Tim thông tin blog này:

Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

Tại sao Mỹ thua ở Afganistan?

Có tag lão, tính comment tham gia nhưng nói đủ ý khá dài nên gõ thành stt:
Vì sao Mỹ không thay đổi sách lược và cách đánh khi can thiệp vào nước khác?
Không thể bàn chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa vì nó vô cùng, bản thân chính trị là quyền lợi bên này hoặc bên kia, gây tranh luận không đáng có. Lão nghĩ tới lịch sử thế giới từ xưa tới nay, khi một nước lớn tiến công vào nước nhỏ thì chỉ có 2 cách: Một là chiếm và nhập nước đó vào lãnh thổ của mình, thì thời nay không cho phép. Thứ hai, biến nước đó hoàn toàn theo mình thì phải đổ quân can thiệp nhanh. Mà viễn chinh thì hầu như tất cả nước lớn trước hay sau đều phải rút, để lại cái giá phải trả rất đắc. Cái mà Mỹ làm được là của đi thay người, nhân mạng bỏ ra thấp nhất so với các đế quốc khác..
Mỹ tự cao nhưng không hề bảo thủ. Trải qua từng cuộc chiến, đặc biệt là CT Việt Nam họ nghiên cứu đúc kết rất cẩn thận, hy vọng tìm cách xử lý vấn đề mâu thuẫn và thay đổi cách đánh. Nhưng họ không thay đổi được bỡi vì bản chất của một nước tư bản, còn quân đội thì phụ thuộc vào tính chất ấy nên khó thể điều binh khiển tướng cách khác. Nên lặp lại vết xe đổ là điều khó tránh...

Ngẫm về cái tên.

Cha mẹ đặt tên cho con, có khi muốn con mình được vậy mà có khi đặt cho có với người ta. Dù gì thì gì, con người cõng cái tên trên lưng suốt cả cuộc đời. Nó tác động vô thức đến con người, thành ra con người cố làm theo cho đúng với cái tên.
Rốt cuộc cuộc đời như cái tên. Nếu không đúng theo nghĩa đen thì do cha mẹ đặt cái tên tréo ngoe hoặc phải tìm cách hiểu theo ý nghĩa khác thông thường.
Nghĩ lại mình, tui hồi nhở cha đặt tên Bá Hùng nghe rất "ác" thì chắc gì còn sống đến giờ vì rất dễ "xanh cỏ đỏ ngực". Rồi sau cải lại khai sinh là Văn Hùng thành ra "miệng hùm gan sứa". Bản thân mình muốn Quốc Hùng mà không được. Ông anh mình Bá mà Mai cũng "gay" thành ra yếu đi.
Chú em quen Quốc Hưng thì hưng nhờ chữ cuốc, giờ thì đã "ngỏm của tỏi". Chủ công ty mình có tên Danh Định, y vậy luôn quyết lập nên cái danh đẳng cấp dù với giá nào, đi làm thuê năm ba chục triệu khỏe re, không muốn mà chấp nhận bao khổ cực đau đầu.

"Má Miên không khóc thì má Mình khóc!”

Phương án phản công Pốt trên địa hình đồng không mông quạnh giữa ban ngày. Quân đã hao mòn dần lại quá mệt mỏi do luôn cơ động đánh nhau liên tục nên anh em e dè thắng thua nhưng lệnh Trên thì phải chấp hành. Còn lo lắng việc tải thương, chỉ huy bảo yên trí đâu vào đó, lính lác nói đùa nhau: thôi kệ, má Miên không khóc thì má Mình khóc!.

(Chuyện của ông bạn già về những ngày tháng cơ cực quần nhau với Kh'mer Đỏ ở biên giới Long An - Campuchia, năm 1977)

Quân ác ôn! tau có chi mô mà dán nhà ông.

Còn lồm eng chi nữa hả trời. huhu.


Vì sao bộ ngựa còn gọi là phản chỉ dài tối đa 1 mét 8.

Được đặt ở nhà trên để quí ông uống nước trà đàm đạo và nghỉ ngơi, không dành cho phụ nữ. Phải "ba xoa, hai đập" trước khi leo lên cho nên nó cần ngắn để thò hai bàn chân ra ngoài và đắp bằng chiếu cho sạch.
Người có giày dép để nhá xèng lễ lạc và chụp hình thôi, ra đường đi chân đất đến nhà khách mới xổ đôi dép vô cho lịch sự, về nhà mình thì khỏi. - Đấy là văn mình Việt lúa nước.
Đấy là văn mình Việt lúa nước. hehe.

Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023

Đánh 1 quả lựu đạn, bắn 1 trái M79. Tim như ngưng đập!

Địch không sao, ta sém hy sinh! Ai cao số và may mắn hơn trong câu chuyện dưới đây?
Cách đây vài hôm, mình gặp lại Hùng Lác qua điện thoại - chiến sĩ có mặt trong sự kiện. Nhờ Nguyễn Thanh Thu chuyển lại cho đồng đội xem. Một kỷ niêm, với tôi không bao giờ quên, không phải vì độ ác liệt mà tính ly kỳ đến độ đứng tim trong đời lính của mình.
------

Câu chuyện đã xảy ra ở cực nam xã Siem Bouk, địa bàn do Đội công tác của chúng tôi đảm trách. Vào mùa khô năm 1980, tại ranh giới tiếp giáp của tỉnh Stung Treng với tỉnh Kratié (Campuchia). Giữa dòng Mê Kông mênh mông, đang mùa cạn nước, có nhiều chỗ lội đi được. Khu vực đó xa dân đến chục ki lô mét, hoang vu, có nhiều ghềnh thác và vô số đảo lớn nhỏ không người. Một ít dân làng chèo thuyền xuôi ngược buôn bán trao đổi hàng hóa tận thủ đô Phnom Penh. Khi đi ngang qua đó, tình cờ dân thấy có khói và có hành sả trồng trên một đảo nọ. Thượng sĩ tôi, lúc ấy là Đội trưởng công tác kiêm chuyên gia xã nhận định ngay: đích thị là địch, chứ ai nữa vô đây! Vì trước đó, Tiểu đoàn thông qua chính quyền huyện đã phổ biến đến dân là cấm đánh bắt cá khu vực hẻo lánh này để dễ bề kiếm soát.
Thế là Tôi họp bàn với Ban chi huy xã đội, tổ chức tìm đánh địch. Lực lượng gồm 6 bộ đội ta và 6 dân quân phối hợp. Đi trên 2 thuyền lớn, giả dạng như là dân làm ăn, súng dấu dưới sàn. Hôm đó hứng chí nên tôi đổi súng AK của mình, lấy súng M79 của lính, định bụng có dịp đụng trận thì sẽ cốc vài trái cho đã!

