Tim thông tin blog này:

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2023

"Trận đánh nhớ đời !" cùng các chiến sĩ d12

Câu chuyện xảy ra vào khoảng đầu năm 1981. Tiểu đoàn 12 của Đoàn 5503 thuộc Mặt trận 579, đảm nhiệm địa bàn huyện Siem Bouk, tỉnh Stung Treng, Campuchia. Vào thời gian ban chỉ huy tiểu đoàn đi tập huấn hay họp hành gì đó ở cấp trên nên vắng mặt, ủy quyền chỉ huy tại đơn vị cho anh Trần Quốc Tuấn - Trợ lý Chính trị. Lúc ấy, Tổ trưởng tổ phái viên - Nguyễn Văn Hùng trực tiếp phụ trách xã Sre Krosang, về nước nghỉ phép. Tôi thiếu úy Trần Văn Hùng là Tổ phó phụ trách xã Siem Bouk tạm kiêm nhiệm thêm xã trên.

Một ngày nọ.

Chính quyền địa phương cấp báo có 2 tên Pol Pot ra hàng ở Sre Krosang, mang theo 2 súng AK báng gấp. Trước đó, xã này đã có dấu hiện nghi ngờ địch lén lút về hoạt động lôi kéo dân nên tôi tức tốc đi xuống phum để gặp ngay. Xác định đối tượng xong, thông qua cấp huyện Bạn, tôi xin đưa 2 tên về ban chi huy tiểu đoàn.
Trước khi khai thác thác tin tức, tôi nói nuôi quân cho họ ăn cơm nhiều, đồ ăn khá tí. Để họ bớt sợ, tôi thân thiện ân cần thăm hỏi về gia đình và cuộc sống trong rừng. Tôi động viên họ cung cấp tin tức và dẫn Ta đến chỗ đồng bọn. Sẽ được khen thưởng, cam kết không bắt bỏ tù, sớm được về sống với vợ con. Tôi hứa danh dự chỉ nhằm gọi hàng chứ không chủ đích dẫn quân đi đánh. Thủ pháp là nâng đỡ tinh thần họ, hứa hẹn kết hợp với răng đe hù dọa, thậm chí là ép buột…
Một người tên Chanh – Đội phó, người còn lại tên Luân – Đội viên của đội vũ trang tuyên truyền. Ngày hôm sau, họ dẫn đơn vị đi lấy vũ khí chúng dấu ém trong cái chòi lá trong rừng, thu được 5 súng (có 1 B40). 

Quyết tâm và phương án tiến hành.

Được biết địch có chừng 10-12 tên (2 nữ không súng), trực tiếp chỉ huy là bí thư huyện. Chỗ ẩn náu trên núi thuộc tỉnh Kratié giáp ranh với tỉnh Stung Treng, không tổ chức canh gác và bố phòng chông mìn. Đi cắt rừng theo đường mòn bí mật của chúng, khoảng một ngày rưỡi là tới... Tôi nhận định 2 người ra hàng cách xa đơn vị địch, chắc chắc tin ra hàng chưa thể đến ngay tai địch ở xa. Trong đầu tôi hình thành ngay quyết tâm đánh vào căn cứ xuất phát của chúng và phải làm nhanh nhất có thể. Vấn đề gay góc là làm sao đã thông tư tưởng để họ chịu dẫn đi vì lẽ thường tình không ai muốn dẫn đối phương xa lạ đánh đồng đội đồng bào của mình - những người chia cơm xẻ cật với mình. Hai hàng binh lưỡng lự, dùng dằng, đồng thời lo sợ gặp nguy hiểm… Để họ vững lòng, tôi bảo: nếu các anh dẫn chúng tôi đi, tôi sẽ giao lại súng cho hai anh - đó là lòng tin tôi đặt nơi các anh. Tôi hứa danh dự sẽ tìm cách bắt sống, trừ trường hợp chống đối, buột lòng chúng tôi mới nổ súng. Hai anh sẽ đi sát với tôi và chúng ta sẽ bàn nhau cách ứng phó trong mọi tình huống… Cuối cùng họ đồng ý.
Tôi lên gặp Quyền chỉ huy, đề xuất thông qua Phương án. Điểm gay cấn và nguy hiểm nhất là khả năng quân ta đánh quân mình. Vì Tiểu đoàn điện báo lên Đơn vị cấp trên là Đoàn 5503, rồi Đoàn 5503 báo lên Mặt trận 579, thông tin qua Mặt trận 779 thông báo xuống... tận đơn vị đảm nhiệm khu vực dự kiến Ta sẽ đánh vào. Theo bài bản thông tin như vậy, thời gian là quá muộn.
Tôi thuyết phục anh Tuấn quyền chỉ huy D, không thể chờ, thắng hay bại ăn nhau ở thời gian. Nếu chậm thì địch hay tin đã lộ có thể sẽ di dời, bố phòng chông mìn đối phó, thậm chí là phục kích Ta. Anh Tuấn nghe tôi vẽ phương án có lý với chiến công ngon ăn hấp dẫn không thể bỏ qua, nên cũng xuôi lòng với kế hoạch đầy mạo hiểm.
Vậy là chúng tôi đi đánh địch mà không có quyết định từ cấp cao hơn, theo kiểu ngẫu hứng lý qua cầu, tùy nghi xử lý tình huống theo tình hình cụ thể. 

Kế hoạch và giả định tình huống xử lý.

Kế hoạch tôi đề xuất là thế này: Tổ chức thật gọn nhẹ, hàng binh dẫn bộ đội ta theo đường mòn của chúng thường đi đến căn cứ trên núi. Tiếp cận mục tiêu, trinh sát, đêm xuống sẽ áp sát bao vây, gọi hàng bắt sống, nếu địch nổ súng chống cự ta tiêu diệt. Yếu tố bí mật – bất ngờ được đặt lên hàng đầu. Giả định tình huống và cách sẽ xử lý, tôi tin khó thể xảy ra nhưng cũng nghĩ tới mà để phòng. Khả năng nếu tình cờ gặp đơn vị khác thuộc MT 779 trên đường đi. Rất khó thể xảy ra vì đó là đường mòn bí mật chỉ quân Pol Pot mới biết. Có chăng hạn hữu đơn vị bạn hành quân cắt ngang qua gặp quân ta, rừng núi mênh mông dễ gì ! Khả năng thứ hai cũng rất hạn hữu là có thể đụng đầu nếu đơn vị bạn đang truy quét địch ở khu vực này hay đã đánh chiếm căn cứ địch. Nhưng tôi tin đi đầu đội hình là 2 hàng binh Kh'mer, bản năng rừng núi họ rất nhạy cảm, phát hiện mọi dấu vết và bóng người nhanh hơn hẳn bộ đội Việt Nam, chắc chắn mình sẽ chủ động xử lý được. Tình huống gặp địch giữa đường, một hai tên Pol Pot đi lại dọc đường mòn là có thể xảy ra nhưng chắc chắn là không đáng ngại, hàng binh sẽ thấy, Ta sẽ không đánh mà tránh né cho qua. Nếu đã bị lộ tin, địch ở hậu cứ tổ chức bố phòng thì qua những dấu hiệu lạ, hàng binh đi cùng sẽ biết vì cùng một ruột chiến thuật, ở cùng một nhà với nhau. Ta không thể rơi vào bẩy, đành bỏ cuộc, quay về. 

Tổ chức lực lượng và trang bị.

Tổ chức hết sức gọn nhẹ ! Tôi và 5 anh em (lấy từ trung đội trinh sát tiểu đoàn), 6 người trang bị 6 AK, mỗi người 2 băng đạn, 2 lựu đạn. Hai hàng binh, 2 AK, cấp mỗi người 3 viên đạn để tự vệ. Không có cứu thương, không máy thông tin, không súng hỏa lực. Chỉ mang theo bản đồ để đối chiếu với thực địa, xác định vị trị. Chúng tôi đi vào vùng đất mà mình hoàn toàn không rõ, chỉ mường tượng trên bản đồ, mọi chuyện ở phía trước, không thể lường sẽ ra sao...

