01/05/2015 13:00 GMT+7
Cuối tháng 3/1975, sau khi Đà Nẵng được giải phóng, đoàn cán bộ kỹ thuật của Bộ Quốc phòng do Đại tá Hoàng Đình Phu Viện trưởng Viện KTQS dẫn đầu lên đường vào nam tiếp quản các cơ sở khoa học của chính quyền Thiệu.
Sáng ngày 30/4, bám sát các đơn vị bộ binh, đoàn hướng về Sài Gòn thực hiện nhiệm vụ tiếp quản hệ thống máy tính mà quân đội Sài Gòn đang sử dụng. Chiều 2/5, họ đã phát hiện được dàn máy IBM 360/20 của Trung tâm Điện toán ở 63 đường Gia Long.
Trung tâm này được lập từ tháng 7.1973 nhằm điện toán hoá lương bổng và phụ cấp cho toàn bộ quân đội của Thiệu, theo dõi ngân sách quốc phòng,... Để khôi phục lại hoạt động của máy, các anh đã cho gọi 5 sĩ quan và nhân viên cũ đến cộng tác, đồng thời yêu cầu họ dẫn đến các nơi đặt máy tính ở Sài Gòn.
|  | 
| Dàn máy IBM 360 40 của Bộ TTM quân đội Sài Gòn | 
Trước đó, sáng 30/4, Tiểu đội biệt động của Nguyễn Minh Hòa thuộc Phân đội Z8 Lữ đoàn biệt động 316 được lệnh chiếm Trung tâm này. Lúc các anh vào đến nơi thì có một người khoảng 40 tuổi mặc thường phục, nói rành rọt, như đang báo cáo với thượng cấp: "Tôi là Chu Văn Hồ, đại tá, Chỉ huy trưởng Trung tâm Khai thác an bài điện tử Bộ Tổng tham mưu, đang chờ lực lượng cách mạng để bàn giao".
Rồi ông ta dẫn quân cách mạng đến từng phòng lắp điều hòa mát rượi, có những máy giàn máy đồ sộ, đèn xanh đỏ không ngừng nhấp nháy, giới thiệu:
"Đây là hệ thống máy tính IBM360/40 do hãng IBM Hoa Kỳ chế tạo, hiện đại nhất Đông Nam Á, nó quản lý toàn bộ nhân sự, khí tài, quân dụng, quân trang của 1,2 triệu sĩ quan và binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mong phía Giải phóng giữ gìn và bảo vệ để sử dụng lâu dài".
|  | 
| Nhóm biệt động chiếm giữ Trung tâm Điện toán Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa sáng 30/4/1975. | 
Dù không hiểu biết về giá trị của cỗ máy, nhưng đơn vị biệt động 
vẫn ra lệnh canh phòng cẩn mật, còn đại tá Hồ được cho về, khi cần sẽ 
triệu tập. Sau này  mới biết Trung tướng Đồng Văn Khuyên, quyền Tổng 
tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn đã ra lệnh cho Đại tá Chu Văn Hồ đặt 
mìn phá hủy Trung tâm Điện toán, nhưng ông đã chống lệnh. Ông và người 
con trai đã nằm suốt đêm 29/4 để chờ quân giải phóng vào bàn giao.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lãm, khi đó là Đại úy kể: Khi được gọi, ông 
Hồ có mặt và  tỏ ta vui mừng khi thấy các cỗ máy vẫn an toàn, máy lạnh 
không bị tắt "để tiết kiệm điện". Về sau, ông Hồ tâm sự:  sở dĩ ông 
không di tản bởi hệ thống quản lý quân số này là thành quả cả đời ông. 