Chúng tôi chèo thuyền xuôi dòng Mê Kông, đến buổi chiều thì đến chỗ dân chỉ. Chúng tôi tấp vào một đảo nhỏ gần nhất, qua quan sát thấy có dấu vết sự sống con người. Ăn uống xong, trời tối, đêm đó chúng tôi ngủ ở bờ cát bìa đảo, cạnh cái ghềnh nhỏ, bên lạch nước mà người đi lại phải chèo qua đây để dễ nghe ngóng. Nửa đêm, chúng tôi nghe tiếng động của mái chèo, tiếng níu cây nhỏ mọc ven bờ để kéo thuyền vượt ghềnh, cùng giọng người lao xao. Trời tối đen như mực, chúng tôi căng mắt nhìn vẫn không thể thấy bóng người nên đành chịu dù cách nhau chưa đến chục mét. Tôi thầm bụng: hãy đợi đấy con ạ, mai chúng mày sẽ biết tay tao!

Sáng lên, lùng sục quanh đảo, chúng tôi thấy có một bếp sơ sài đã tàn lửa, vài cái cây gát ngang để phơi cá. Rõ ràng chúng đang lẩn quẩn khu vực này. Từ xa khoảng 200 mét, chúng tôi thấy hai bóng người đang lúi cúi thả lưới đánh cá giữa sông. Chúng tôi di chuyển đến gần hơn cỡ 100 mét, anh em định bắn, tôi cản, bảo: bắn nó chết chìm giữa sông mất luôn cả súng, lấy gì làm bằng chứng báo cáo thành tích lên Trên đã diệt được địch đằng nào nó cũng sẽ vào bờ, lúc đó ta nổ súng chắc ăn hơn.
Chúng tôi bí mật theo dõi và chờ thời cơ… 2 giờ sau, thấy hai tên chèo thuyền xiên về hướng một đảo khác gần đấy, có nhiều cây lớn và cao hơn đảo chúng tôi đang đứng quan sát. Tôi bảo anh em: tuỳ nghi lợi dụng địa hình, men theo các lùm cây giữa sông, lội nước băng qua đó. Điểm gặp nhau là chỗ địch tấp vào, ai đến trước núp chờ, hội quân đông đủ, mới nổ súng tiêu diệt địch.
Do trên hướng lội đi phải nương theo lùm cây, gờ đá nhấp nhô, nước chỗ cạn chỗ sâu, có khi ngập đến ngực nên đội hình chúng tôi bị cắt rời. Tôi băng vội, vừa đi vừa quan sát sợ mất dấu địch. Một lâu sau thì ngoảnh lại không thấy có ai bám kịp theo kịp mình.

Hai tên kia đã tấp vào bờ đảo thì tôi cũng vừa sang kịp. Tôi leo lên triền đất khá cao, rồi đi dọc bờ đảo (mùa cạn nước rút nên đảo cao hơn mặt nước chừng 4-5 mét). Nhắm hướng chỗ địch chèo thuyền tấp vào, tôi đi qua mấy vạt rừng thưa, lom khom đi dần đến mục tiêu đã định. Từ xa, bắt đầu nghe có tiếng động, tôi hạ thấp người, nhẹ nhàng tiếp cận sát hơn trong điều kiện địa hình cho phép. Dừng lại, tìm một gốc cây, xung quanh là vạt cỏ ống cao tầm 5 tất, nằm nghe ngóng, chờ hội quân. Cách chỗ tôi nằm áng chừng hơn 10 mét là địch phía bên kia lùm cây. Người không thấy, chỉ nghe tiếng 2 tên địch đang nói chuyện lao xao. Thật lạ! Chờ mãi 15 phút, không thấy bóng dáng quân ta cùng đến...

Bỗng nghe tiếng động chặt cây rồi nghe giọng nói của 2 tên kia lớn dần vang vang trong rừng vắng. Tôi nhìn thấy chúng vòng qua khỏi lùm cây. Một thằng vác súng trên vai, một thằng tay không, chúng vừa đi, vừa ngước nhìn lên, có lẽ định chặt cây hay kiếm dây leo gì đó. Trời ạ! chúng nhè hướng mình đang nằm mà đi ngay tới. Tình thế căng như dây đàn, tim tôi đập thình thịch. đầu nghĩ thoáng qua: không thể di chuyển để né được, nó sẽ thấy. Thôi một sống hai chết vậy! Nhưng không sợ lắm vì mình chủ động thấy nó, ngược lại nó không hề biết minh đang tính luột nó! Ngặt nỗi, súng M79 bắn ở cự ly gần, đạn chưa chắc đã nổ. Tôi quyết định đánh lựu đạn trước, bắn M79 sau. Tôi rút chốt trái lựu đạn USA, sẵn sàng.