Chúng tôi xuất phát.

Vào ngày thứ ba, tức là sau 48 giờ kể lúc 2 hàng binh đầu thú. Đội hình chia thành 2 tốp nhỏ: Tốp đi đầu: tôi mặc áo xanh, mũ vải dân sự nghi binh và 2 hàng binh đi đầu. Tốp đi sau là 5 chiến sĩ, luôn giữ khoảng cách trong tầm nhìn để liên lạc và hổ trợ chiến đấu (khoảng 5 đến 15 mét tùy địa hình). Quy định thống nhất dù thấy địch, không ai được nổ sung khi chưa có lệnh của tôi.
Hành quân, ngày đầu tiên. Gần trưa, chúng tôi đang lầm lũi bước thì bỗng nghe tiếng sột soạt và thấy bóng người chạy dạt vào ven rừng. Chúng tôi không bắn truy đuổi. Một lúc sau nghe tiếng vài phát súng, chúng bắn làm tín hiệu để liên lạc lại với nhau. Tôi hỏi thì hàng binh cho biết đó là lính của Đội chúng, theo dấu chân thì đó là thằng A với thằng B trên đường đi về Phum, tình cờ gặp quân ta chiều ngược lại. Chúng phát hiện trước, núp vào ven đường khi thấy tốp lính ta phía sau, biết là gặp phải bộ đội VN mới bỏ chạy. Tôi nghi ngờ hàng binh biết trước nhưng không ra dấu hiệu cho tôi, cố tình cho lộ để đồng bọn bỏ chạy, tôi để bụng, không trách móc gì. Tôi nói: rứa là yên tâm, địch chưa hề biết các anh đã ra hàng nên mới đi bất ngờ gặp như vậy. Hai hàng binh ngần ngại không muốn đi tiếp, tôi tiếp tục động viên tinh thần cho họ.
Dọc đường, quan sát mọi dấu vết cho thấy không có gì đáng ngại. Chiều xuống, chúng tôi nghỉ qua đêm.
Ngày thứ hai. ... Chúng tôi quan sát kỹ lưỡng mới nhanh chóng qua đường, cắt ngang quốc lộ 13, vượt biên giới sang đất tỉnh Kratié. Rồi bắt đầu leo núi không cao lắm, khu vực chúng ở bình độ cao vài trăm mét.
Xế chiều, đến gần chỗ ẩn náu của địch ước chừng khoảng 3 km, tôi cho tạm dừng ém quân, lo cơm nước. Tôi bảo 2 hàng binh dẫn tôi đi trinh sát. Tiếp cận mục tiêu thấy một bãi phân còn mớ, vào gần hơn, nhìn qua khoảng trống, bên kia rặng cây, thấy một cô gái với hai thằng nam ở trần dáng mập, chúng đang làm gì đó và tán chuyện với nhan. Một sinh hoạt bình thường, tôi chỉ cần vậy, yên tâm là đối phương chưa hề hay biết chuyện đồng đội ra hàng. Ba chúng tôi quay về nơi ém quân ăn uống. Họp thống nhất cách vây bắt và đánh ban đêm.

Tổ chức tiếp cận mục tiêu và đánh.

Lực lượng chia làm 3 mũi, mỗi mũi 2 chiến sĩ. Mũi hướng chính: Tôi và 1 chiến sĩ cùng 2 hàng binh. Tất cả bí mật bò vào áp sát mục tiêu, hình thành thế bao vây. Tuỳ địa hình địa vật, các mũi vào gần sát địch nhất theo khả năng có thể được. Đâu vào đó ổn rồi thì 2 hàng binh sẽ lén vào lấy súng đưa ra (đêm lạnh trong rừng chúng ngủ say thoải mái). Xong, tôi gọi hàng, bắt sống, tên nào chống cự, nổ súng tiêu diệt.
Chừng 6 giờ tối, chúng tôi bỏ lại ba lô chỗ tập kết quân, xuất phát như phương án đã định, đi dè dặt để giữ bí mật... 2 tiếng sau đến mục tiêu. Từ xa đã thấy đóm lửa, tôi rất mừng là vì hồi chiều mình vào trinh sát có để lại dấu vết gì không, e bị lộ. Khi nghe ngóng tình hình bên trong êm ắng, tôi khoát tay chỉ các mũi tiến vào theo mục tiêu định hướng là đống lửa chúng đốt sởi ấm cho ban đêm đỡ lạnh.
Chúng tôi nhắm hướng ánh lửa, nhẹ nhàng đi khom tiếp cận, tiếp nữa là bò vào áp sát. Tôi nghe tiếng động khẻ lộp bộp của bước chân và va chạm lạch cạch nhẹ của vũ khí của 2 mũi còn lại nhưng địch không hề hay biết. Mũi của tôi vào cách địch nằm chừng 7 mét, nằm chờ, bò tiếp còn 4 mét.
Từ lùm cây, tôi quan sát thấy khá rõ vì nhờ ánh sáng của đống lửa. Gần nhất là 1 tên nằm võng, bên cạnh là sạp cây có 3 tên nằm, kế bên nữa 1 tên nằm võng. Tôi thầm thì với hàng binh: Bí thư huyện là thằng nào, hàng binh chỉ vào tên đang nằm võng. Tầm 9 giờ, thấy chúng có vẻ đã ngủ thật say, tôi khoát tay ra dấu cho hai hàng binh vào lấy súng như phương án đã vạch.

Bất ngờ nổ súng và Chiếm lĩnh trận địa.

Chỉ độ lát sau, tôi thấy 2 hàng binh chạy ngược ra, miệng la. Trời. thế là bể kể hoạch! Loáng thoáng bóng người nhào khỏi vị trí, với tay chụp súng. Tôi ngồi bật dậy, quất một loạt súng vào cái võng, rồi bước lên đứng khom bắn găm, quất tiếp mấy loạt nữa vào chỗ sạp cây. Hai mũi kia đồng loạt nổ súng dòn dã. Một mục tiêu nhỏ, 3 mũi giáp công, từng tràng súng đanh gọn chớp nhoáng, như cảnh trong phim hành động của Hollywood. Anh sáng từ nòng súng AK của mũi kia phụt lửa ra dài ngoằng như nổ về hướng mình, rát ràn rạt! tôi phải thụp người xuống sợ trúng đạn của nhau. Tiếng súng nổ chan chát, tiếng sột soạt người chạy, tiếng la í ới của ta lẫn địch, vang vọng giữa đêm khuya vắng.
Khoảng vài phút sau, khi không còn nghe tiếng động người chạy. Tôi lệnh dừng bắn, nghe ngóng tình hình. Chỉ còn lại là tiếng kêu la của mấy tên trúng đan. Tôi nói hàng bình xác đinh tên bí thư đã chết cho chắc chắn. Rồi bảo đi tìm gom hết súng về chỗ đống lửa, được 5 khẩu AK. Ngoài ra, lính ta không hưởng sái chiến lợi phẩm nào khác, dù là đồ dùng cá nhân nhỏ nhất. Vì chúng đói rách te sơ mướp, sống cực khổ, hai tên thấy dáng mập ban chiều là do ăn củ nần mà bị phù thủng.
Kiểm tra tình hình sơ bộ: 3 tên chết tại chỗ, 2 tên trúng nhiều đạn bị thương rất nặng. máu me tùm lum. Hai con nữ chạy dạt ra ngoài, la í éo. Tôi bảo Chanh, Luân, 2 hàng binh: hãy xưng tên cho tên sóng sót biết là bộ đội Việt Nam đang bao vây toàn bộ khu vực, không chạy lung tung sẽ trúng mìn và bị bắn chết (hù cho sợ!). Và kêu gọi 2 con nhỏ ra hàng chỗ đống lửa. Một lát sau, Chanh dẫn vào 2 cô gái.

