songtra
♦ 22.10.2010
♦ 6 phản hồi
Chúng ta thường xuyên nghe tin tức, những mẫu chuyện về Việt kiều
(VK) Mỹ, Pháp, Úc, Canada, vv, nhưng ít khi bàn đến VK ở Cambodia (Cao
Miên: CM), dù rằng cộng đồng người Việt ở Cambodia là cộng đồng lâu đời
nhất ở nước ngoài, (đã có thời) đáng hãnh diện nhất, thành công nhất và
hiện nay: nghèo khó nhất. Sách vở viết về VK ở CM một cách đầy đủ cũng
không được xuất bản nhiều. Lâu lâu xuất hiện một vài câu chuyện/ tường
thuật du lịch hay đời sống VK ở CM, nhưng những chuyện tế nhị, các chi
tiết sâu xa gián tiếp hay trực tiếp dẫn đến tình hình hiện tại của hầu
hết VK tại Cambodia thường hiếm khi được nhắc đến và luôn có giới hạn.
Bài viết trích dẫn nhiều dữ liệu thông tin từ cuốn sách: “Việt kiều ở
Kampuchea” của soạn giả, nhà văn, nhà Miên ngữ học Lê Hương – sống 20
năm liền trên đất CM . Cùng một số sách như: Phnom Penh, a cultural
history; Cambodia: report from a tricken land; và từ nhiều nguồn tài
liệu, thông tin khác, đính kèm cuối bài viết.
*
Pháp phải dùng vũ lực cưỡng chiếm Việt Nam và đối phó với hàng chục
cuộc vùng lên trong suốt gần 100 năm cai trị. Tuy nhiên, nhờ đội ngủ
truyền giáo người Tây Phương đã hoạt động tại VN trong suốt vài thế kỷ,
đào tạo được hàng ngàn tín đồ và cảm tình viên người Việt, nên việc
thiết lập bộ máy cai trị của thực dân Pháp diễn ra nhanh chóng và tương
đối suông sẻ. Trong khi đó, tình hình ở Cambodia (Cao Miên: CM) xảy ra
một cách trái ngược. Nơi đây, Phật giáo được xem là quốc giáo, mọi công
dân đều là Phật tử; sư sãi, nhà chùa có ảnh hưởng rất lớn đối với Hoàng
gia và dân tộc Khmer (K). Bởi vậy, cho dù các Quốc vương CM luôn luôn
chào đón sự hiện diện của người Pháp, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào
hai lân quốc hùng mạnh – Việt Nam và Siam (Thailand) – thì các sư sãi K
vẫn không bao giờ khuyến khích Phật tử của họ hợp tác với người Tây
phương ngoại đạo và đa số tín đồ Công giáo tại Cambodia, từ gần 160 năm
qua cho tới ngày nay, vẫn là người Miên gốc Việt Nam.
Vừa rồi là lý do tại sao người Pháp không gặp sự kháng cự, nhưng họ
phải nhờ người Việt giúp họ thiết lập bộ máy chính quyền và truyền bá
văn hóa Tây phương đến với người K. Trong khuông khổ giới hạn của bài
viết , tôi chỉ nêu lên một số sự kiện đã xảy ra ở CM ảnh hưởng trầm
trọng tới đời sống Việt kiều ở CM. Từ một cộng đồng sung túc được nể
trọng bởi người Khmer, người Tàu và được cưng chìu bởi người Pháp, bổng
trở nên cộng đồng nghèo mạt, không ngóc đầu lên nổi, nhất là kể từ khi
CM trở thành một quốc gia độc lập. Cho tới ngày hôm nay, Việt kiều ở CM
vẫn còn là nạn nhân của những kẻ quá khích. Họ phải sống âm thầm, luôn
luôn cảnh giác và lắm khi phải nhịn nhục để giử lấy thân.