Chúng bước tiếp, khoảng cách nhau còn chừng 8 mét. Không thể nào khác, tôi bung thìa cho lựu đạn điểm hoả trên tay. Ý nhằm để ném lựu đạn tới chạm đất là nổ tức thì. Không cho địch có thời gian nằm xuống né mảnh, nếu nó có cơ hội sống sót thì sẽ diệt mình!
Tôi rướn người ném vội. 'Bốp' – 'Bịch'. Ối mẹ ơi! Quả lựu đạn quăng trúng gốc cây nhỏ trước mặt, dội lại rớt xuống, chếch sát phía sau lưng, cạnh tôi. Lúc này, hồn vía tôi lên mây, tim như ngưng đập. Lẽ ra lúc ấy, tôi lăn người tức khắc để tránh nổ thì còn cơ may sống sót. Ngược lại, do quá hoảng hốt, tôi sợ khẩu AK của tên kia sẽ khạc đạn về mình. Trong đầu tôi lúc đó: chỉ duy nhất một ý nghĩ là nó phải chết thì tôi mới sống được! Nên nhoài người ra sau chụp lấy quả lựu đạn ném tiếp lần hai về hướng địch.
Quả lựu đạn bay rớt phịch gần chỗ 2 tên. Chúng ngớ người vì tiếng động lạ nhưng vẫn không biết chuyện gì xảy ra. Ngay lập tức, tôi bật người, ngồi quỳ bóp cò súng, nã luôn một phát M79. Đạn M79 không nổ. Tiếng đề pa súng khá lớn nên đến lúc đó 2 tên kia mới biết sự có mặt của tôi. Vì quá khận cập rập, thay vì nạp tiếp trái đạn khác vào súng, bắn tiếp thì tôi lại giương cái súng không về chúng. Miệng thét uy hiếp bằng tiếng Kh'mer: Giơ tay lên. giơ tay lên! đầu hàng. đầu hàng! Bộ đội Việt Nam đã bao vây, ai chống cự sẽ bị tiêu diệt lập tức! Hai tên kia la làng bài hải: Nhân dân. Nhân dân’. Nhìn vào họ, lần đầu tiên tôi mới thấy mặt của người đang sợ hãi tột độ không phải là tái xanh mà là màu xám xịt (có lẽ do nước da họ đen). Tôi dương súng khống chế, nhào lại gần, thì té ra họ không có vũ khí. Cái mà tôi tưởng khẩu AK vác vai kia thì thực ra là cái búa chặt cây. Dễ hiểu thôi vì diễn biến không ngờ, tưởng như lưỡi hái tử thần đang hạ xuống đầu tôi. Với tình huống đó thì chẳng ai mà bình tĩnh nổi, ba chớp ba nháng, thần hồn nát thần tính là vậy!

Lúc bấy giờ, nghe có tiếng nổ, người la thì mới thấy quân ta cùng dân quân từ dưới bờ sông nhào lên. Thì ra, mình thì đi đến mục tiêu trên triền cao để chiếm ưu thế đánh nhau thì anh em lại đi men theo mép sông bờ đảo. Tôi lục soát người họ và thẩm vấn ngay: Từ đâu đến, tại sao đánh cá nơi này, có mục đích gì?… Sau đó, mới xác định 2 người là dân ở Ou Mreah (Ô M'ría) - một xã khác bên kia sông đến khu vực này đánh cá. Nơi đây vắng nên cá rất nhiều, họ đánh lưới bắt cá, xẻ phơi khô đem về bán. Họ đến nơi vắng vẻ, có địch ở, tất nhiên họ cũng “hợp rơ” với bọn Pol Pot, đánh được cá chia cho chúng ăn - chuyện bình thường. Trước là ta - "địch", sau là quân với dân xí lô xí là trò chuyện, họ cho chúng tôi một mớ cá khô… Chúng tôi đuổi họ về không cho đánh cá nữa, họ dạ vâng cảm ơn bộ đội ta rối rít (cảm ơn thần chết tha mạng mới phải!).

Chưa hết chuyện, chiều hôm đó, chúng tôi quay lại đảo ban đầu, nghỉ chơi ăn uống. Một chiến sĩ ta (giớ mớ nhớ là Hùng Lác) nghịch tháo đầu kíp lựu đạn không nổ kia ra khỏi thân dưới chứa thuốc nổ rồi đè kim hoả ném đi để nổ kíp xem chơi. Hai lần đầu ném không nổ, lần thứ 3 vừa định chộp lấy ném tiếp thì nó nổ “Tạch” một phát. Máu me tè le do mảng nhôm của kíp và cát đất bắn  lên! May mà bàn tay cậu ấy còn cách cái đầu kíp một tất, chứ nếu tay cầm vào thì chắc đã toi một hai ngón tay, xa đơn vị không có điều kiện băng bó cấp cứu quả là gay! Rồi ngủ lại tiếp đêm nữa, sáng chúng tôi rút quân, chèo thuyền về.

Khi chuyện qua đi, đêm nằm tôi ngẫm lại tình huống hôm đó. Quả lựu đạn kia không nổ do kè kè mang theo mình, chịu mưa gió lâu ngày nên lò xo bị yếu, kim hoả đập chưa đủ sức mạnh để kích hạt nổ. Sẽ như thế nào nếu nó nổ? - Khoảng thời gian bung thìa mỏ vịt, cộng với 2 lần quơ tay ném là trong vòng 6 giây cho dây cháy chậm dẫn đến kíp nổ. May nó tịt chứ không thì tôi đã banh xác, chứ không phải là 2 tên "địch" kia. 
Còn 2 người dân kia, lãnh 1 quả lựu đạn, 1 trái M79, đều không nổ. Nhưng hôm ấy nếu tôi mang AK thì sao? - Cả hai coi như "xong phim". Chắc chắn gặp thằng lính máu chiến như tôi thì với cự ly ấy, đã bắn thì chỉ đổ gục tại chỗ, không chạy được bước nào. Họ cực may mắn không kém tôi.
Người ta nói "thần thánh độ mạng" hay "bà đỡ" đó là chuyện tâm linh. Tôi từng thoát chết mấy lần trong gang tất. Đời lính chiến gặp nhiều sự ngẫu nhiên, chả có tình huống giống tình huống nào, chả biết đâu mà lần! 
May rủi, chết sống nhẹ tựa lông hồng. Ngày hôm sau chẳng nghĩ ngợi lại như nó chưa từng xảy ra. Cái bận tâm luôn ở phía trước: Hôm nay mình kiếm gì ăn, có gì vui không, sẽ bàn việc gì với chính quyền với dân. Nó đánh luột mình khi nào, mình phải tìm thanh toán nó ở đâu. vân và vân vân…

Lược đồ khu vực xảy ra trong câu chuyện.

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2023

"Trận đánh nhớ đời !" cùng các chiến sĩ d12

Câu chuyện xảy ra vào khoảng đầu năm 1981. Tiểu đoàn 12 của Đoàn 5503 thuộc Mặt trận 579, đảm nhiệm địa bàn huyện Siem Bouk, tỉnh Stung Treng, Campuchia. Vào thời gian ban chỉ huy tiểu đoàn đi tập huấn hay họp hành gì đó ở cấp trên nên vắng mặt, ủy quyền chỉ huy tại đơn vị cho anh Trần Quốc Tuấn - Trợ lý Chính trị. Lúc ấy, Tổ trưởng tổ phái viên - Nguyễn Văn Hùng trực tiếp phụ trách xã Sre Krosang, về nước nghỉ phép. Tôi thiếu úy Trần Văn Hùng là Tổ phó phụ trách xã Siem Bouk tạm kiêm nhiệm thêm xã trên.