Giải quyết hậu sự. 

Biết 2 côn gái là thanh niên xung phong, chúng tôi không trói. Gay nhất là 2 tên bị thương, kêu mẹ ơi: chết con rồi, nghe rất chùng lòng. Và chúng réo tên 2 hàng binh hãy cứu chúng, vang trong rừng nghe đến nổi gai ốc! Biết là trúng đạn lệt cụp như thế, chắc chắn là không sống được nhưng không thể bắn bồi cho nó chết trước mặt tù hàng binh chứng kiến, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh quân đội ta. Tôi buột phải nói lính mình băng bó cho qua chuyện. 30 phút đến 2 giờ sau, một tên chết, tên còn lại tắt thở nốt vì mất máu. Thần kinh không còn tra tấn bỡi những tiếng kêu ghê rợn giữa đêm thanh vắng.
Chúng tôi giãn đội hình ra xa nơi nổ súng để phòng địch phản công và tránh ngửi mùi tanh của máu. Tôi bảo Chanh hàng binh kiếm giấy viết lời kêu gọi cho đồng bọn, bò vào túi ny long, kẹp lên nhánh cây, để đồng bọn chúng có quay trở lại chỗ đánh này tìm xác, xem thấy ra hàng. Chúng tôi dịch ra khu vực nổ súng, ngồi thức, ngủ chập chờn, mờ sáng hôm sau chúng tôi rút quân. Trên đường về, chúng tôi có ghé một phum thuộc xã Osay Kondal để giảo lao, ăn uống, xả hơi. Lúc mới vào đầu phum, dân làng bỡ ngỡ, hoảng hốt khi thấy Pon Pot đi cùng bộ đội Việt Nam… 

Kết quả toàn cuộc và mấy điều suy nghĩ:

Phía ta tuyệt đối an toàn. Tôi bắn 4 loạt, chỉ hết 16 viên đạn, các chiến sĩ còn lại bắn nhiều hơn một tí. Tôi tò mò hỏi hàng binh Chanh, Luân có ai nổ súng không? Luân cho hay: em có bắn một phát vì nó bắn lại mình (tôi đoán là Luân thấy mũi bộ đội ta ở hướng đối diện bắn quá gần nên tưởng địch bên trong đánh trả). Bình tâm nghĩ lại: bao vây gọi hàng trong đêm, sẽ bắt sống được địch là điều không tưởng vì địch đang ngủ say, khi nghe tiếng lạ hoặc sự cố thì theo phản xạ tự nhiên là sẽ nhào quơ lấy súng chống cự, chạy thoát thân. Địa hình rừng núi hoàn toàn xa lạ, chỉ dựa vào hàng binh dẫn đường, ngộ nhỡ đi hoặc chạy lạc thì sao? Kết quả: Gọi địch ra hàng 2, diệt tại chỗ 5 (có 1 Bí thư huyện), bắt sống 2, thu cả thảy 10 súng các loại. Góp phần phá thế kềm kẹp của địch đối với quần chúng nhân dân trên địa bàn. Tôi và anh em tham gia tự hào và nhỡ mãi thành tích tuyệt vời này. Đã kết hợp tốt giữa dân vận và địch vận, giữa vận động quần chúng và tác chiến. Dẫn đến một trận đánh khá đặc thù, đầy mạo hiểm với sự liều lĩnh có tính toán. Tôi tự rút ra bài học: sự thành công trước hết phải nói là nhờ biết dựa vào bạn Campuchia. Đòi hỏi một bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin với dân và ngay với kẻ địch đã ra hàng, lôi kéo họ đứng về phía mình. Biết nắm bắt và tận dụng thời cơ. Áp dụng biện pháp tổng hợp mới tạo nên được sự thành công như đã kể. - Không biết trên chiến trường Campuchia có ai dám trao súng và đạn cho hàng binh mới về, dẫn đường đi đánh địch như tôi không? - Có ai dám chỉ với 6 quân, không có súng hoả lực, tự lực cánh sinh mà biết trước sẽ chạm với 10 tên địch?
- Đi 2 ngày đường vượt sang địa giới tỉnh của đơn vị khác phụ trách, không điện đài liên lạc, không y tá, dám đánh vào tận hang ổ địch? Số lượng địch bị tiêu diệt là không nhiều, nhưng xóa sổ một đội vũ trang tuyên truyền của địch là chuyện hiếm, có ý nghĩa lớn về chính trị. 

Sơ lược về hướng đi và vị trí địch:


Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2022

Diễn giải hệ thống chuyên gia quân sự ở CPC.

Theo Huy Đức trong sách Bên Thắng Cuộc - Chương 11 Campuchia:
https://www.vinadia.org/ben-thang-cuoc-huy-duc-quyen-i-giai-phong/chuong-11-campuchia/

Một năm sau khi đánh sang Campuchia, ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ trung tướng lên thượng tướng. Ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, lấy phiên hiệu là “Bộ Tư lệnh 719”. Ông Lê Đức Anh, khi ấy đang là tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII, được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Tình nguyện.

Vừa làm tư lệnh 719, ông Lê Đức Anh vừa trực tiếp làm trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự 478, cơ quan giúp hình thành Bộ Quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang Campuchia. Bên cạnh lực lượng “Quân Tình nguyện” còn có một “Đoàn Chuyên gia” giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự, có mật danh là B68, do ông Trần Xuân Bách, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách. Tháng 3-1982, tại Đại hộiĐảng lần thứ V của Việt Nam, ông Trần Xuân Bách vào Ban Bí thư trở về Hà Nội làm chánh Văn phòng Trung ương; ông Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, trở lại Campuchia, thống lĩnh cả Đoàn Chuyên gia B68 và Quân Tình nguyện.
_______________________


Trước 1975, Thời Việt Cộng hợp tác với Khmer Đỏ.
Năm 1970, sau khi Lon Nol lật đổ Sihanouk thân Cộng. Quân VN từ hướng Lào tràn xuống, đánh bật quân Lon Nol và làm chủ cả một vùng rộng lớn 4 tỉnh vùng Đông Bắc CPC. Quân Khmer Đỏ còn non trẻ nên dựa vào VC là chính. Quân VN cố vấn cho họ xây dựng lực lượng vũ trang và giúp đỡ lập chính quyền các cấp tại đây.
VC sát cánh phối hợp tác chiến cùng KMĐ. Và Trung Quốc viện trợ thông qua VN, VN cố vấn giúp cho họ một số đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên. Chủ yếu là những chỉ huy người gốc Nam Bộ hoặc người Miền Ngoài vào Nam chiến đấu lâu năm nên dễ hiểu tính cách người Khmer. Sau này xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam thì số cán bộ chủ chốt này còn lại ít nên mất đi lợi thế am hiểu đặc điểm dân tộc và sở trường tác chiến vùng đồng bằng...

Giai đoạn chuẩn bị tổng phản công sang đất CPC.
Trước tình hình tranh chấp bằng vũ lực giữa VN và CPC ngày càng căng thẳng, phức tạp. VN không dàn xếp được với CPC Dân chủ bằng con đường ngoại giao, nên Bộ Chính trị, Trung ương đã manh nha ý định tổng phản công để giải quyết vấn đề kéo dài bế tắt. Từ năm 1977 đến 1978, Ban bí thư đã lập ra các nhóm, ban chuyên trách để nghiên cứu, lên kế hoạch. Do tính chất, nhiệm vụ có phát triển nên mấy lần thay đổi cơ cấu nhân sự và mật danh như “Nhóm 77, Ban 10, Ban Z, Ban B.68".
Rồi Quân uỷ thành lập Đoàn mang phiên hiệu 478 để tham mưu và triền khai ý định quân sự. Các quân khu 5, 7, 9 thành lập các đoàn như 578, 778, 978... Ví dụ Đoàn 578: Số đầu ám chỉ quân khu 5, 2 số sau là năm thành lập. Nhằm giúp Bạn (phe ly KMĐ, thân VN) xây dựng LLVT và hình thành dần nòng cố chính trị chuẩn bị về lại CPC nắm chính quyền. Để bảo toàn lực lượng hiếm, sợ KMĐ biết đánh thọc sâu, mất "vốn" Bạn. Nên các đoàn hoạt động không công khai, chỉ những người có trách nhiệm bên chính quyền và nội bộ quân đội biết ít nhiều mà thôi. Quân số tương đươc cấp trung đoàn nhưng chỉ huy ngang cấp sư đoàn. Trong mỗi bộ tư lệnh đoàn cơ cấu có một thường vụ tỉnh uỷ và sĩ quan cấp trung thượng tá, có thể nguyên là "dân" tình báo gộc hoạt động ở Lào, CPC thời chống Mỹ...
Giải phóng Pnom Pênh, chế độ mới hình thành ở CPC.