I. THỜI KỲ BẢO HỘ, TRƯỚC 1945
1. Thành phố Phnom Penh:
Dưới thời Cao Miên được Việt Nam bảo hộ, VN khuyến khích vua CM dời
thủ đô từ Udong về Phnom Penh (PP). Sau khi vua Ang Chan II mất, VN lập
con gái lên ngôi làm bù nhìn nhằm đặt ách đô hộ. Sau đó, Ang Duang được
quân Siem đưa về và lên ngôi vua. Ang Duang dời thủ đô về lại Udong, lúc
đó Hoàng thành chỉ là những ngôi nhà sàn được làm bằng cây và tre. Sau
khi ký kết hiệp ước bảo hộ, cuối tháng 12, 1865, người Pháp khuyên Quốc
vương CM dời đô đến PP.
Lúc đó, ở ngoại ô là nơi định cư của mấy ngàn người Công giáo VK ,
mấy ngàn người Chàm; hàng trăm tàu cá cuả người Việt, người Chàm dưới
sông; người Tàu cũng đông không thua người V; người K rất ít và không có
một kiến trúc lịch sử nào trước khi Pháp đến.
Theo lời truyền khẩu thì người Việt đặt tên Nam Vang có nghĩa là
người Việt “Nam vang“ dội trên đất CM. Truyền thuyết khác cho rằng vì
ông Trương Minh Giảng khuyên vua CM dời đô về Nam Vang nên VK gọi nó
theo tên thân mật của ô. TMG là thành phố Năm Giảng (ông Giảng thứ 5).
Năm lần lần đọc thành Nam, còn Giảng đọc thành Giang, mà người Nam đọc
giang thành vang. (Tôi ghi luôn vào đây chỉ là giúp vui).
Việc đọc trại tên xảy ra rất nhiều ở các cộng đồng VK lâu đời: Lào,
CM và Thái. Ví dụ: thời cấm đạo, đạo Công giáo (bây giờ) được gọi là Hoa
Lang đạo. Ai bị bắt thì bị xâm trên trán: ‘Học Hoa lang đạo.” Xóm người
Việt ở khu cầu Sài Gòn tại PP có tên Gọi là xóm Hoà lang, tức xóm Công
giáo thay vì tên Hoa lang như lúc ban đầu.
2. Người Việt cần thiết cho chính quyền thực dân:
Ngay từ lúc đầu, Pháp đã nhờ hàng ngàn VK theo đạo Công giáo đang
lánh nạn cấm đạo, gia nhập vào guồng máy của chính quyền thực dân tại
Lào và Cambodia. Sang thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu nhập người V sang CM
và Lào. Bắt đầu những năm 1920, nhu cầu cần có trí thức người Việt gia
tăng, nên học sinh học xong tiểu học là có thể sang CM làm công chức, tư
chức. Học xong một hay 2 năm ở trường trung học sư phạm thì có thể làm
giáo viên cấp thấp.
Nhờ biết tiếng Pháp nên các công ty tư nhân chủ người Tây chỉ nhận
nhân viên VK. Người Tàu, người Ấn cũng tìm nhân viên VK để lo việc sổ
sách cho họ, đồng thời giúp họ giao tiếp với quan chức người P trong
chính quyền. Lúc này người Pháp bắt đầu mở trường, vì vậy giáo viên VK
rất cần thiết. Họ phải học tiếng K để có thể dạy tiếng Pháp cho trẻ em
người K. Cần biết là lúc bấy giờ, dân K vẫn còn tôn trọng lối học truyền
thống, tức là đến chùa để học tiếng Khmer, do các sư sãi chỉ dạy. Thời
này, học sinh VK học đầy trường công ở CM.
3. Nghề nghiệp của Việt kiều ở Cambodia:
Người Việt Nam từ Việt Nam sang Cambodia làm ăn đông. Làm ăn mưu sống
ở CM rất dễ phát dạt, vì người K không ham làm, ham học. Ngoài làm công
chức, tư chức, giáo viên, giáo sư, họ còn buôn bán nhỏ và làm nhiều
nghề khác:
Những nghề điển hình khác của VK: thợ in, chài lưới, làm nước mắm,
bán sách báo, phu cao su, làm ruộng rẫy, phá rừng khai hoang, thợ mộc,
thợ may, thợ máy, đóng giày, thợ điện, thợ hồ, hớt tóc, mở tiệm vàng.