Một ngày nọ.

Chính quyền địa phương cấp báo có 2 tên Pol Pot ra hàng ở Sre Krosang, mang theo 2 súng AK báng gấp. Trước đó, xã này đã có dấu hiện nghi ngờ địch lén lút về hoạt động lôi kéo dân nên tôi tức tốc đi xuống phum để gặp ngay. Xác định đối tượng xong, thông qua cấp huyện Bạn, tôi xin đưa 2 tên về ban chi huy tiểu đoàn.
Trước khi khai thác thác tin tức, tôi nói nuôi quân cho họ ăn cơm nhiều, đồ ăn khá tí. Để họ bớt sợ, tôi thân thiện ân cần thăm hỏi về gia đình và cuộc sống trong rừng. Tôi động viên họ cung cấp tin tức và dẫn Ta đến chỗ đồng bọn. Sẽ được khen thưởng, cam kết không bắt bỏ tù, sớm được về sống với vợ con. Tôi hứa danh dự chỉ nhằm gọi hàng chứ không chủ đích dẫn quân đi đánh. Thủ pháp là nâng đỡ tinh thần họ, hứa hẹn kết hợp với răng đe hù dọa, thậm chí là ép buột…
Một người tên Chanh – Đội phó, người còn lại tên Luân – Đội viên của đội vũ trang tuyên truyền. Ngày hôm sau, họ dẫn đơn vị đi lấy vũ khí chúng dấu ém trong cái chòi lá trong rừng, thu được 5 súng (có 1 B40). 

Quyết tâm và phương án tiến hành.

Được biết địch có chừng 10-12 tên (2 nữ không súng), trực tiếp chỉ huy là bí thư huyện. Chỗ ẩn náu trên núi thuộc tỉnh Kratié giáp ranh với tỉnh Stung Treng, không tổ chức canh gác và bố phòng chông mìn. Đi cắt rừng theo đường mòn bí mật của chúng, khoảng một ngày rưỡi là tới... Tôi nhận định 2 người ra hàng cách xa đơn vị địch, chắc chắc tin ra hàng chưa thể đến ngay tai địch ở xa. Trong đầu tôi hình thành ngay quyết tâm đánh vào căn cứ xuất phát của chúng và phải làm nhanh nhất có thể. Vấn đề gay góc là làm sao đã thông tư tưởng để họ chịu dẫn đi vì lẽ thường tình không ai muốn dẫn đối phương xa lạ đánh đồng đội đồng bào của mình - những người chia cơm xẻ cật với mình. Hai hàng binh lưỡng lự, dùng dằng, đồng thời lo sợ gặp nguy hiểm… Để họ vững lòng, tôi bảo: nếu các anh dẫn chúng tôi đi, tôi sẽ giao lại súng cho hai anh - đó là lòng tin tôi đặt nơi các anh. Tôi hứa danh dự sẽ tìm cách bắt sống, trừ trường hợp chống đối, buột lòng chúng tôi mới nổ súng. Hai anh sẽ đi sát với tôi và chúng ta sẽ bàn nhau cách ứng phó trong mọi tình huống… Cuối cùng họ đồng ý.
Tôi lên gặp Quyền chỉ huy, đề xuất thông qua Phương án. Điểm gay cấn và nguy hiểm nhất là khả năng quân ta đánh quân mình. Vì Tiểu đoàn điện báo lên Đơn vị cấp trên là Đoàn 5503, rồi Đoàn 5503 báo lên Mặt trận 579, thông tin qua Mặt trận 779 thông báo xuống... tận đơn vị đảm nhiệm khu vực dự kiến Ta sẽ đánh vào. Theo bài bản thông tin như vậy, thời gian là quá muộn.
Tôi thuyết phục anh Tuấn quyền chỉ huy D, không thể chờ, thắng hay bại ăn nhau ở thời gian. Nếu chậm thì địch hay tin đã lộ có thể sẽ di dời, bố phòng chông mìn đối phó, thậm chí là phục kích Ta. Anh Tuấn nghe tôi vẽ phương án có lý với chiến công ngon ăn hấp dẫn không thể bỏ qua, nên cũng xuôi lòng với kế hoạch đầy mạo hiểm.
Vậy là chúng tôi đi đánh địch mà không có quyết định từ cấp cao hơn, theo kiểu ngẫu hứng lý qua cầu, tùy nghi xử lý tình huống theo tình hình cụ thể. 

Kế hoạch và giả định tình huống xử lý.

Kế hoạch tôi đề xuất là thế này: Tổ chức thật gọn nhẹ, hàng binh dẫn bộ đội ta theo đường mòn của chúng thường đi đến căn cứ trên núi. Tiếp cận mục tiêu, trinh sát, đêm xuống sẽ áp sát bao vây, gọi hàng bắt sống, nếu địch nổ súng chống cự ta tiêu diệt. Yếu tố bí mật – bất ngờ được đặt lên hàng đầu. Giả định tình huống và cách sẽ xử lý, tôi tin khó thể xảy ra nhưng cũng nghĩ tới mà để phòng. Khả năng nếu tình cờ gặp đơn vị khác thuộc MT 779 trên đường đi. Rất khó thể xảy ra vì đó là đường mòn bí mật chỉ quân Pol Pot mới biết. Có chăng hạn hữu đơn vị bạn hành quân cắt ngang qua gặp quân ta, rừng núi mênh mông dễ gì ! Khả năng thứ hai cũng rất hạn hữu là có thể đụng đầu nếu đơn vị bạn đang truy quét địch ở khu vực này hay đã đánh chiếm căn cứ địch. Nhưng tôi tin đi đầu đội hình là 2 hàng binh Kh'mer, bản năng rừng núi họ rất nhạy cảm, phát hiện mọi dấu vết và bóng người nhanh hơn hẳn bộ đội Việt Nam, chắc chắn mình sẽ chủ động xử lý được. Tình huống gặp địch giữa đường, một hai tên Pol Pot đi lại dọc đường mòn là có thể xảy ra nhưng chắc chắn là không đáng ngại, hàng binh sẽ thấy, Ta sẽ không đánh mà tránh né cho qua. Nếu đã bị lộ tin, địch ở hậu cứ tổ chức bố phòng thì qua những dấu hiệu lạ, hàng binh đi cùng sẽ biết vì cùng một ruột chiến thuật, ở cùng một nhà với nhau. Ta không thể rơi vào bẩy, đành bỏ cuộc, quay về. 