Sau 1979, khi đại quân đã qua lãnh thổ CPC, mỗi quân khu thành lập tiền phương quân khu. Đảm nhiệm mỗi khu vực rộng lớn gồm nhiều tỉnh gọi là Mặt trận 579, 779, 979. Quân đoàn 4 thành lập Mặt trặt 479 hoạt động giúp Bạn trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Bát Đòm Bong. Tổng chỉ huy chung là Tiền phương Bộ Quốc phòng, phiên hiệu là Mặt trận 719...
Các đoàn như 578, 778, 978 ở trong nước trước đây, giải thể. Chỉ giữ lại cán bộ nòng cốt, thành Phòng Chuyên gia quân sự gọi tắt là Phòng K. Có nhiệm vụ tham mưu cho bộ tư lệnh các mặt trận về công tác giúp Bạn. Đại bộ phận tách ra thành từng đoàn nhỏ. Bao gồm cả Ta - Bạn phụ trách từng tỉnh, gọi là Bộ chỉ huy thống nhất... ví dụ ở Stung Treng mang mật danh T2. Nhiệm vụ chính là cứu đói và ổn định cuộc sống của dân. Cùng Bạn sàng lọc, chỉ định nhân sự tạm thời điều hành chính quyền làng, xã, huyện, tỉnh...


Cuối năm 1979, các Bộ chỉ huy thống nhất chọn những hạ sĩ quan cấp trung đội tiểu đội, biết tiếng Khmer. Tập trung tập huấn về đặc điểm đất nước và con người CPC trong quá khứ và hiện tại. Âm mưu chống phá ta của ba phái địch. Rồi sau đó phân về các xã làm công tác dân vận, tách địch trà trộn ra khỏi dân. Sàng lọc củng cố, thành lập bộ máy vận hành hoàn chỉnh, có chính quyền, dân quân và đoàn thể. Tuỳ theo tình hình mà từng xã có một đội công tác hay 2-3 xã do một đội công tác đảm nhiệm. Tuỳ nhu cầu thực tế mà đơn vị biên chế người, cấp vũ khí nhiều hay ít. Có xã chỉ có 1 người phụ trách công tác và 1 chiến sĩ bảo vệ. Một đội công tác ở xa có chừng trên dưới 10 người, hoả lực có B40, M79, RPD. Không có thông tin liên lạc và thường không có y tá. Người cố vấn một xã, có khi gọi là Chuyên gia, có khi gọi là Phái viên xã. Để điều phối công tác là tổ phái viên tiểu đoàn do Chính trị viên phụ trách chung. ĐCT Ta chọn người trong xã, thành lập Đội công tác Bạn. Quân số khoảng 6 người, được trang bị quân trang, vũ khí do tỉnh đội bạn cấp. Gạo thực phẩm và tiền phụ cấp do chính quyền tỉnh Ban. Hai đội công tác Ta, Bạn hoạt động như hình với bóng. Đội trưởng, đội phó Ta muốn tác động với chính quyền với dân, thường bàn bạc trước, thông qua họ để triển khai kế hoạch. Có những khi Đội trưởng Ta làm việc trực tiếp với cán bộ làng xã.


Sang năm 1980, Bộ chỉ huy thống nhất được tăng quân số, hình thành đơn vị mới gọi là Đoàn... Đảm nhiệm địa bàn một tỉnh cho chặt chẽ hơn và để thay dần quân chủ lực đứng chân. Mỗi đoàn cấp tỉnh có phiên hiệu 4 con số, ví dụ Đoàn 9905 đóng quân ở tỉnh Tà Keo. 2 số đầu ám chỉ tiền phương quân khu 9, 2 số sau ám chỉ tỉnh. Bổ sung chỉ huy và quân số lấy chủ yếu từ nguồn các tỉnh đội VN đưa sang, gọi là kết nghĩa về quân sự. Đoàn ta song hành với tỉnh đội Bạn. Mỗi đoàn: ở huyện có một tiểu đoàn, vài xã có môt đại đội trực thuộc đứng chân.


Cứ Bộ chỉ huy đoàn thì làm chuyên gia cho BCH tỉnh đội Bạn. Ngoài ra có Đoàn chuyên gia QS tỉnh (thuộc BCH Đoàn..) giúp các phòng bạn tỉnh đội Bạn. BCH huyện đội Bạn thường do Tiểu đoàn trưởng, phó và Chính viên làm cố vấn cho Bạn. Đại đội có một phái viên làm chuyên gia. Sau này khoảng từ năm 1984 thì tổ chức ra Tổ chuyên gia huyện giúp huyện đội Bạn và có các phái viên làm chuyên gia cho các xã.


Về chế độ lương và phụ cấp.
Tất cả chuyên gia đều do chính phủ VN trả lương và phụ cấp bình thường như mọi sĩ quan, hạ sĩ quan toàn quân ở CPC. Khoảng từ năm 1981, Chính phủ CPC đã phát hành tiền tệ, có trợ cấp thêm một ít tiền riel tiêu vặt. Để động viên chuyên gia tiếp xúc làm việc tốt hơn với cán bộ và nhân dân Bạn, có hai mức: ai biết tiếng Khmer được dăm đồng riel, ai biết tiếng rành thêm biết chữ nữa được hơn một chút...

Cuối 1989, sau khi Việt Nam rút quân khỏi CPC, không còn một đơn vị nào ở lại. Theo yêu cầu của Bạn, VN chỉ để lại một số sĩ quan cố vấn quân sự từ cấp tiểu đoàn trở lên. Nhà nước Campuchia bắt đầu thay VN trả lương cho chuyên gia. Mãi đến 1992-93 khi UNTAC - lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ vào Campuchia thì chuyên gia quân sự VN vẫn còn. Chính phủ CPC trả lương cho chuyên gia bằng tiền USD (lương cấp uý cao hơn hẳn cấp tá ở VN). Theo thời gian, số chuyên gia quân sự giảm dần cho đến kết thúc nhiệm vụ...

Nói thêm về chuyên gia dân chính đảng.
Gọi là Đoàn chuyên gia tỉnh x, y, z... Có người phụ trách cố vấn cho uỷ ban đến các ban ngành, đoàn thể Bạn như ở VN. Cấp huyện có 3 chuyên gia. Ở cấp trung ương là Tổng đoàn chuyên gia. Nguồn cán bộ từ các tỉnh kết nghĩa kinh tế ở VN. Có thể đoàn quân sự và đoàn chính trị trùng một gốc tỉnh kết nghĩa, có thể khác. Họ không cố định thời gian phục vụ, có thể 1-2 năm từ bên VN đưa người sang thay nhau. Những việc liên quan đến chính quyền và dân thì chuyên gia quân sự xin ý kiến chuyên gia dân sự.
Họ sống an toàn hơn hẳn bộ đội vì ở thị xã, thị trấn. Ngoài hưởng lương và phu cấp, còn thêm quà cáp từ cán bộ Bạn. Và có thể xin xở Bạn hàng viện trợ của các nước cho dân Campuchia, nhiều nhất là của Liên Xô...