Ngoài ra, VK còn chuyên luôn nghề giúp việc cho hàng ngàn gia đình người
Pháp và Âu Mỹ đang sống ở CM : quản gia, tài xế, làm vườn, vú em. Những
công trình xây dựng lớn, nhỏ của chính phủ (và phần lớn nhà cửa hiện
đại ở CM) đều do bàn tay VK xây lên: Royal Palace, viện bảo tàng, các
dinh thự, bệnh viện, cơ quan chính phủ, khu nghĩ mát trên núi Bokor, vv,
ở Phnom Penh và khắp nơi, cho đến bàn, ghế, tủ, giường, vv, từ xa xưa
đến cả nay.
Nói chung, trước chiến tranh Indochina I, VK ở CM là lực lượng lao
động chính của chính phủ, trong các văn phòng, trường học và trong các
dinh thự của người Âu Mỹ. Có nhiều người có chức vụ chỉ huy cơ quan hay
chỉ đứng dưới một người Pháp. Có người giàu có nổi tiếng, đóng góp nhiều
tiền bạc hay công sức cho chính phủ Hoàng gia CM nên rất được trọng
vọng. Những người sống bằng nghề thủ công, tiểu công nghệ đều có cuộc
sống sung túc. Cộng đồng VK ở Nam Vang là một CĐ rất tưng bừng vào các
dịp lễ của người V. Thời này nhiều người T, K cũng học tiếng V, vì nhu
cầu và vì nể phục.
Người Việt có tiếng vang về sự cần cù, thông minh, xốc vác, năng nỗ
và đa tài. Đó là lý do tại sao người Pháp có một expression nỗi tiếng
trong thời gian sống ở Đông Dương: “The Vietnamese plant rice, the
Cambodian watch it grow and the Lao listen to it grow.” Người Việt ít để
ý đến thành ngữ này. Người Khmer thì không muốn nghe ai bảo họ thua
người Việt. Còn người Lào thì luôn vui vẻ, dễ dãi, hiền lành, an phận,
thành thật – nhiều công ty du lịch Lào thích sử dụng thành ngữ này để
nói lên bản tính đặc trưng của người Lào.
Thật ra, vào năm 1936, sự xuất hiện của tờ báo “Nagara Vatta” chuyên
môn chống người Việt đã bắt đầu gieo mầm mống bài Việt trở lại trong
lòng người K, sau gần 90 năm. Đề tài này được trình bày ở phần IV: Nạn
cáp duồn.
II. THỜI KỲ THUỘC ĐỊA, SAU 1945
Hết chiến tranh thế giới II, Pháp được Hoàng gia CM mừng đón sự trở
lại, trong khi tại VN kháng chiến giành độc lập bắt đầu bùng nổ và lan
rộng. Hơn nữa, có một số công chức Việt kiều bỏ nhiệm sở, quay về VN
tham gia kháng chiến chống P. Có 60-80 ngàn người Việt bỏ chạy sang Thái
Lan để tránh sự trả thù của người Pháp – có VK từ Lào, CM, nhưng nhiều
nhất là từ miền Trung và Bắc. Người P bắt đầu nghi ngờ, mất dần thiện
cảm đối vơi VK và quay sang hợp tác với người K để kiềm chế mọi người V.
Việc trước tiên là họ ban hành thẻ Việt kiều để kiểm soát sự cư ngụ, di
chuyễn của người V và làm ngơ để mặc chính quyền CM bạc đãi người V.
Chính quyền CM chụp lấy cơ hội, lập tức ngấm ngầm phát động phong trào
trấn lột, hiếp đáp và hạ bệ VK. Bắt đầu là nạn cáp duồn và chiếm đất; hô
hào phong trào: ” Đất Miên phải trả lại cho người Miên”. Nạn “cáp duồn”
xuất hiện tại CM và ngay cả trên lảnh thổ VN: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, vào cuối 1945, đầu 1946.
1. Cáp duồn:
Cáp duồn là gì?
Cáp : chặt đầu; duồn: yuon hay người Việt.
Tại sao gọi “yuon” ?