Ông muốn giao nó lại đầy đủ cho cách mạng, bởi ông sợ khi không trực 
tiếp quản lý nó sẽ không nguyên vẹn. Được sự chỉ dẫn của Chu Văn Hồ, 
đoàn cán bộ kỹ thuật  tiếp cận Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận của quân đội
 Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất, nơi sử dụng máy IBM 360/50 là máy tính 
lớn nhất Sài Gòn lúc ấy. Tiến sĩ Nguyễn Trọng, khi đó là thiếu úy của Trung Tâm Toán – Máy Tính, Bộ Quốc Phòng, kể rằng: Máy tính IBM360/ 50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình.
Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng. Đây là cỗ máy tính có năng lực lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ. Nói rộng ra thì ở miền Nam vào thời điểm đó có một trình độ ứng dụng tin học cao hơn tất cả các quốc gia khác trong khu vực và máy IBM360/50 cũng là máy có năng lực lớn nhất khu vực. Tuy vậy, nó dùng hệ điều hành OS/360, khá giống với máy tính Minsk của Liên Xô và sử dụng ngôn ngữ lập trình Cobol. Chúng tôi đã tiếp xúc tài liệu về ngôn ngữ này qua bản tiếng Nga nên mọi người nắm bắt khá dễ dàng. Lại được ông Hồ và nhân viên cũ hướng dẫn, nên chỉ sau khoảng một tháng đã cho nó đã hoạt động bình thường.
Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp số liệu nhân lực, danh mục hàng hóa còn lại trong các kho của quân đội Sài Gòn cho các cơ quan quản lý. Những cỗ máy này còn tiếp tục sử dụng đến những năm 1980, phục vụ cho tính toán các công trình kinh tế như dầu khí, thủy điện Trị An, quản lý đảng viên, tuyển sinh đại học,...
Nhờ có sự tiếp nhận kịp thời của các cán bộ kỹ thuật nên chúng ta đã vận hành hiệu quả các máy tính hiện đại ở Sài Gòn. Những người tham gia vào công tác đó, sau trở thành các chuyên gia gạo cội của làng CNTT Việt Nam như Trần Thế Nam, Lê Tự Thành, Nguyễn Trọng, Nguyễn Quang Bắc, Hoàng Minh Châu , Ngô Vi Đồng, Lê Trường Tùng...
Minh Thư
Nguồn: Vietnamnet
____________________
Máy tính điện tử ở miền Nam sau năm 1975 với lời dặn của Giáo Sư Trần Đại Nghĩa
20:42 03/11/2015
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tạp chí CNTT&TT xin giới thiệu bài viết của TS. Nguyễn Trọng kể về những ngày đầu tháng 5/1975, đội ngũ sỹ quan trẻ của Trung tâm Toán – Máy tính quân đội ta tiếp quản và sử dụng hệ thống máy tính điện tử của chế độ ngụy quyền Sài Gòn.
Về các dàn máy tính IBM khá hiện đại thời bấy giờ ở Sài Gòn thì hôm nay còn có gì cần suy nghĩ nữa?
Trong bài báo của Donald Ficher Harisson viết năm 1988 với tựa đề “Computer, Electronic Data, and the Vietnam War” đã viết rằng: Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến có nhiều dữ liệu nhất trong lịch sử quân sự, là cuộc chiến đã được vận hành với sự hỗ trợ tổng lực của công nghệ phân tích dữ liệu điện tử.
Năm
 1965, Nhà Trắng mới chính thức sử dụng máy tính điện tử trong quản lý 
và phân tích dữ liệu chính phủ và dữ liệu quốc phòng thì năm 1968, quân 
đội Mỹ đã làm điều ấy ở chiến tranh Việt Nam, tại Lầu Năm Góc Phương 
Đông, đặt trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất. 
Viết
 những dòng này, tôi nhớ lại một buổi trưa khoảng giữa tháng 8/1975, Bác
 Trần Đại Nghĩa, khi đó là thiếu tướng, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần, 
sau khi vào thăm dàn máy tính IBM – 360/40 đang làm nhiệm vụ khai thác 
các dữ liệu về nhân sự của quân đội Sài Gòn và các dữ liệu mà quân đội 
Sài Gòn gọi là “Tù binh cộng sản”, Bác Nghĩa cùng ngồi bệt xuống đất bên sân bóng bàn ở khu vực ngoài phòng máy trò chuyện với bọn sỹ quan trẻ chúng tôi. 