Tổ chức lực lượng và trang bị.

Tổ chức hết sức gọn nhẹ ! Tôi và 5 anh em (lấy từ trung đội trinh sát tiểu đoàn), 6 người trang bị 6 AK, mỗi người 2 băng đạn, 2 lựu đạn. Hai hàng binh, 2 AK, cấp mỗi người 3 viên đạn để tự vệ. Không có cứu thương, không máy thông tin, không súng hỏa lực. Chỉ mang theo bản đồ để đối chiếu với thực địa, xác định vị trị. Chúng tôi đi vào vùng đất mà mình hoàn toàn không rõ, chỉ mường tượng trên bản đồ, mọi chuyện ở phía trước, không thể lường sẽ ra sao...

Chúng tôi xuất phát.

Vào ngày thứ ba, tức là sau 48 giờ kể lúc 2 hàng binh đầu thú. Đội hình chia thành 2 tốp nhỏ: Tốp đi đầu: tôi mặc áo xanh, mũ vải dân sự nghi binh và 2 hàng binh đi đầu. Tốp đi sau là 5 chiến sĩ, luôn giữ khoảng cách trong tầm nhìn để liên lạc và hổ trợ chiến đấu (khoảng 5 đến 15 mét tùy địa hình). Quy định thống nhất dù thấy địch, không ai được nổ sung khi chưa có lệnh của tôi.
Hành quân, ngày đầu tiên. Gần trưa, chúng tôi đang lầm lũi bước thì bỗng nghe tiếng sột soạt và thấy bóng người chạy dạt vào ven rừng. Chúng tôi không bắn truy đuổi. Một lúc sau nghe tiếng vài phát súng, chúng bắn làm tín hiệu để liên lạc lại với nhau. Tôi hỏi thì hàng binh cho biết đó là lính của Đội chúng, theo dấu chân thì đó là thằng A với thằng B trên đường đi về Phum, tình cờ gặp quân ta chiều ngược lại. Chúng phát hiện trước, núp vào ven đường khi thấy tốp lính ta phía sau, biết là gặp phải bộ đội VN mới bỏ chạy. Tôi nghi ngờ hàng binh biết trước nhưng không ra dấu hiệu cho tôi, cố tình cho lộ để đồng bọn bỏ chạy, tôi để bụng, không trách móc gì. Tôi nói: rứa là yên tâm, địch chưa hề biết các anh đã ra hàng nên mới đi bất ngờ gặp như vậy. Hai hàng binh ngần ngại không muốn đi tiếp, tôi tiếp tục động viên tinh thần cho họ.
Dọc đường, quan sát mọi dấu vết cho thấy không có gì đáng ngại. Chiều xuống, chúng tôi nghỉ qua đêm.
Ngày thứ hai. ... Chúng tôi quan sát kỹ lưỡng mới nhanh chóng qua đường, cắt ngang quốc lộ 13, vượt biên giới sang đất tỉnh Kratié. Rồi bắt đầu leo núi không cao lắm, khu vực chúng ở bình độ cao vài trăm mét.
Xế chiều, đến gần chỗ ẩn náu của địch ước chừng khoảng 3 km, tôi cho tạm dừng ém quân, lo cơm nước. Tôi bảo 2 hàng binh dẫn tôi đi trinh sát. Tiếp cận mục tiêu thấy một bãi phân còn mớ, vào gần hơn, nhìn qua khoảng trống, bên kia rặng cây, thấy một cô gái với hai thằng nam ở trần dáng mập, chúng đang làm gì đó và tán chuyện với nhan. Một sinh hoạt bình thường, tôi chỉ cần vậy, yên tâm là đối phương chưa hề hay biết chuyện đồng đội ra hàng. Ba chúng tôi quay về nơi ém quân ăn uống. Họp thống nhất cách vây bắt và đánh ban đêm.

Tổ chức tiếp cận mục tiêu và đánh.

Lực lượng chia làm 3 mũi, mỗi mũi 2 chiến sĩ. Mũi hướng chính: Tôi và 1 chiến sĩ cùng 2 hàng binh. Tất cả bí mật bò vào áp sát mục tiêu, hình thành thế bao vây. Tuỳ địa hình địa vật, các mũi vào gần sát địch nhất theo khả năng có thể được. Đâu vào đó ổn rồi thì 2 hàng binh sẽ lén vào lấy súng đưa ra (đêm lạnh trong rừng chúng ngủ say thoải mái). Xong, tôi gọi hàng, bắt sống, tên nào chống cự, nổ súng tiêu diệt.
Chừng 6 giờ tối, chúng tôi bỏ lại ba lô chỗ tập kết quân, xuất phát như phương án đã định, đi dè dặt để giữ bí mật... 2 tiếng sau đến mục tiêu. Từ xa đã thấy đóm lửa, tôi rất mừng là vì hồi chiều mình vào trinh sát có để lại dấu vết gì không, e bị lộ. Khi nghe ngóng tình hình bên trong êm ắng, tôi khoát tay chỉ các mũi tiến vào theo mục tiêu định hướng là đống lửa chúng đốt sởi ấm cho ban đêm đỡ lạnh.
Chúng tôi nhắm hướng ánh lửa, nhẹ nhàng đi khom tiếp cận, tiếp nữa là bò vào áp sát. Tôi nghe tiếng động khẻ lộp bộp của bước chân và va chạm lạch cạch nhẹ của vũ khí của 2 mũi còn lại nhưng địch không hề hay biết. Mũi của tôi vào cách địch nằm chừng 7 mét, nằm chờ, bò tiếp còn 4 mét.
Từ lùm cây, tôi quan sát thấy khá rõ vì nhờ ánh sáng của đống lửa. Gần nhất là 1 tên nằm võng, bên cạnh là sạp cây có 3 tên nằm, kế bên nữa 1 tên nằm võng. Tôi thầm thì với hàng binh: Bí thư huyện là thằng nào, hàng binh chỉ vào tên đang nằm võng. Tầm 9 giờ, thấy chúng có vẻ đã ngủ thật say, tôi khoát tay ra dấu cho hai hàng binh vào lấy súng như phương án đã vạch.