Lưu ý:
Thông tin sơ lược có tính tham khảo, vì từ góc nhìn của cá nhân được biết. Thực thế thì nơi này có thể khác nơi nọ. Còn tuỳ đầu mối mặt trận, cấp độ đơn vị, đội ngũ hoạt động trải rộng trên những địa bàn khác nhau nên không hẳn như trên.

TH

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2022

Chiện Hạ sĩ tui chỉnh tác phong Đại úy tổng quản.

Cuối năm 1978, Đoàn 578 của mình giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang nòng cốt cho QK Đông Bắc Campuchia. Đơn vị nằm ở ngả ba Đông Dương, thuộc tỉnh Gia Lại - Kon Tum. Ban tác huấn có vài sĩ quan huấn luyện và một nhóm hạ sĩ quan trợ giảng. Lúc ấy, mình cấp hạ sĩ, là người duy nhất được vinh dự phụ trách giảng một tiết mục chiến thuật cho tiểu đoàn Bạn là: Tiểu đội bộ binh hành tiến qua địa hình. 
Tháng 12, toàn quân đang chuẩn bị mở chiến dịch lớn đánh sang Camphuchia. Nhóm trợ giáo huấn luyện giải thể. Đoàn 578 có nhiều biến động, nhận bổ sung cán bộ chiến sĩ từ các nơi khác về, biên chế thành các đoàn nhỏ. Nhằm sẵn sàng đảm nhiệm việc giải phóng đến đâu thì cùng lực lượng Bạn tiếp quản các tỉnh đến đó. Thấy "văn võ" coi cũng được, thế là cấp trên điều về mình làm nhân viên thống kê phòng chính trị. Mình dãy nảy giải trình thoái thác công việc vì chỉ muốn được tham gia chiến đấu ngay. Đơn vị đang lu bu gấp gáp sắp xếp tổ chức, mà bộ phận huấn luyện thì không còn nên Phòng chả biết trả về đâu. Thành ra thằng tui lơi bơi, tuy thuộc quân số thuộc Đoàn T2 (5503 sau này) mới thành lập, không biết bố trí vào đâu cho tiện. 

Rồi các đơn vị quân khu 5 hội quân ở Đức Cơ - Gia Lai, gần biên giới Campuchia. Lần đầu tiên, mình chứng kiến biết thế nào là sức mạnh của quân đội. Cả một rừng quân, thấy cơ man nào các quân binh chủng, xe pháo rầm rập ngày đêm. Đơn vị cấp quân trang vũ khí mới, lòng mình rộn ràng náo nức, cảm giác lâng lâng!
Lên đường... ngày 03 tháng 1 năm 1979, thị xã Stung Treng được giải phóng. Đoàn T2 ôn định đóng quân rồi các "bố" nhét hạ sĩ tui làm chiến sĩ quay viên máy phát điện (dynamo). Quay cái maniven bằng tay, còn gọi là đầu bò để cung cấp điện cho máy thông tin 15W, phục vụ cho thằng binh nhất gõ manip đánh morse tin hiệu. Hạ sĩ tui nằm trong số vài học viên tốt nghiệp trường HSQ được cấp trên phê là "trải qua thực tế có thể giao B phó" nghe ưng cái bụng, thế có điên gan không! Tuy công việc rất nhàn nhã, ngày lên máy chừng 2 giờ, thời gian còn lại la cà đi chơi nhưng với mình là ngậm đắng nuốt cay. 

Chịu đựng 2 tháng là quá đủ! Chiều một ngày nọ, hết giờ hành chính, Hạ sĩ (HS) tui chủ định đi gây sự với sếp. Mặt sưng sỉa đến nhà sàn ban chỉ huy chỗ "cha" Đại úy (ĐY) chỉ huy tổng quản. Lúc ấy ảnh mặc quần đùi, áo lót ba lỗ, đang ngồi uống nước trà với hai ông khác. 

Mình nhớ tóm tắt câu chuyện như vầy:

HS - Chào Thủ trưởng, cho em trình bày đề đạt...
ĐY - Chú vào đây, có việc gì cứ nói.

Mình thay đổi cách xưng hô: tôi và đại úy hoặc đồng chí.

HS - Không. Đây là việc công, đề nghi Đại úy mặc quần áo nghiêm chỉnh, tôi mới nói.

Mình nghĩ bụng: lính có cái danh dự của lính chứ bộ!
Ảnh nhíu mày, mặt hơi tái, miễn cưỡng vào phòng mặc quân phục rồi ra tiếp.

ĐY - Thế có chuyện gì?
HS - Do yêu cầu nhiệm vụ trước mắt nên tôi buột chấp nhận sự phân công tạm thời "trái khoáy" của tổ chức, nay đơn vị đã ổn định, đề nghị Đại úy xem xét lại.

ĐY - Nhiệm vụ chính trị là hàng đầu. Tôi đại úy đây này, hàng ngày còn phải đi phát gạo từng lon cho dân nữa là!...
HS - Đó là chuyện của Đại úy, tôi không biết. Còn tôi được đảng nhà nước đưa đi học trường Hạ sĩ quan là để chỉ huy chứ không phải để làm lính quay viên 15W mà ai cũng làm được.

Lính tui và tay chỉ huy lời qua tiếng lại, từ nhỏ thành to chuyện, ồn ào căng thẳng...

ĐY: Tôi không giải quyết theo nguyện vọng cá nhân của đồng chí, thì sao?
HS - Vậy là còn gì để nói! 

Tui sầm mặt chào ra về. Biết là thế nào "Chả" cũng lên cấp trên Đoàn T2 để "tâu" báo nói xấu thằng lính ngang bướng vô tổ chức. Hạ sĩ tui đâu có ngu gì chịu trận! Nên mình tức tốc tới nhà ông Thiếu tá cấp trên nữa để giải bày phản ánh sự việc. Ổng nói: được rồi, thôi về đi, chúng tôi sẽ nghiên cứu trường hợp của đồng chí.

HS Cạo tưởng sẽ thoát ách. Ai dè! nhận quyết định điều về làm cần vụ (tà lọt - gạc đờ co) cho bộ chỉ huy đoàn. Lần này, ở nhà lầu với thượng tá, trung tá càng sướng hơn mà nhiều thằng lính ước được vậy cho đỡ nguy hiểm và khổ cực. Lệ thường thì Cần vụ phục dịch các sếp cả việc nấu ăn, cải thiện đời sống và giặt giũ quần áo. Mình giữ đúng nguyên tắc chỉ phục vụ cho việc công thôi là truyền đạt ý hay công văn của chỉ huy xuống các phòng ban bên dưới. Ngoài ra, hằng ngày đi lấy đồ ăn từ bếp cơ quan về nhà để ăn cùng nhưng không giặt quần áo cho mấy ổng. Rảnh việc là đi chơi la cà chỗ này chỗ nọ, học tiếng Kh'mer, tán con gái. Tuy vậy, các ảnh vẫn thương. 

Chịu trận ba tháng, lại cựa quậy đề đạt tiếp... Chỉ huy đành điều từ cần vụ xuống đại đội 4, D2 làm trung đội phó. Từ đấy trở đi là những ngày tháng rúc rừng dầm mưa dãi nắng, đi truy quét, phục kích, bảo vệ đường 13. Cuối năm, Trên cho đi học công tác giúp Bạn ở địa bàn xã... Sang một trang khác của đời lính ở K...