Hình
 ảnh khu sân của Trung Tâm máy tính IBM 360 – 40 năm 1975, nơi bác Trần 
Đại Nghĩa ngồi trò chuyện với chúng tôi là sân bóng bàn phía sau lùm cây
 mé phải.
Hình
 ảnh dàn máy tính IBM 360 -40 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Sài Gòn, 
chuyên về quản lý nhân sự quân đội Sài Gòn với hơn 1 triệu quân, nơi bác
 Trần Đại Nghĩa ghé thăm vào tháng 8/1975. Ảnh trái là bộ phận CPU với 
bàn phím điều khiển máy, ảnh phải là các tủ băng từ, máy nhập dữ liệu từ
 bìa đục lỗ và máy in (từ trong ra). 
 Sau
 khi báo cáo với bác Nghĩa mọi mặt về tình hình khôi phục và tiếp tục tổ
 chức hoạt động của dàn IBM 360 – 40, tôi báo cáo thêm với Bác rằng quân
 đội Mỹ đã đưa các dàn máy tính vào loại hiện đại nhất thời cuối 1960 
vào tham chiến ở Việt Nam, chỉ chậm hơn vài năm so với Pentagon, thì Bác
 Nghĩa cười và nói: “Một trong các lý do Mỹ thua là vì thế đấy! Hành 
quân theo máy tính, ném bom cũng theo máy tính! Mà hôm nay họ còn đau 
tiếp là vì máy tính đã cho các bạn biết về từng người lính của quân đội 
Sài Gòn”. Dừng một lát Bác nói tiếp: “Nói đùa thôi, chứ các cậu 
phải nghiên cứu xem họ làm những gì và làm thế nào để mau chóng sử dụng 
các dàn máy này vào việc tích lũy và phân tích dữ liệu cho quân đội và 
nhà nước ta. Tới đây nhất định phải là như vậy, chiến tranh hiện đại và 
xây dựng kinh tế rất cần tích lũy và phân tích dữ liệu. Chúng ta chưa 
quen với thông tin và dữ liệu. Chiến thắng họ nhưng chỗ này phải học họ”. 
Trong bài viết “Data Processing Goes to War with IBM's Bachelor Computer Experts”
 của Dan Feltham, tác giả đã nói khá kỹ về một đội quân kỹ thuật của IBM
 gồm khoảng 250 lượt người đã tham gia trong một đội tham chiến ở Việt 
Nam thuộc đội hình của MACV (Bộ Tư
 lệnh hỗ trợ quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, thường đọc là Mắc Vi). 
MACV thực chất là bộ chỉ huy tối cao quân đội Mỹ và đồng minh trong 
chiến tranh xâm lược Việt Nam và toàn Đông Dương. 
Thời
 những năm trước 1970, nói đến máy tính điện tử thì chủ yếu chỉ có IBM ở
 Mỹ và EC ở Liên Xô. Vài nước khác cũng có sản xuất máy tính nhưng chưa 
đáng kể. Bản thân Feltham là một trong số 250 chuyên viên IBM tham chiến
 tại Việt Nam. Họ được điều sang Thái Lan và Việt Nam theo từng nhiệm kỳ
 2 năm. Theo Feltham thì có lẽ tại một thời điểm có nhiều nhất là khoảng
 50 chuyên viên kỹ thuật IBM có mặt tại Việt Nam. Kể
 từ năm 1968, nhóm chuyên viên IBM này chủ yếu làm việc tại Việt Nam và 
rút đi vào cuối tháng 3/1973, đúng 60 ngày sau hiệp định Paris được ký 
kết vào 27/01/1973, quy định việc quân đội Mỹ phải rút khỏi Nam Việt 
Nam. Như vậy là nhóm IBM này có mặt tại chiến trường Việt Nam suốt trong
 thời kỳ của các đại tướng Westmoreland, Abrams, Wayand, lần lượt là các
 tư lệnh của  MACV từ 1967 tới 1973 và sau đó đều là Tham Mưu Trưởng Lục
 Quân Hoa Kỳ (Chief of Staff of the United States Army) - sĩ quan cao cấp nhất trong Lục quân Mỹ. 
