở thành
một trong những người tiên phong trên con đừơng dân chủ cho đất nứơc mặc
dù bản thân ông bị vùi dập cho đến khi trở về với cát bụi.
Sinh năm 1924 tại làng Thư Điền, huyện Tiền Hải tỉnh Thái bình trong
một gia đình nho giáo trứơc khi thân phụ trở thành thư ký ở toà thống
sứ Bắc kỳ.
Ông bắt đầu tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1939, trở thành đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1940, bị Pháp bắt, kết án 15 năm tù
và đầy đi Sơn La vào năm 1941. Ba năm sau ông vượt ngục và từ đó hoạt
động trong nhiều lãnh vực mà ở lãnh vực nào cũng là người lãnh đạo.
Trong quân đội, ông là uỷ viên ban quân sự cách mạng thủ đô Hà nội từ
năm 1946, rồi phó chính uỷ khu 2 Hà nội, chính uỷ trung đoàn 209, rồi
quyền chính uỷ đại đoàn 312. Năm 1955, ông đựơc phong thiếu tướng, chính
uỷ quân khu hữu ngạn sông Hồng đến năm 1964 thì trở thành chính uỷ,
phó bí thư quân uỷ quân giải phóng miền Nam.
Những thăng trầm
Hoà bình lập lại, ông là phó trưởng ban tuyên huấn trung ương, thứ
trưởng bộ Văn Hoá Thông Tin rồi Trưởng ban Văn hoá văn nghệ trung ương
cho đến năm 1990. Ông là uỷ viên ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản
Việt Nam các khoá 3, 4, 5 và 6, đại biểu quốc hội các khoá 7 và 8, chủ
nhiệm uỷ ban văn hoá giáo dục và phó chủ tịch quốc hội.
Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai
trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế chấp
nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng nhằng,
nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi cũng
không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một phương thức
độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.
Đến khi phong trào đổi mới xuất hiện vào năm 1986, ông là một trong
những người cổ vũ mạnh nhất, và cũng là nhân vật chính trong việc soạn
thảo nghị quyết 5 về văn hoá văn nghệ, thừơng đựơc gọi là nghị quyết cởi
trói, tạo điều kiện xuất hiện cho dòng văn học phản kháng ở trong
nước.
Khi đảng Cộng sản Việt Nam thay đổi chính sách và xiết chặt trở lại sau
sự sụp đổ dây chuyền của các chế độ Cộng sản đông âu cuối năm 1989,
ông bị thất sủng.
Trăn trở với vận nước
Sau mấy năm nghiền ngẫm về thành quả mà đảng Cộng sản đem lại cho đất
nứơc và dân tộc, đầu tháng giêng năm 1995, ông viết một bức thư gửi cho
Tổng bí thư đảng lúc đó là ông Đỗ Mười, nêu ra vấn đề mà ông cho là căn
cốt và cơ bản. Đó là mối liên quan giữa đảng và chính quyền.
Ông cho rằng đảng phải chọn lựa một trong hai cách điều hành đất nứơc:
“Đảng cầm quyền hay đảng lãnh đạo. Đảng cầm quyền đồng nghĩa với đảng
toàn trị, đảng điều khiển sai bảo nhà nứơc, còn đảng lãnh đạo thì phải
có một nhà nứơc dân chủ pháp quyền, một nhà nứơc do dân, vì dân và của
dân, như điều 112 của hiến pháp năm 1992 đã nói.” Trong tinh thần
đó, ông hô hào phải có sự cải cách cơ bản chế độ bầu cử và ứng cử để
bảo đảm chọn đựơc các nhân tài thực sự cho đất nước.
Lá thư của ông không được trả lời, và đảng Cộng sản tiếp tục theo đường
lối cũ. Ông tiếp tục viết nhiều bài yêu cầu đảng trả lại tự do dân chủ
cho người dân, phê bình đường lối lãnh đạo của Đảng từ khi hoà bình
lập lại là sai lầm và chỉ đưa dân chúng đến đói khổ, đất nứơc đến điêu
tàn tụt hậu. Kết quả là đầu năm 1999, ông bị khai trừ khỏi đảng sau 59
năm theo đảng trên mọi chặng đường và trong mọi hoạt động và từng đựơc
ban thửơng những huân chương cao quý nhất. Trong bức thư viết vào tháng
7 năm đó, ông tuyên bố:
“Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai
trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế
chấp nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng
nhằng, nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi
cũng không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một
phương thức độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.”
Khát vọng dân chủ
Đó là một trong những phát súng thần công đầu tiên của khát vọng dân
chủ bắn thẳng vào pháo đài của đảng Cộng Sản bởi một con ngừơi đã cống
hiến cho đảng gần hết cuộc đời của mình.