Ngẫm lại thời gian về trước.
Hồi còn nhỏ, Trần Văn Cạo ham chơi thích nghịch ngợm. Đi học thì chỉ canh me sao cho đủ điểm để lên lớp! Tình hiền lành hơi nhút nhát nhưng hay lý sự và bướng ngầm nên có hai lần hỗn láo, đôi co với hai ông thầy ở hai cấp học phổ thông. Dzẫy là mình có máu nổi loạn từ nhỏ! hehe. Khi lớn lên bỏ học ngang về quê làm công tác thanh niên, rồi đi bộ đội.
Kết thúc khóa huấn luyện tân binh thì chỉ huy lôi về làm liên tạc đại đội. một thời gian, TC dãy, cấp trên đưa về đơn vị khác làm tiểu đội trưởng để huấn luyện khoá sau. Được ba tháng, chỉ huy lại điều về làm tiểu đội trưởng vệ binh kiêm kiểm soát quân sự. Đang là tiểu đội trưởng thì cho đi đào tạo hạ sĩ quan. Đi học cái chức vụ mà mình đã đảm nhiệm cả năm rồi. Có học vấn, đoàn viên ưu tú và trải qua 2 năm quân ngũ thì lẽ ra phải cho đi học trường sĩ quan mới đúng. Trong khi đó chả ai quan tâm cái cấp, hai năm vãn còn binh nhất...
Mình chỉ muốn tunh hoành chứ hổng thích giam chân làm lính phò, dù tham mưu, chính trị hay hậu cần. Chỉ huy thấy ai có chữ nghĩa, ăn nói được lại là đoàn viên tích cực nữa nên mấy ảnh khoái lôi về cơ quan, giúp việc mình. Vì vậy sau đó, lính Cạo đã nhiều lần ý kiến ý cò từ chối công việc mà nhiều người khác mơ. Được gần sếp, khoẻ tấm thân, ăn ở tươm tất. Nên mấy ảnh đành trả về chỗ cũ hoặc đá qua chỗ khác. Chỉ huy thích lính có học một tí, gương mẫu, năng động mà lôi về làm liên lạc cần vụ hay nhân viên cho sếp. Mình đang sục sôi nhiệt huyết của tuổi trẻ, thế có oái oăm, ác đạn không!...
Sang CPC, đang làm chuyên gia quân sự thị đội Stung Treng thì cho đi học bổ túc cán bộ tiểu đoàn - tức là: lại cùng cấp đã trải qua. Lẽ ra, cấp trên cho đi học trường sĩ quan lục quân - đào tạo cấp trung đoàn mới phải. Dzẫy mà TV Cạo vẫn khăn gói ra đi, có ngu không! Do thói quen chấp hành sự phân công của tổ chức. Mặt khác: ngại chỉ huy đánh giá đương sự "có vấn đề tư tưởng"...
Cạo tui đã trải qua cả chục nhiệm vụ khác nhau, từ vài ngày cho đến vài tháng, vài năm. Hồi đó mình rất bôn-sê-vích, đầy hoài bão và tham vọng. Nguyện cả đời theo Bác với Đảng, tận tâm tận lực phục vụ Quân đội. Với mười mấy năm lính thì ít có người mà năm nào cũng được khen thưởng như mình. Thành tích "máu lửa đầy người", mơ thành chuyên gia chống chiến tranh du kích đúng nghĩa. Tự tin chả ngán thằng địch nào nào, dù ở đâu. Về nghiệp vụ: tự hào trên mình chỉ nể mỗi một ông Thầy.
Sau này nghĩ lại: tại sao mình phấn đấu quên mình đến vậy mà kẹt số không thăng tiến? Là do đã quá thơ ngây tin vào tổ chức chí công vô tư. Chơi solo mình êng, không có đồng hương đồng khói nâng đỡ, không có sếp trên để tựa lưng. Túm lại là: có tài chi cũng cần có bệ phóng, có cày bã người đi nữa thì cũng đừng có mơ leo cao!.Ôi cái cơ chế "máy móc"
có tiếng "định hướng"! Nhưng con người không được đặt đúng chỗ, không chỉ trong lãnh vực người cầm súng. Từ lâu nó đã kiềm hãm con người cống hiến cho Đất nước...Tiếc thay!.
Ra quân rồi mới nhớ lời ông anh rể Bắc cờ đã mất. Ổng từng khuyên: "cậu đừng ăn cái bánh vẽ của cộng sản". Bản chất "người cộng sản" là không ân hận việc mình làm! hehe.

Ảnh minh họa chiến sĩ quay máy phát điện thông tin.



Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2022

Nhớ cái chuồng cu C4 ở xã Bà la Khành.

Năm 1983, mình đi công tác lên xã này. Đại đội 4 đóng quân ở đầu Phum, mình vào liên hệ công việc và chơi với anh em. Do tụi Pốt hay quấy nhiễu nên đơn vị đào hầm hào giao thông khá bài bản. Quanh đơn vị cây lúp xúp, cỏ mọc um tùm là mấy lớp hàng rào tre và có gài mìn nên thỉnh thoảng trâu bò đi vào khu vực, vướng mìn nổ chết. Dân ca thán, phàn nàn. Không biết có lấy được thịt ăn.
 
Chỗ nền cao trong doanh trại, chỉ huy đại đội cho làm một cái chòi gác đồng thời là điểm hỏa lực sẵn sàng bắn bao quát xung quanh, mình gọi là chuồng cu. Nó có 4 chân bằng gỗ khá cao, trên đó gắn một khẩu đại điên M60, xung quan chất bao cát. Đơn vị cắt người canh gác và sẵn sàn nổ súng diệt địch xâm nhập từ các hướng. Nhìn oai ra phết, tối nghe ngoài hàng rào sột soạt là khạc lửa "Đoành. Đoành".
 
Mình nghĩ tụi Pốt cũng dở, gan tí bò sát hàng rào, ngắm phóng một quả B41, nếu chính xác là bay cái chuồn cu đó.

Nhớ vậy, các đồng đội ở c4, d2 có gì bổ sung cho vui nhớ kỷ niệm một thời.

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2022

Một ngày, hai lần chống lệnh Hà Bá.

Lần thứ nhất thoát chết khi sắp rơi vào lòng chảo nước.
Mùa mưa năm 1979, Đại đội 4 chúng tôi đóng quân ở bản Tà Đẹt, ven sông Sê Kông. Đơn vị có một chiến sĩ liên lạc tên Trúc bị bênh sốt xuất huyết. Do Vũ y tá chưa kinh nghiệm, không biết được đây là bệnh có nguy cơ cao. Để lính nằm đơn vị một tuần, sau thấy nặng dần, da nổi mẩn đỏ và đái ra máu, mới đề nghị Ban chỉ huy đưa đi bệnh viện. Tôi lúc ấy là trung đội phó, mới tập tành biết võ vẽ chèo thuyền nên xung phong một tay chèo, phụ trách việc đưa bệnh nhân đi viện. Đi gồm có: Tôi, Vũ y tá, Trúc bệnh nhân và Nhẫn, gốc nghề biển. Chúng tôi mượn thuyền dân Hăng Khô Bản về, tổ chức chèo đi. Vũ y tá không biết bơi ngồi giữa, Bệnh nhân nằm trên sàn thuyền, Tôi đứng trước chèo mũi, Nhẫn giỏi đứng chèo lái.