Người dân ở những nước bị ảnh hưởng văn hoá Ấn độ gọi dân khác văn
hoá là yuon, yuan, vv. biến thể từ chữ yuavana, có nghĩa là man di – một
hình thức tự cao tự đại, cho rằng văn hoá của mình là số một. Chính vì
vậy mà người Thái, K, các dân tộc sống ở Mã Lai, người K, Bahnar, Stien,
Rade các dân tộc thiểu số sống ở VN như: Bà Na, Stiêng, Ra Đê (Bahnar,
Stien, Rade) đều dùng yuon để gọi người Kinh. Thời buổi văn minh, tên
gọi yuon không còn phổ biến (ngoại trừ người K gọi người V), vì có ý
nghĩa không lành mạnh. Nên biết thêm là người Miến Điện, một số dân tộc
thiểu số sống ở Tây Nam Trung Quốc, cũng gọi người TQ là yuon.
Có thể gọi cáp duồn là cuộc thảm sát người Việt gây ra bởi người
Khmer. Thông thường, cáp duồn đi kèm với nhiều tệ nạn như cướp bóc, hảm
hiếp phụ nữ, chiếm đoạt tài sản.
Dân K họp thành từng đoàn có vũ trang dao gậy, xông vào đuổi VK ra
khỏi nhà, không cho mang theo cái gì cả. Nếu chống cự thì họ chặt đầu
hay bắt giữ phụ nữ để hảm hiếp tập thể. Dĩ nhiên là VK bị mất trắng tay.
Có nhiều người nhanh chân chạy về hướng trụ sở huyện thì bị nhóm cáp
duồn khác chận lại lột sạch luôn quần áo, nên sau đó phải lấy lá che
thân.
Cáp duồn ở Cambodia chủ yếu là xua duổi để chiếm đoạt, tuy nhiên cũng
có nhiều người chết vì chậm chân hay vì chống cự lại. Xác chết thường
bị vức xuống giếng, ao, sông hay lạch. Ở VN, có hai loại cáp duồn: do
người K đang sống ở VN thực hiện hay do người K từ CM xâm nhập vào lảnh
thổ VN gây ra. Cả hai loại đều xảy ra ban đêm: bất ngờ tấn công, hôi
của đem về làng của họ, gặp đàn ông là chặt đầu, gặp phụ nữ thì bắt hiếp
tập thể – nhiều khi họ mang về CM và chỉ thả nạn nhân sau một vài ngày.
2. Chiếm đất của Việt kiều:
Tại những nơi không tiện cáp duồn thì người K áp dụng chính sách
khủng bố đe dọa, đồng thời lấn chiếm từ từ. Số là dưới thời bảo hộ, Việt
kiều từ miền Nam VN (thuộc Pháp) có quyền xin giấy phép khai phá đất
hoang, đất rừng để trồng trọt. Sau đó họ nộp thuế để nhận quyền tư hửu.
Cũng có nhiều người mua lại đất hay ruộng của người K để làm kế sinh
nhai. Nhiều VK nhờ chăm chỉ mà có cả hàng trăm mẫu đất, ruộng.
Thế nhưng, người K đột ngột tung ra khẩu hiệu: “Đất Miên phải trả lại
cho người Miên” và ngang nhiên lấn chiếm. Họ tự động cất nhà trước cửa
nhà VK, phóng uế, quăng đồ vật dơ dáy xung quanh nhà để gây chuyện,
khủng bố, đe dọa và đuổi khéo chủ nhà. Chủ nhà VK muốn cây trái, rau quả
gì trong vườn phải “xin phép”. Họ tự do cày bừa ruộng rẫy. Nếu VK phản
đối, họ đánh hoặc rướt chém.
Kết quả, hàng ngàn nông dân Việt kiều hồi hương về Việt Nam. Số còn
lại phải đổi nghề hoặc đi làm công cho chính kẻ đã cướp mình. Đi trình
làng, xã, huyện, ngay cả lên PP khiếu nại với đức vua (nhà vua tiếp xúc
dân chúng mỗi tuần một lần) cũng chỉ được hứa sẽ giải quyết.