Một tập họp bài viết quan trọng của ông Trần Độ là tập “Nhật ký Rồng và
Rắn,” viết vào thời gian cuối năm Canh Thìn tức 2000 và đầu năm Tân Tỵ
tức 2001, chỉ hơn một năm trứơc khi ông qua đời. Cuốn sách này đựơc
chính tác giả gọi là máu và nứơc mắt của ông trong những ngày cuối đời,
từng bị công an tịch thu, và dù ông viết thư nhiều lần để đòi lại,
những người đồng chí cũ của ông lúc đó đang ở các vị trí cao nhất nứơc
vẫn làm ngơ.
Trong bài viết ngày 3 tháng 12 năm 2000, ông nêu rõ bốn thứ của một xã
hội đời thường, đựơc ví như bốn bánh xe của một cỗ xe, đó là:
1. Một xã hội công dân 2. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ
không định hướng gì lôi thôi. 3. Một nhà nứơc pháp quyền (và) 4. Một
nền dân chủ đầy đủ. Ông nhấn mạnh rằng bộ máy quản lý xã hội ấy là một
bộ máy dân chủ.
Nói dân chủ là thì cứ phải dân chủ đã, không phải chưa nói đến dân chủ
đã đề phòng “dân chủ quá trớn”, đề phòng “lợi dụng dân chủ”.
Ở đoạn sau, ông viết:
“Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng
nhờ có nó sẽ có một bộ máy nhà nứơc bảo đảm đựơc mọi mặt nhu cầu đời
sống của mọi người chỉ là một ảo tưởng hão huyền. Thế mà đảng lại cứ bắt
mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm
vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ
nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng.
Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý
thuyết, một chủ nghĩa nào cả.”
Nhận định về đảng CSVN
Trong bài viết đề ngày 7 tháng 12 cùng năm, khi nói về sự chuyên chính tư tưởng, ông Trần Độ tuyên bố:
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ
nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng.
Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý
thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của
một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra
sức nô dịch toàn bộ tinh thần cuả nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con
người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo
thủ giáo điều……… Nó đang làm hại cả một nòi giống.”
Trong bài viết đề ngày 24 tháng 12, ông Trần Độ nói,
“thực chất là chế độ thì rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn
để lừa bịp nhân dân,” và ông liệt kê ra một số thủ đoạn tiêu biểu bao
gồm:
Thứ nhất là, thần thánh hoá, thiêng liêng hoá đảng, cấp uỷ và các nghị
quyết, mà điều vô lý nhất là bắt toàn dân phải học nghị quyết của
đảng……Không ai, kể cả báo chí, đựơc quyền nhận xét phê phán phân tích
các nghị quyết cả. Đã là nghị quyết thì chỉ có đúng và tài tình, là rất
thiêng liêng.
Thứ hai là khuyến khích và bồi bổ tệ nạn sùng bái cá nhân, là tệ nạn đã
bị lên án nặng nề trong phong trào cộng sản thế giới. Bao giờ ý kiến
của bí thư, uỷ viên thường vụ và cấp uỷ cũng là quan trọng, là thiêng
liêng, là chân lý.”
Một con người quả cảm
Những nhận định thẳng thắn như thế chỉ có thể viết ra bởi một con ngừơi
dũng cảm và có lòng. Trong bài viết đầu năm Tân Tỵ, ông Trần Độ đưa ra
những điểm mà đảng Cộng sản phải thực hiện nếu muốn bứơc ra khỏi con
đường mà ông cho là phản bội cách mạng:
“Thứ nhất là phải xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một
bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nứơc bằng cách tôn trọng
tất cả mọi ngừơi.
Thứ hai là phải tôn trọng hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ,
đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân đựơc
tự do làm ăn.
Thứ ba là phải để cho mọi tổ chức từ chính phủ, quốc hội, toà án cho
đến mặt trận tổ quốc, đựơc độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động
của mình, để cho mọi công dân đựơc suy nghĩ độc lập
Thứ tư, cụ thể là phải sửa ngay luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân.”
Trên đây là trích dẫn một số bài viết của ông Trần Độ trong nhật ký
Rồng và Rắn. Những nhận xét ấy mặc dù cực kỳ nghiêm khắc, nhưng vẫn
mang nặng ân tình; mặc dù nêu lên những điều thật khó tin, nhưng hoàn
toàn sát với thực tế, bởi tác giả của nó từng theo đảng trong suốt 59
năm và dù bị hắt hủi, vẫn tha thiết với những lý tửơng và những đồng
chí của thời thanh xuân.