Bất ngờ nổ súng và Chiếm lĩnh trận địa.

Chỉ độ lát sau, tôi thấy 2 hàng binh chạy ngược ra, miệng la. Trời. thế là bể kể hoạch! Loáng thoáng bóng người nhào khỏi vị trí, với tay chụp súng. Tôi ngồi bật dậy, quất một loạt súng vào cái võng, rồi bước lên đứng khom bắn găm, quất tiếp mấy loạt nữa vào chỗ sạp cây. Hai mũi kia đồng loạt nổ súng dòn dã. Một mục tiêu nhỏ, 3 mũi giáp công, từng tràng súng đanh gọn chớp nhoáng, như cảnh trong phim hành động của Hollywood. Anh sáng từ nòng súng AK của mũi kia phụt lửa ra dài ngoằng như nổ về hướng mình, rát ràn rạt! tôi phải thụp người xuống sợ trúng đạn của nhau. Tiếng súng nổ chan chát, tiếng sột soạt người chạy, tiếng la í ới của ta lẫn địch, vang vọng giữa đêm khuya vắng.
Khoảng vài phút sau, khi không còn nghe tiếng động người chạy. Tôi lệnh dừng bắn, nghe ngóng tình hình. Chỉ còn lại là tiếng kêu la của mấy tên trúng đan. Tôi nói hàng bình xác đinh tên bí thư đã chết cho chắc chắn. Rồi bảo đi tìm gom hết súng về chỗ đống lửa, được 5 khẩu AK. Ngoài ra, lính ta không hưởng sái chiến lợi phẩm nào khác, dù là đồ dùng cá nhân nhỏ nhất. Vì chúng đói rách te sơ mướp, sống cực khổ, hai tên thấy dáng mập ban chiều là do ăn củ nần mà bị phù thủng.
Kiểm tra tình hình sơ bộ: 3 tên chết tại chỗ, 2 tên trúng nhiều đạn bị thương rất nặng. máu me tùm lum. Hai con nữ chạy dạt ra ngoài, la í éo. Tôi bảo Chanh, Luân, 2 hàng binh: hãy xưng tên cho tên sóng sót biết là bộ đội Việt Nam đang bao vây toàn bộ khu vực, không chạy lung tung sẽ trúng mìn và bị bắn chết (hù cho sợ!). Và kêu gọi 2 con nhỏ ra hàng chỗ đống lửa. Một lát sau, Chanh dẫn vào 2 cô gái.

Giải quyết hậu sự. 

Biết 2 côn gái là thanh niên xung phong, chúng tôi không trói. Gay nhất là 2 tên bị thương, kêu mẹ ơi: chết con rồi, nghe rất chùng lòng. Và chúng réo tên 2 hàng binh hãy cứu chúng, vang trong rừng nghe đến nổi gai ốc! Biết là trúng đạn lệt cụp như thế, chắc chắn là không sống được nhưng không thể bắn bồi cho nó chết trước mặt tù hàng binh chứng kiến, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh quân đội ta. Tôi buột phải nói lính mình băng bó cho qua chuyện. 30 phút đến 2 giờ sau, một tên chết, tên còn lại tắt thở nốt vì mất máu. Thần kinh không còn tra tấn bỡi những tiếng kêu ghê rợn giữa đêm thanh vắng.
Chúng tôi giãn đội hình ra xa nơi nổ súng để phòng địch phản công và tránh ngửi mùi tanh của máu. Tôi bảo Chanh hàng binh kiếm giấy viết lời kêu gọi cho đồng bọn, bò vào túi ny long, kẹp lên nhánh cây, để đồng bọn chúng có quay trở lại chỗ đánh này tìm xác, xem thấy ra hàng. Chúng tôi dịch ra khu vực nổ súng, ngồi thức, ngủ chập chờn, mờ sáng hôm sau chúng tôi rút quân. Trên đường về, chúng tôi có ghé một phum thuộc xã Osay Kondal để giảo lao, ăn uống, xả hơi. Lúc mới vào đầu phum, dân làng bỡ ngỡ, hoảng hốt khi thấy Pon Pot đi cùng bộ đội Việt Nam… 

Kết quả toàn cuộc và mấy điều suy nghĩ:

Phía ta tuyệt đối an toàn. Tôi bắn 4 loạt, chỉ hết 16 viên đạn, các chiến sĩ còn lại bắn nhiều hơn một tí. Tôi tò mò hỏi hàng binh Chanh, Luân có ai nổ súng không? Luân cho hay: em có bắn một phát vì nó bắn lại mình (tôi đoán là Luân thấy mũi bộ đội ta ở hướng đối diện bắn quá gần nên tưởng địch bên trong đánh trả). Bình tâm nghĩ lại: bao vây gọi hàng trong đêm, sẽ bắt sống được địch là điều không tưởng vì địch đang ngủ say, khi nghe tiếng lạ hoặc sự cố thì theo phản xạ tự nhiên là sẽ nhào quơ lấy súng chống cự, chạy thoát thân. Địa hình rừng núi hoàn toàn xa lạ, chỉ dựa vào hàng binh dẫn đường, ngộ nhỡ đi hoặc chạy lạc thì sao? Kết quả: Gọi địch ra hàng 2, diệt tại chỗ 5 (có 1 Bí thư huyện), bắt sống 2, thu cả thảy 10 súng các loại. Góp phần phá thế kềm kẹp của địch đối với quần chúng nhân dân trên địa bàn. Tôi và anh em tham gia tự hào và nhỡ mãi thành tích tuyệt vời này. Đã kết hợp tốt giữa dân vận và địch vận, giữa vận động quần chúng và tác chiến. Dẫn đến một trận đánh khá đặc thù, đầy mạo hiểm với sự liều lĩnh có tính toán. Tôi tự rút ra bài học: sự thành công trước hết phải nói là nhờ biết dựa vào bạn Campuchia. Đòi hỏi một bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin với dân và ngay với kẻ địch đã ra hàng, lôi kéo họ đứng về phía mình. Biết nắm bắt và tận dụng thời cơ. Áp dụng biện pháp tổng hợp mới tạo nên được sự thành công như đã kể. - Không biết trên chiến trường Campuchia có ai dám trao súng và đạn cho hàng binh mới về, dẫn đường đi đánh địch như tôi không? - Có ai dám chỉ với 6 quân, không có súng hoả lực, tự lực cánh sinh mà biết trước sẽ chạm với 10 tên địch?
- Đi 2 ngày đường vượt sang địa giới tỉnh của đơn vị khác phụ trách, không điện đài liên lạc, không y tá, dám đánh vào tận hang ổ địch? Số lượng địch bị tiêu diệt là không nhiều, nhưng xóa sổ một đội vũ trang tuyên truyền của địch là chuyện hiếm, có ý nghĩa lớn về chính trị. 