Mùa nước lớn, nước đục ngầu phù sa, chảy cuồn cuộn. Thuyền chúng tôi xuôi dòng dọc bờ, đến quãng ngả ba sông hợp lưu của con sông Se Kong bắt nguồn từ Lào và Se San có nguồn từ Việt Nam sang. Chỗ nhập chung phía trên cách thị xã Stung Treng chừng 7 km, rồi chảy vào sông cả Mê Kông. Đến ngả ba, chúng tôi bẻ lái thuyền, cắt ngang sông Stung Treng để qua bờ phía bên kia là Thị xã, nới có bệnh viện 21 của Mặt trận 579. Tính là nước chảy mạnh, qua đoạn này thuyền trôi xéo dần về phía bến phà là vừa…

Ai dè, đến giữa sông, chúng tôi cảm thấy tay chèo càng lúc càng nặng, mũi thuyền chúi thấp dần, nghe tiếng nước sôi rào rạt ngày càng lớn. Chúng tôi ngó dáo dát, nhìn xem đó là hiện tượng gì?. Thì mẹ ơi! Trước mắt phía trên gần đó là một lòng chảo nước to gần bằng cái sân bóng mini ngày nay. Không ai nói với ai, hồn vía lên mây!. Tôi hét khản giọng với Nhẫn: chèo mạnh tay vào, cố lên, cố lên... Chúng tôi đem hết sức bình sinh chèo thuyền. Với tôi không phải như chèo bình thường mà đúng hơn là đập mái chèo xuống nước để nâng thuyền lên và đẩy mạnh cho nó rướn tới. Còn Nhẫn cầm lái nạy dầm chèo, ráng bẻ hướng thuyền chệch ra khỏi guồng nước. Tai tôi nghe nước ào ào ù ù xung quanh, có lúc lặng thinh. Nhìn vào dòng chảo thấy nó xoáy trôn ốc, cuộn vào tâm. Khi thuyền bị kéo vào cách mép lòng chảo đâu chừng dăm mét, nghe nước êm ả lạ thường, kinh hoàng không thể tả! Mãi một lúc sau, thuyền lơi dần ra, dạt dần xa cái lòng chảo ác quỷ hung tợn đó, chúng tôi mới tin chắc là mình còn sống.
Kỳ diệu thay, sự nổ lực vô biên được đền đáp xứng đáng. Rồi chúng tôi đưa bệnh nhân đi bệnh viện kịp thời sống được. Thời gian sau nghe nói lại, Trúc - chú chiến sĩ liên lạc ấy bị bệnh tái phát lần hai, không cứu được nên đã chết.

Sau nghĩ lại, chúng tôi có cơ may sống sót là nhờ cắt ngang phía dưới dòng nước xoáy. Mặt khác Nhẫn chiến sĩ chèo lái có sức khoẻ, tay chèo quá cứng cựa. Nếu không nó sẽ lôi thuyền vào tâm lòng chảo, nhận bọn tôi xuống đáy sông vài chục mét chiều sâu, rồi đẩy ra xa, xác bọn tôi nổi lên cách đấy phải bốn, năm trăm mét không chừng. Tôi nhận đinh nếu bị lật chìm, khả năng sống sót là 10% cho Nhẫn chiến sĩ giỏi sông nước duy nhất nói trên. Ba thằng còn lại sau đó xác nổi lềnh, nếu dân không vớt thì làm mồi cho cá rỉa.
Hỏi dân mới biết là dân không bao giờ họ dám chèo thuyền vào mùa mưa qua chỗ đó. Chúng tôi lính tráng quen kiểu trên rừng, muốn cắt đi đâu thì đi, có biết gì đâu.

Lần thứ hai qua suối trong đêm mùa lũ.
Chúng tôi từ bên này Thị xã chèo thuyền về trả cho dân bên kia sông và đi bộ về đơn vị. Không nhớ Nhẫn đi đường nào mà chỉ mỗi tôi và Vũ y tá cùng đi. Khi đến cầu để về Đại đội thì cầu đâu chẳng thấy, nước dâng tràn hai bên suối. Tôi và Vũ đi ngược lên, vòng lên rừng để tìm chỗ cạn qua. Trời sập tối, rọi đèn pin dò dẫm mà lội. Trước mắt là ụ mối nhấp nhô xen lẫn rừng cây lúp xúp, bước chân đi có lúc nước ngang bụng, có lúc tới vai tới cổ. Tính thôi vượt suối, quay lại thoái lui thì cũng vậy, chả biết đâu mà lần. U u minh minh, tiến thoái lưỡng nan. Gay nhất là Vũ không biết bơi, tôi đi trước dò đường, Vũ bám theo sau, cứ thế mà bương. Nước tới cổ thì vòng hướng khác, cứ thế mà đi mà lội, không ngừng nghỉ.
Ơn trời, về đến đơn vị chừng 10 đêm. Ban chỉ huy thấp thỏm chờ đợi. Anh Phú đại đội trưởng "quạt" tôi một tăng. Anh có biết thằng Vũ không biết bơi không mà dẫn đi kiểu đó, sẩy chân là chết, sao không ở lại ngủ nhờ nhà dân. Vựa mệt vừa nghỉ đến chuyện đi gian nan khổ ải nên tôi lên tiếng "cự lại"... Rồi cũng qua.

Chuyện sông nước chưa hết với tôi. Tiếp năm sau 1980, tôi đi công tác với bạn Campuchia, trên đường từ xã Ô Rư xây Kondal về xã Kro Sre Săng. Mùa mưa nên nước dâng tràn bờ suối. Tôi tự tin bản thân nên bơi đứng qua, do mang theo cái túi đồ thấm nước, cộng cây AK và băng đạn quá năng nên một lát sau tôi đuối chìm dần. Sợ bị kỷ luật mất súng nên tôi cố giữ nó, đến nổi chìm dần. Bơi hóa thành nín thở đi dưới nước. May là gần tới bờ bên kia người mới chìm, đạp chân dưới lòng suối mấy phát là cặp bờ chỗ cạn chứ không chưa biết ra sao. Xém tí nữa thì tôi đã thăm Hà Bá rồi !…

Cái sống và cái chết, không thể và có thể, đôi khi với thằng lính chỉ là sợi chỉ mong manh. Tôi, một thằng vô thần nhưng có số luôn được Bà thương tình nâng đỡ, có lẽ vì hắn chưa bao giờ làm điều ác với dân. Mình thoát chết nhiều lần nên nghĩ cái số mình trời không bao gì hại chỉ có mình hại mình thôi. Vậy đó. Ha.ha.

Tính mình không hề ngang bướng, rất tôn trọng nguyên tắc trên dưới, nhưng khi đã nổi máu thì gay gắt rất xốc, không kiêng nể dù là chỉ huy. Bao giờ cũng vậy, tôi luôn tự tin là mình ngay thẳng, chỉ một lòng một dạ vì cái chung, vì đơn vị. Không quản ngại trước khó khăn nào. Điểm tự phê phán là tính mình hay chủ quan, duy ý chí cộng với cái máu hiếu chiến muốn lập công, khoái phiêu lưu mạo hiểm, không thích đi theo đường mòn nên gặp chuyện nhớ đời…

Hình vị trí ngả 3 sông:



Hình người kể chuyện, phía sau là dòng sông Stung Treng




Thứ Hai, 10 tháng 10, 2022

Một ngày, hai lần chống lệnh Hà Bá hay là Hà Bá thương tình đỡ mấy thằng tui.

Lần thứ nhất thoát chết khi sắp rơi vào lòng chảo nước.
Mùa mưa năm 1979, Đại đội 4 chúng tôi đóng quân ở bản Tà Đẹt, ven sông Sê Kông. Đơn vị có một chiến sĩ liên lạc tên Trúc bị bênh sốt xuất huyết. Do Vũ y tá chưa kinh nghiệm, không biết được đây là bệnh có nguy cơ cao. Để lính nằm đơn vị một tuần, sau thấy nặng dần, da nổi mẩn đỏ và đái ra máu, mới đề nghị Ban chỉ huy đưa đi bệnh viện. Tôi lúc ấy là trung đội phó, mới tập tành biết võ vẽ chèo thuyền nên xung phong một tay chèo, phụ trách việc đưa bệnh nhân đi viện. Đi gồm có: Tôi, Vũ y tá, Trúc bệnh nhân và Nhẫn, gốc nghề biển. Chúng tôi mượn thuyền dân Hăng Khô Bản về, tổ chức chèo đi. Vũ y tá không biết bơi ngồi giữa, Bệnh nhân nằm trên sàn thuyền, Tôi đứng trước chèo mũi, Nhẫn giỏi đứng chèo lái.