Ông đã đứng về phía nhân dân để nói lên những yêu cầu mặc dù đơn giản,
và hợp lý mà chưa hề đựơc đáp ứng. Nhưng cũng vì thế mà có những người
khác tiếp bứơc ông trên con đường dân chủ hoá đất nứơc. Con đừơng ấy
dẫu có dài, nhưng đã đi thì ắt là có lúc đến.
Nhà văn Võ Bá Cường và 'Chuyện tướng Độ'
TP
- Cuốn sách nhà văn Võ Bá Cường vừa tặng, chưa biết trong đó viết lách
ra sao, bụng tôi đã thầm cảm phục tác giả, bởi ông viết về một nhân
vật không dễ viết; không dễ viết bởi nhân vật có vấn đề “nhạy cảm”: Cựu
trung tướng Trần Độ.
Để
viết được cuốn sách, trước hết phải kể cái lợi thế là tác giả cùng quê
Thái Bình với tướng Độ. Thứ nữa, tác giả có một đặc điểm trong tính
cách là ông sống rất quảng giao. Nhờ quảng giao mà Võ Bá Cường tiếp cận
được với tướng Độ ngay từ khi tướng quân còn sống, còn khỏe.
Một
lần Võ Bá Cường còn kéo được cùng một lúc ba nhân vật cỡ trung ương
quê gốc Thái Bình là tướng Độ, Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Đức Tâm về ngôi
nhà của ông ở huyện Đông Hưng, trải chiếu giữa sân đàm đạo chuyện đời,
chuyện văn chương.
Nhờ quảng giao mà Võ
Bá Cường có trong tay cuốn hồi ký của tướng Độ ngay sau khi nó vừa ráo
mực. Cuốn hồi ký này là nguồn tư liệu chính để tác giả khai thác. Tiếp
nữa, phải kể đến cái máu nghề nghiệp.
Máu
nghề nghiệp đã giúp Võ Bá Cường vượt qua rất nhiều định kiến, rào cản
để tiếp cận với những nhân vật lớn như Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Võ
Văn Kiệt… và những nhân vật “không lớn” nhưng có mối quan hệ gần gũi
với tướng Độ, như ông Nghiêm Hà, thư ký riêng của tướng Độ từ thuở ở
chiến trường miền đông nam bộ cho đến khi tướng quân về hưu.
Bác
sĩ Đỗ Văn Thiên, người có nhiệm vụ trông nom sức khỏe tướng quân cho
đến tận lúc tướng quân mất. Rồi những người thân yêu, ruột thịt như bà
Nguyễn Thị Phúc Hằng (vợ tướng Độ), bà Tạ Thị Xuyến (em gái tướng Độ),
Đại tá quân đội Trần Toàn Thắng (con trai cả tướng Độ)… là những tư
liệu sống giúp nhà văn viết tác phẩm.
Là
một công chức về hưu, với đồng lương khiêm tốn, để có được hàng chục
chuyến đi “mò” tài liệu ở Hà Nội, không ít lần Võ Bá Cường đã phải gõ
cửa các cơ quan công quyền ở Thái Bình. Tuy cũng có những người nghi
ngại, nhưng cũng không thiếu những người vì nghĩa mà vượt lên tất cả,
ủng hộ tinh thần và cả tiền bạc, phương tiện cho nhà văn.
Ông
Đặng Khiêu, Giám đốc Sở Lao động – TBXH Thái Bình, khi biết tin Võ Bá
Cường viết sách về tướng Độ đã lấy xe con đưa tác giả vào tận nghĩa
trang Trường Sơn thắp nhang khấn vong linh các liệt sĩ hãy vì lòng yêu
mến và kính trọng tướng Độ mà phù hộ cho công việc của nhà văn thông
dòng bén giọt.
Tuy thế, cũng không ít lần
Võ Bá Cường bị rơi và hoàn cảnh rất chi là… hoàn cảnh! Chẳng hạn cái
hôm lang thang ở Sài Gòn, sờ túi thì đã rỗng. Sực nhớ số điện thoại của
bạn văn Nguyễn Khoa Đăng, liền gọi cầu cứu. Nguyễn Khoa Đăng không dư
dả tiền bạc, liền lấy sổ tiết kiệm của vợ rút bớt một ít tặng bạn.
Để
tránh những xoi mói, nghi kỵ,Võ Bá Cường còn phải nhờ vả đến những
quan chức có thế lực cùng quê Thái Bình mà ông rất lấy làm hãnh diện và
tin cậy như Nguyễn Ngọc Trìu, Hà MạnhTrí…
Cuối
cùng thì 318 trang sách đã được ông viết xong. Chân dung tướng Độ hiện
lên qua xâu chuỗi những chuyện kể, với thời lượng từ lúc tướng Độ chào
đời cho đến năm cuối áp chót của cuộc chiến tranh chống Mỹ, năm 1974.