3. Việt kiều bắt đầu bị hiếp đáp:
Cũng từ đó, ở vùng nông thôn, mỗi lần có chuyện xích mích với người
Việt Nam thì người Cambodia chỉ cần hô to: “An Nam đánh K” hay “Yuon
đánh K” là có ngay cả chục người nổi lên vác gậy xông vào đánh, bất kể
già trẻ lớn bé. Nếu xảy ra ở nhà, đàn bà con gái VK chậm chân bỏ chạy là
có thể bị hiếp dâm tập thể.
Tại Phnom Penh, vì có nhiều tai mắt quốc tế, nên chỉ xảy ra những vụ
hảm hiếp, trấn lột lẻ tẻ tự phát. Nhiều dân đạp xích lô cũng dám lên mặt
với VK. Họ đòi VK phải trả tiền nhiều lần cao hơn bình thường. Nếu
không trả, thì họ đánh và kêu lớn “cáp duồn” để đồng nghiệp hay một số
người quá khích tiếp tay với họ. Sau nạn cáp duồn, chỉ có PP, Siem Reap
và Sihanoukville là tương đối an toàn đối với người V, với điều kiện
không gặp xích mích, va chạm với người K.
4. Truyền đơn khích động sự căm thù:
Cũng trong thời gian Pháp vừa quay lại này, xuất hiện những tờ truyền
đơn vẽ hình các tướng VN (thời vua Gia Long sang bảo hộ CM) bắt ba
người Khmer chôn đứng dưới đất chỉ ló cái đầu lên trên làm ba ông táo để
nấu nước uống. P hay Hoàng gia CM hay cả hai cùng cấu kết để tung ra
chiêu bỉ ổi này là chuyện còn giữ bí mật.
Ngày nay, đảng đối lập Sam Rainsy và những phần tử quá khích người
Khmer vẫn thường dùng những bức hình nguỵ tạo đó để cũng cố sự căm ghét
người Việt, để nhắc nhở sự độc ác mà người dân Miên sẽ chịu đựng nếu
không cảnh giác sự có mặt của người Việt tại Cambodia. Một đòn tâm lý vô
cùng thâm độc, góp phần làm cho VK lao đao khốn đốn và “gia hạn” tình
thế bần cùng, mù mịt tối tăm và cô độc của cộng đồng VK ở CM và làm cho
VK khó ngóc đầu lên được, ngoài trừ phải che dấu hay từ bỏ nguồn cội.
Một điều ngược ngạo: VN hay người Việt từng bị cáp duồn dã man thì
thế hệ trẻ VN ít hay biết, vì bản tính dân tộc Việt Nam thường tha thứ,
bỏ qua những chuyện đau lòng của quá khứ, chứ không cất giữ, thù dai.
Trong khi VN cứu giúp Cambodia bao nhiêu lần, nhưng vì tự ti mặc cảm hèn
yếu, thua kém, và tâm lý phủi ơn mà một số phần tử cực đoan hay bịa
đặt, quảng cáo những câu chuyện, hình ảnh không thật về VN và con người
VN. Hãy google “prayat kompup te ong” hay nhấn vào đây http://wn.com/Chau_Doc_massacre để xem trò tuyên tuyền thâm độc.
Trong sách “Phnom Penh, a cultural history”, trang 83, Milton
Osborne có ghi: chính mẹ của Marguerite Duras từng kể rằng bà đã có
chứng kiến cảnh những convict labourer người Việt xây hill station
retreat ở Bokor bị trừng phạt dã man – họ bị chôn sống tới cổ. (Nhà văn
Pháp Marguerite Duras, sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn và có thời gian
sống ở Cambodia cùng mẹ. Bà có tác phẩm nổi tiếng được dựng thành phim
tên là “L’ amant” hay “the lovers” (1992) kể chuyện tình của bà cùng một
người Tàu giàu có và chuyện xảy ra tại Nam Việt Nam.)
Chú ý: bài viết này không có ý gợi lên sự thù hận
giữa hai dân tộc, Việt và Khmer, mà nó chỉ phản ảnh hậu quả do sự thiếu
đoàn kết của dân tộc Việt Nam.