Mùa nước lớn, nước đục ngầu phù sa, chảy cuồn cuộn. Thuyền chúng tôi xuôi dòng dọc bờ, đến quãng ngả ba sông hợp lưu của con sông Se Kong bắt nguồn từ Lào và Se San có nguồn từ Việt Nam sang. Chỗ nhập chung phía trên cách thị xã Stung Treng chừng 7 km, rồi chảy vào sông cả Mê Kông. Đến ngả ba, chúng tôi bẻ lái thuyền, cắt ngang sông Stung Treng để qua bờ phía bên kia là Thị xã, nới có bệnh viện 21 của Mặt trận 579. Tính là nước chảy mạnh, qua đoạn này thuyền trôi xéo dần về phía bến phà là vừa…
Ai dè, đến giữa sông, chúng tôi cảm thấy tay chèo càng lúc càng nặng, mũi thuyền chúi thấp dần, nghe tiếng nước sôi rào rạt ngày càng lớn. Chúng tôi ngó dáo dát, nhìn xem đó là hiện tượng gì?. Thì mẹ ơi! Trước mắt phía trên gần đó là một lòng chảo nước to gần bằng cái sân bóng mini ngày nay. Không ai nói với ai, hồn vía lên mây!. Tôi hét khản giọng với Nhẫn: chèo mạnh tay vào, cố lên, cố lên... Chúng tôi đem hết sức bình sinh chèo thuyền. Với tôi không phải như chèo bình thường mà đúng hơn là đập mái chèo xuống nước để nâng thuyền lên và đẩy mạnh cho nó rướn tới. Còn Nhẫn cầm lái nạy dầm chèo, ráng bẻ hướng thuyền chệch ra khỏi guồng nước. Tai tôi nghe nước ào ào ù ù xung quanh, có lúc lặng thinh. Nhìn vào dòng chảo thấy nó xoáy trôn ốc, cuộn vào tâm. Khi thuyền bị kéo vào cách mép lòng chảo đâu chừng dăm mét, nghe nước êm ả lạ thường, kinh hoàng không thể tả! Mãi một lúc sau, thuyền lơi dần ra, dạt dần xa cái lòng chảo ác quỷ hung tợn đó, chúng tôi mới tin chắc là mình còn sống.

Kỳ diệu thay, sự nổ lực vô biên được đền đáp xứng đáng. Rồi chúng tôi đưa bệnh nhân đi bệnh viện kịp thời sống được. Thời gian sau nghe nói lại, Trúc - chú chiến sĩ liên lạc ấy bị bệnh tái phát lần hai, không cứu được nên đã chết.
Sau nghĩ lại, chúng tôi có cơ may sống sót là nhờ cắt ngang phía dưới dòng nước xoáy. Mặt khác Nhẫn chiến sĩ chèo lái có sức khoẻ, tay chèo quá cứng cựa. Nếu không nó sẽ lôi thuyền vào tâm lòng chảo, nhận bọn tôi xuống đáy sông vài chục mét chiều sâu, rồi đẩy ra xa, xác bọn tôi nổi lên cách đấy phải bốn, năm trăm mét không chừng. Tôi nhận đinh nếu bị lật chìm, khả năng sống sót là 10% cho Nhẫn chiến sĩ giỏi sông nước duy nhất nói trên. Ba thằng còn lại sau đó xác nổi lềnh, nếu dân không vớt thì làm mồi cho cá rỉa.
Hỏi dân mới biết là dân không bao giờ họ dám chèo thuyền vào mùa mưa qua chỗ đó. Chúng tôi lính tráng quen kiểu trên rừng, muốn cắt đi đâu thì đi, có biết gì đâu.

Lần thứ hai qua suối trong đêm mùa lũ.
Chúng tôi từ bên này Thị xã chèo thuyền về trả cho dân bên kia sông và đi bộ về đơn vị. Không nhớ Nhẫn đi đường nào mà chỉ mỗi tôi và Vũ y tá cùng đi. Khi đến cầu để về Đại đội thì cầu đâu chẳng thấy, nước dâng tràn hai bên suối. Tôi và Vũ đi ngược lên, vòng lên rừng để tìm chỗ cạn qua. Trời sập tối, rọi đèn pin dò dẫm mà lội. Trước mắt là ụ mối nhấp nhô xen lẫn rừng cây lúp xúp, bước chân đi có lúc nước ngang bụng, có lúc tới vai tới cổ. Tính thôi vượt suối, quay lại thoái lui thì cũng vậy, chả biết đâu mà lần. U u minh minh, tiến thoái lưỡng nan. Gay nhất là Vũ không biết bơi, tôi đi trước dò đường, Vũ bám theo sau, cứ thế mà bương. Nước tới cổ thì vòng hướng khác, cứ thế mà đi mà lội, không ngừng nghỉ.
Ơn trời, về đến đơn vị chừng 10 đêm. Ban chỉ huy thấp thỏm chờ đợi. Anh Phú đại đội trưởng "quạt" tôi một tăng. Anh có biết thằng Vũ không biết bơi không mà dẫn đi kiểu đó, sẩy chân là chết, sao không ở lại ngủ nhờ nhà dân. Vựa mệt vừa nghỉ đến chuyện đi gian nan khổ ải nên tôi lên tiếng "cự lại"... Rồi cũng qua.

Chuyện sông nước chưa hết với tôi. Tiếp năm sau 1980, tôi đi công tác với bạn Campuchia, trên đường từ xã Ô Rư xây Kondal về xã Kro Sre Săng. Mùa mưa nên nước dâng tràn bờ suối. Tôi tự tin bản thân nên bơi đứng qua, do mang theo cái túi đồ thấm nước, cộng cây AK và băng đạn quá năng nên một lát sau tôi đuối chìm dần. Sợ bị kỷ luật mất súng nên tôi cố giữ nó, đến nổi chìm dần. Bơi hóa thành nín thở đi dưới nước. May là gần tới bờ bên kia người mới chìm, đạp chân dưới lòng suối mấy phát là cặp bờ chỗ cạn chứ không chưa biết ra sao. Xém tí nữa thì tôi đã thăm Hà Bá rồi !…

Cái sống và cái chết, không thể và có thể, đôi khi với thằng lính chỉ là sợi chỉ mong manh. Tôi, một thằng vô thần nhưng có số luôn được Bà thương Trời độ, có lẽ vì hắn chưa bao giờ làm điều ác với dân. Mình thoát chết nhiều lần nên nghĩ cái số mình trời không bao gì hại chỉ có mình hại mình thôi. Vậy đó. Ha.ha. 🤪
Tính mình không hề ngang bướng, rất tôn trọng nguyên tắc trên dưới, nhưng khi đã nổi máu thì gay gắt rất xốc, không kiêng nể dù là chỉ huy. Bao giờ cũng vậy, tôi luôn tự tin là mình ngay thẳng, chỉ một lòng một dạ vì cái chung, vì đơn vị. Không quản ngại trước khó khăn nào. Có điều phê phán là tính mình hay chủ quan, duy ý chí cộng với cái máu hiếu chiến muốn lập công, khoái phiêu lưu mạo hiểm, không thích đi theo đường mòn nên gặp chuyện nhớ đời…

Hình vị trí ngả ba sông và người kể chuyện, phía sau là dòng sông Stung Treng.


Thứ Tư, 29 tháng 9, 2021

Cạo cắn linh tinh... 27

 












Các mã số đầu... của những tỉnh thành rất lộn xộn.


Sao không thống nhất một số đầu cho dễ nhớ nhỉ?
Ví dụ:

Vì sao bộ ngựa còn gọi là phản chỉ dài tối đa 1 mét 8.

Được đặt ở nhà trên để quí ông uống nước trà đàm đạo và nghỉ ngơi, không dành cho phụ nữ. Phải "ba xoa, hai đập" trước khi leo lên cho nên nó cần ngắn để thò hai bàn chân ra ngoài và đắp bằng chiếu cho sạch.
Người có giày dép để nhá xèng lễ lạc và chụp hình thôi, ra đường đi chân đất đến nhà khách mới xổ đôi dép vô cho lịch sự, về nhà mình thì khỏi. - Đấy là văn mình Việt lúa nước.
Đấy là văn mình Việt lúa nước. hehe.
Hình đầu cái phản nhà mình của ông Nội để lại, hình còn lại mượn.








Tìm kiếm Blog này