Ngần
ấy trang sách, Võ Bá Cường đã cung cấp cho bạn đọc hiểu thêm về cuộc
đời một vị tướng tài ba, nhiều công trạng, có cá tính, thuộc dạng “công
thần” của cách mạng Việt Nam: 16 tuổi, Trần Độ đã đi hoạt động; 17
tuổi toan tính làm chuyện “tầy đình”, không may bị địch bắt. Bị tống
giam hết nhà lao Thái Bình đến Hỏa Lò, rồi lại đưa lên nhà tù Sơn La.
Qua
các nhà tù này, Trần Độ có dịp tiếp xúc với nhiều nhân vật cách mạng
lớn, trở thành bạn tù với các ông: Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nguyễn
Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt , Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân, Tô Hiệu…
Trần Độ từng nếm trải những đòn tra tấn, có lẽ nó thuộc dạng man rợ độc
nhất vô nhị trên hành tinh này…
Khi được
tổ chức bố trí vượt ngục, Trần Độ được quyền lựa chọn một trong hai
cương vị: Bí thư Tỉnh ủy Phúc Yên hoặc Phó chính ủy khu II. Không một
chút đắn đo, ông chọn con đường thứ hai: Cầm súng!
Bức ảnh với bút tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
Những
năm tháng này Trần Độ có dịp gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh, sát cánh kề
vai cùng những tướng lĩnh cao cấp nhất trong quân đội: Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Cầm, Tạ Xuân Thu, Văn
Phác, Mai Chí Thọ…
Cuộc kháng chiến chống
Pháp kết thúc. Sau cuộc chiến, công việc xây dựng và củng cố lực lượng
quân đội bộn bề, ngoảnh lại, loáng cái đã 10 năm. Trần Độ chưa làm
được việc gì đáng kể cho vợ con thì lại có lệnh đi B, vào tận miền đông
Nam bộ, nơi có cơ quan trung ương Cục miền Nam.
Ở
đây tướng Độ lại có dịp kề vai sát cánh, ăn cùng mâm bát với những cán
bộ cao cấp, những tướng lĩnh sáng danh: Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Chí
Thanh, Nguyễn Thị Định, Lê Trọng Tấn,Hoàng Cầm, Trần Văn Trà, Hoàng Văn
Thái, Lê Đức Anh, Văn Phác…
Vai trò của
tướng Độ ở trung ương Cục miền nam là không hề nhỏ. Chả thế mà đã có
lúc thất bại nặng nề, quân đội đối phương phải tung tin trên đài phát
thanh Sài Gòn rằng tướng Độ đã tử trận! Chúng còn làm giả hình ảnh thi
thể tướng Độ nằm chờ khâm liệm in trên báo nhằm trấn an tinh thần binh
lính.
Đấy là hình tượng tướng Độ với cương vị Chính ủy mà cuốn sách của nhà văn Võ Bá Cường cung cấp cho bạn đọc.
Cái thông điệp thứ hai không kém phần quan trọng mà cuốn sách giúp bạn đọc nhận biết, đó là Tướng Độ, một nhà nhân văn tầm cỡ!
Vốn
có tư chất thông minh, lại được sinh ra trong một gia đình có giáo
dục, Trần Độ sớm có điều kiện tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Lỗ Tấn, Tào Ngu, Liép Tônxtôi, Vichto Huygô không hề xa lạ với
ông. Cho nên khi quân đội lập tờ báo đầu tiên là Vệ quốc đoàn (tiền
thân của báo Quân đội nhân dân sau này) thì người được phân công phụ
trách, không ai khác là Trần Độ.
Rồi
việc sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam cũng không thể thiếu vai trò của
ông. Với những tác phẩm, bài viết (thời ở trong Nam lấy bút danh là Cửu
Long) đã chứng tỏ Trần Độ là một cây bút văn xuôi chính luận sáng giá.
Trần Độ có quan hệ thân thiết với nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của nước
nhà. Không ít người coi Trần Độ là một người anh lớn.
Những
trang Võ Bá Cường mô tả Trần Độ sống ấm áp với cấp trên, vị tha với
cấp dưới, yêu thương săn sóc cả con ngựa chiến của mình… chứng tỏ trong
tâm hồn ông mang những giá trị nhân bản. Những dòng mô tả chuyện đổi
tên của Trần Độ cũng rất đáng chú ý. Họ tên đầy đủ của ông là Tạ Ngọc
Phách.