Sơ lược về hướng đi và vị trí địch:


Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2022

Diễn giải hệ thống chuyên gia quân sự ở CPC.

Theo Huy Đức trong sách Bên Thắng Cuộc - Chương 11 Campuchia:
https://www.vinadia.org/ben-thang-cuoc-huy-duc-quyen-i-giai-phong/chuong-11-campuchia/

Một năm sau khi đánh sang Campuchia, ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ trung tướng lên thượng tướng. Ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, lấy phiên hiệu là “Bộ Tư lệnh 719”. Ông Lê Đức Anh, khi ấy đang là tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII, được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Tình nguyện.

Vừa làm tư lệnh 719, ông Lê Đức Anh vừa trực tiếp làm trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự 478, cơ quan giúp hình thành Bộ Quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang Campuchia. Bên cạnh lực lượng “Quân Tình nguyện” còn có một “Đoàn Chuyên gia” giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự, có mật danh là B68, do ông Trần Xuân Bách, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách. Tháng 3-1982, tại Đại hộiĐảng lần thứ V của Việt Nam, ông Trần Xuân Bách vào Ban Bí thư trở về Hà Nội làm chánh Văn phòng Trung ương; ông Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, trở lại Campuchia, thống lĩnh cả Đoàn Chuyên gia B68 và Quân Tình nguyện.
_______________________


Trước 1975, Thời Việt Cộng hợp tác với Khmer Đỏ.
Năm 1970, sau khi Lon Nol lật đổ Sihanouk thân Cộng. Quân VN từ hướng Lào tràn xuống, đánh bật quân Lon Nol và làm chủ cả một vùng rộng lớn 4 tỉnh vùng Đông Bắc CPC. Quân Khmer Đỏ còn non trẻ nên dựa vào VC là chính. Quân VN cố vấn cho họ xây dựng lực lượng vũ trang và giúp đỡ lập chính quyền các cấp tại đây.
VC sát cánh phối hợp tác chiến cùng KMĐ. Và Trung Quốc viện trợ thông qua VN, VN cố vấn giúp cho họ một số đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên. Chủ yếu là những chỉ huy người gốc Nam Bộ hoặc người Miền Ngoài vào Nam chiến đấu lâu năm nên dễ hiểu tính cách người Khmer. Sau này xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam thì số cán bộ chủ chốt này còn lại ít nên mất đi lợi thế am hiểu đặc điểm dân tộc và sở trường tác chiến vùng đồng bằng...

Giai đoạn chuẩn bị tổng phản công sang đất CPC.
Trước tình hình tranh chấp bằng vũ lực giữa VN và CPC ngày càng căng thẳng, phức tạp. VN không dàn xếp được với CPC Dân chủ bằng con đường ngoại giao, nên Bộ Chính trị, Trung ương đã manh nha ý định tổng phản công để giải quyết vấn đề kéo dài bế tắt. Từ năm 1977 đến 1978, Ban bí thư đã lập ra các nhóm, ban chuyên trách để nghiên cứu, lên kế hoạch. Do tính chất, nhiệm vụ có phát triển nên mấy lần thay đổi cơ cấu nhân sự và mật danh như “Nhóm 77, Ban 10, Ban Z, Ban B.68".
Rồi Quân uỷ thành lập Đoàn mang phiên hiệu 478 để tham mưu và triền khai ý định quân sự. Các quân khu 5, 7, 9 thành lập các đoàn như 578, 778, 978... Ví dụ Đoàn 578: Số đầu ám chỉ quân khu 5, 2 số sau là năm thành lập. Nhằm giúp Bạn (phe ly KMĐ, thân VN) xây dựng LLVT và hình thành dần nòng cố chính trị chuẩn bị về lại CPC nắm chính quyền. Để bảo toàn lực lượng hiếm, sợ KMĐ biết đánh thọc sâu, mất "vốn" Bạn. Nên các đoàn hoạt động không công khai, chỉ những người có trách nhiệm bên chính quyền và nội bộ quân đội biết ít nhiều mà thôi. Quân số tương đươc cấp trung đoàn nhưng chỉ huy ngang cấp sư đoàn. Trong mỗi bộ tư lệnh đoàn cơ cấu có một thường vụ tỉnh uỷ và sĩ quan cấp trung thượng tá, có thể nguyên là "dân" tình báo gộc hoạt động ở Lào, CPC thời chống Mỹ...
Giải phóng Pnom Pênh, chế độ mới hình thành ở CPC.

Sau 1979, khi đại quân đã qua lãnh thổ CPC, mỗi quân khu thành lập tiền phương quân khu. Đảm nhiệm mỗi khu vực rộng lớn gồm nhiều tỉnh gọi là Mặt trận 579, 779, 979. Quân đoàn 4 thành lập Mặt trặt 479 hoạt động giúp Bạn trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Bát Đòm Bong. Tổng chỉ huy chung là Tiền phương Bộ Quốc phòng, phiên hiệu là Mặt trận 719...
Các đoàn như 578, 778, 978 ở trong nước trước đây, giải thể. Chỉ giữ lại cán bộ nòng cốt, thành Phòng Chuyên gia quân sự gọi tắt là Phòng K. Có nhiệm vụ tham mưu cho bộ tư lệnh các mặt trận về công tác giúp Bạn. Đại bộ phận tách ra thành từng đoàn nhỏ. Bao gồm cả Ta - Bạn phụ trách từng tỉnh, gọi là Bộ chỉ huy thống nhất... ví dụ ở Stung Treng mang mật danh T2. Nhiệm vụ chính là cứu đói và ổn định cuộc sống của dân. Cùng Bạn sàng lọc, chỉ định nhân sự tạm thời điều hành chính quyền làng, xã, huyện, tỉnh...