Dàn
 máy tính chính mà nhóm IBM sử dụng trong thời kỳ này là IBM 360-50 cùng
 với một số máy tính nhỏ hơn và hàng trăm đầu cuối thu thập dữ liệu 
chiến trường. Dàn máy 360-50 này được kết nối mạng với các trung tâm máy
 tính ở Thái Lan, Honolulu và Lầu Năm Góc. Mọi kế hoạch tác chiến, mọi 
mệnh lệnh từ Bộ Quốc Phòng, mọi kết quả không kích và những kết quả tác 
chiến khác, mọi mệnh lệnh điều động lực lượng và phương tiện vật chất 
trong chiến tranh Việt Nam,… đều được lưu trữ, xử lý tại dàn máy này. 
Báo cáo được máy tính chuyển lên cấp trên và mệnh lệnh thì chuyển xuống 
các đơn vị và cá nhân thực hiện. Thông tin được nhận – truyền trực tiếp 
về các bộ tư lệnh cấp trên và về Tổng Hành Dinh với hệ thống viễn thông 
cực tốt hoạt động 24/7. 
Hãng
 IBM có lẽ là hãng máy tính duy nhất kiếm được khá nhiều tiền trong 
chiến tranh Việt Nam. Theo Feltham thì trong những năm 1968 – 1973, quân
 đội Mỹ đã phải chi cho đội IBM khoảng 70 triệu USD mỗi năm. 
Từ
 tháng 3 năm 1973, dàn máy IBM 360-50 này được bán cho quân đội Sài Gòn 
và trở thành Trung tâm Điện toán Tiếp vận. Trung tâm này quản lý toàn bộ
 cơ sở vật chất kỹ thuật của quân đội Sài Gòn, chủ yếu là Tổng kho Long 
Bình và một số kho lớn khác ở Tây Nguyên và các vùng chiến thuật. 
Vào
 những năm đầu thập kỷ 70, IBM còn thành lập công ty IBM Việt Nam với 
nhiệm vụ chính là cho thuê và bảo trì các dàn máy IBM mà các tổ chức 
khác nhau ở miền Nam kể cả quân đội, cảnh sát, cơ quan Chính Phủ và một 
số doanh nghiệp khác (chủ yếu là ngân hàng) thuê để sử dụng. Với IBM 
Việt Nam này thì người Mỹ làm quản lý, còn các chuyên viên kỹ thuật kể 
cả cứng và mềm chủ yếu là người Việt, vài người Hoa, người Pháp. Có tất 
cả khoảng 15 dàn máy IBM hoạt động tại Sài Gòn vào thời kỳ 5/1975, bao 
gồm chủ yếu là IBM 360 (13 dàn, thời đó gọi là Main Frame, tức các máy 
tính lớn), và vài dàn System 3 (thời đó gọi là các dàn Mini, tức máy 
tính nhỏ). Số các dàn IBM 360 bao gồm:
- 
 2 dàn máy 360-50: Ngoài dàn máy IBM 360-50 nói trên mà quân đội Sài Gòn
 đã mua lại của hãng IBM thì còn một dàn máy IBM 360-50 nữa đặt tại cơ 
quan Phủ Tổng Thống.