Thời kỳ hoạt động bí mật, bán công
khai, tổ chức đặt tên cho ông là Độ. Khi ông đến một nơi nhận công tác
mới, thấy ông xưng tên như thế thì một đồng chí bảo, nếu tên là Độ thì
lấy họ Trần nghe thuận tai hơn. Thế là ông gật, lấy họ Trần. Cái tên
Trần Độ có từ đó. Ông thật thà và hay thể tất đến thế, “nghệ sĩ” đến
thế nên được sống bên ông, ai ai cũng yên tâm.
Năm
1974, sau chín năm chỉ huy chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Trần Độ
ra Bắc nhận quân hàm trung tướng (sau 16 năm đeo hàm thiếu tướng),
việc đầu tiên cần làm là ông đi thăm hỏi nhân dân xem ở cái nôi xã hội
chủ nghĩa miền Bắc họ sống ra sao.
Cùng
thời điểm ấy ông được sang thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Ông đã nhận
ra rất nhiều điều chưa ổn và không ổn trong nguyên lý cũng như thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thế là
ông viết một lá thư mà ông gọi là Thư tâm huyết, dài 14 trang, trình
bày tất cả những gì ông thấy, ông nghĩ, ông muốn về xây dựng chủ nghĩa
xã hội, gửi tới ba lãnh tụ đảng cộng sản: Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức
Thọ.
Tướng Độ vốn vẫn coi ba người lãnh
tụ này như ba người anh lớn của ông nên giọng văn viết thư là cái
giọng mềm mại, nhưng ông lại không hề né tránh cả những điều mà ngày ấy
nói ra rất khó nghe, thậm chí gặp nguy hiểm.
Chẳng
hạn ông nói về những nguy cơ làm suy yếu, làm biến chất đảng; những
bất cập trong quản lý của chính quyền nhà nước; sự rỗng không của cái
gọi là cơ sở kinh tế chủ nghĩa xã hội; rồi tệ sính thành tích, nói và
làm không đi đôi với nhau. Ông còn phát hiện một sự nhầm lẫn khái niệm
trong lý luận của Stalin và dự báo những hậu quả của nó. Rồi ông kiến
nghị, hiến những giải pháp.
Giải pháp
đáng chú ý nhất là ông đề nghị mời những nước có nền kinh tế phát triển
vào trong nước hợp tác đầu tư, không kể đó là nước XHCN hay TBCN… bây
giờ thì chúng ta đang làm đúng như lời “điều trần” của ông cách đây đã
33 năm!
Nhà văn Võ Bá Cường đã công bố
nguyên vẹn bức thư ấy ở phần cuối cuốn sách của ông. Chính bức tâm thư
của tướng Độ đã giải tỏa bớt cái không khí tương đối tĩnh lặng, bằng
phẳng, đều đều trong lối viết cổ điển của Võ Bá Cường.
Bức
tâm thư ấy có lửa. Nó làm cho phần cuối cuốn sách sinh động hẳn lên.
Nó hé mở cho bạn đọc biết chờ đợi phần tiếp theo của cuốn sách.
Nếu
như có tập hai, tôi tin nhà văn Võ Bá Cường sẽ viết về đoạn đời còn
lại của tướng Độ, một đoạn đời đầy giông bão. Cái đoạn đời từ lúc ông
cởi bỏ quân phục, sang làm trưởng ban Văn hóa – văn nghệ trung ương cho
đến phút ông trút hơi thở cuối cùng, trở về với cát bụi.
Thái Bình – Nam Định, ngày 17 và 18/8/2007.
Nhà văn Lê Hoài Nam
"Đảng Cộng Sản nêu khẩu hiệu đoàn kết toàn dân nhưng trên thực tế hành động thì không. Đối với những người Việt còn ở nước ngoài thì ai cũng như là kẻ địch, còn trong nước đối với trí thức không tin cậy, đối với tôn giáo thì cũng nhiều nghi ngờ. Chứ nếu thực lòng đoàn kết toàn dân thì sẽ tạo nên một sức mạnh ghê gớm lắm." - Trần Độ
Hai
tháng trước khi qua đời, tướng Trần Độ đã dành cho đài BBC
Luân Đôn một cuộc phỏng vấn dài, trong đó ông kể lại cuộc đời
hoạt động của ông cũng như những băn khoăn suy nghĩ về Đảng
Cộng Sản và những mong ước cho đất nước.
Links:
Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 1 | |
Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 2 | |
Hương Ly phỏng vấn Tướng Trần Độ (06/2002) - Phần 3 |
(theo BBC)
*****