Cuối năm 1979, các Bộ chỉ huy thống nhất chọn những hạ sĩ quan cấp trung đội tiểu đội, biết tiếng Khmer. Tập trung tập huấn về đặc điểm đất nước và con người CPC trong quá khứ và hiện tại. Âm mưu chống phá ta của ba phái địch. Rồi sau đó phân về các xã làm công tác dân vận, tách địch trà trộn ra khỏi dân. Sàng lọc củng cố, thành lập bộ máy vận hành hoàn chỉnh, có chính quyền, dân quân và đoàn thể. Tuỳ theo tình hình mà từng xã có một đội công tác hay 2-3 xã do một đội công tác đảm nhiệm. Tuỳ nhu cầu thực tế mà đơn vị biên chế người, cấp vũ khí nhiều hay ít. Có xã chỉ có 1 người phụ trách công tác và 1 chiến sĩ bảo vệ. Một đội công tác ở xa có chừng trên dưới 10 người, hoả lực có B40, M79, RPD. Không có thông tin liên lạc và thường không có y tá. Người cố vấn một xã, có khi gọi là Chuyên gia, có khi gọi là Phái viên xã. Để điều phối công tác là tổ phái viên tiểu đoàn do Chính trị viên phụ trách chung. ĐCT Ta chọn người trong xã, thành lập Đội công tác Bạn. Quân số khoảng 6 người, được trang bị quân trang, vũ khí do tỉnh đội bạn cấp. Gạo thực phẩm và tiền phụ cấp do chính quyền tỉnh Ban. Hai đội công tác Ta, Bạn hoạt động như hình với bóng. Đội trưởng, đội phó Ta muốn tác động với chính quyền với dân, thường bàn bạc trước, thông qua họ để triển khai kế hoạch. Có những khi Đội trưởng Ta làm việc trực tiếp với cán bộ làng xã.


Sang năm 1980, Bộ chỉ huy thống nhất được tăng quân số, hình thành đơn vị mới gọi là Đoàn... Đảm nhiệm địa bàn một tỉnh cho chặt chẽ hơn và để thay dần quân chủ lực đứng chân. Mỗi đoàn cấp tỉnh có phiên hiệu 4 con số, ví dụ Đoàn 9905 đóng quân ở tỉnh Tà Keo. 2 số đầu ám chỉ tiền phương quân khu 9, 2 số sau ám chỉ tỉnh. Bổ sung chỉ huy và quân số lấy chủ yếu từ nguồn các tỉnh đội VN đưa sang, gọi là kết nghĩa về quân sự. Đoàn ta song hành với tỉnh đội Bạn. Mỗi đoàn: ở huyện có một tiểu đoàn, vài xã có môt đại đội trực thuộc đứng chân.


Cứ Bộ chỉ huy đoàn thì làm chuyên gia cho BCH tỉnh đội Bạn. Ngoài ra có Đoàn chuyên gia QS tỉnh (thuộc BCH Đoàn..) giúp các phòng bạn tỉnh đội Bạn. BCH huyện đội Bạn thường do Tiểu đoàn trưởng, phó và Chính viên làm cố vấn cho Bạn. Đại đội có một phái viên làm chuyên gia. Sau này khoảng từ năm 1984 thì tổ chức ra Tổ chuyên gia huyện giúp huyện đội Bạn và có các phái viên làm chuyên gia cho các xã.


Về chế độ lương và phụ cấp.
Tất cả chuyên gia đều do chính phủ VN trả lương và phụ cấp bình thường như mọi sĩ quan, hạ sĩ quan toàn quân ở CPC. Khoảng từ năm 1981, Chính phủ CPC đã phát hành tiền tệ, có trợ cấp thêm một ít tiền riel tiêu vặt. Để động viên chuyên gia tiếp xúc làm việc tốt hơn với cán bộ và nhân dân Bạn, có hai mức: ai biết tiếng Khmer được dăm đồng riel, ai biết tiếng rành thêm biết chữ nữa được hơn một chút...

Cuối 1989, sau khi Việt Nam rút quân khỏi CPC, không còn một đơn vị nào ở lại. Theo yêu cầu của Bạn, VN chỉ để lại một số sĩ quan cố vấn quân sự từ cấp tiểu đoàn trở lên. Nhà nước Campuchia bắt đầu thay VN trả lương cho chuyên gia. Mãi đến 1992-93 khi UNTAC - lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ vào Campuchia thì chuyên gia quân sự VN vẫn còn. Chính phủ CPC trả lương cho chuyên gia bằng tiền USD (lương cấp uý cao hơn hẳn cấp tá ở VN). Theo thời gian, số chuyên gia quân sự giảm dần cho đến kết thúc nhiệm vụ...

Nói thêm về chuyên gia dân chính đảng.
Gọi là Đoàn chuyên gia tỉnh x, y, z... Có người phụ trách cố vấn cho uỷ ban đến các ban ngành, đoàn thể Bạn như ở VN. Cấp huyện có 3 chuyên gia. Ở cấp trung ương là Tổng đoàn chuyên gia. Nguồn cán bộ từ các tỉnh kết nghĩa kinh tế ở VN. Có thể đoàn quân sự và đoàn chính trị trùng một gốc tỉnh kết nghĩa, có thể khác. Họ không cố định thời gian phục vụ, có thể 1-2 năm từ bên VN đưa người sang thay nhau. Những việc liên quan đến chính quyền và dân thì chuyên gia quân sự xin ý kiến chuyên gia dân sự.
Họ sống an toàn hơn hẳn bộ đội vì ở thị xã, thị trấn. Ngoài hưởng lương và phu cấp, còn thêm quà cáp từ cán bộ Bạn. Và có thể xin xở Bạn hàng viện trợ của các nước cho dân Campuchia, nhiều nhất là của Liên Xô...

Lưu ý:
Thông tin sơ lược có tính tham khảo, vì từ góc nhìn của cá nhân được biết. Thực thế thì nơi này có thể khác nơi nọ. Còn tuỳ đầu mối mặt trận, cấp độ đơn vị, đội ngũ hoạt động trải rộng trên những địa bàn khác nhau nên không hẳn như trên.

TH

Tìm kiếm Blog này