- 
 4 dàn IBM 360-40: 01 ở Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Sài Gòn (chuyên về 
quản lý nhân sự), 01 ở Tổng Nha Cảnh Sát, 01 ở cơ quan điện lực và chiếc
 thứ tư ở chính trụ sở công ty IBM, 
-  1 dàn IBM 360-30 đặt tại một cơ quan trong sân bay Tân Sơn Nhất, chuyên thầu các công trình quân sự.
- 
 5 dàn IBM 360-20: 01 ở cơ quan Bộ Quốc Phòng (chuyên về tính lương cho 
quân đội Sài Gòn), 01 ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân, 01 ở hãng rượu bia BGI, 01 ở
 trụ sở ngân hàng và chiếc thứ năm ở cơ quan bưu điện. 
 Với
 13 dàn máy IBM 360 (20, 30, 40, 50) này và một số dàn máy tính IBM loại
 khác thì đội ngũ lập trình viên (ngày đó gọi là thảo chương viên) tại 
Sài Gòn đã khá đông, có thể đã lên đến vài trăm người. Cùng với đội ngũ 
lập trình viên, loại nhân sự cấp cao trong các trung tâm tính toán thì 
còn 3 nhóm nhân viên nữa với số lượng nhiều hơn số lập trình viên. Đó là
 nhóm các operators (đôi khi gọi là các “điều hành viên”), tức những 
nhân viên vận hành máy tính, nhóm các nhân viên chuẩn bị dữ liệu (thường
 gọi là “nhân viên xuyên phiếu”) và nhóm nhân viên chuẩn bị tài liệu cho
 xuyên phiếu viên (thường gọi là các “mã số viên”). Cả 4 nhóm, tức nguồn
 nhân lực làm việc với các dàn máy tính này có lẽ khoảng 3 - 4 ngàn 
người. Vào thời kỳ đó, năng lực tính toán của Sài Gòn phải coi là lớn so
 với miền Bắc và cả với các quốc gia lân cận. 
Ngày
 nay, khi hầu như mọi người đều làm việc với máy tính thì chúng ta khó 
hình dung chỉ một dàn máy, chẳng hạn IBM 360-40 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu 
quân đội Sài Gòn, chuyên về quản trị nhân sự toàn thể quân đội Sài Gòn 
cần đến khoảng 40 thảo chương viên, 30 điều hành viên, khoảng 200 xuyên 
phiếu viên và khoảng 200 mã số viên, tức tổng cộng khoảng 500 người làm 
việc cho hệ thống quản lý nhân sự với dữ liệu trên 1 triệu quân của quân
 đội Sài Gòn thời kỳ đó.  
Sau
 ngày 30/4, sự hợp tác giữa anh chị em làm máy tính miền Bắc và miền Nam
 kể cả dân sự và quân sự phải nói là rất tốt, chung sức cùng nhau tổ 
chức hoạt động trở lại các dàn máy tính ở Sài Gòn để một mặt khai thác 
các thông tin của chế độ cũ và mặt khác phục vụ các nhu cầu tính toán 
cho nhà nước và quân đội ta, khắc phục sức tính toán còn nhỏ của vài dàn
 máy tính ở miền Bắc.  
Hầu
 hết các dàn máy tính phi quân sự ở Sài Gòn đều tiếp tục làm việc với 
nhân lực cơ bản là anh chị em đã làm việc ở đó trước đây, rồi tiếp tục 
được bổ sung bởi các anh chị em làm những công việc tương tự từ miền 
Bắc. Trong số các anh chị em làm máy tính trước năm 1975 tại Sài Gòn có 
thể kể đến các anh Dương Quang Thiện (nguyên giám đốc máy tính IBM 360 –
 20 thuộc hãng BGI), anh Lê Bá Quang (nguyên cán bộ của máy tính ngân 
hàng), anh Đỗ Văn Hai (nguyên đại úy, trưởng phòng thảo chương thuộc dàn
 máy IBM 360 – 40 Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Sài Gòn), và nhiều anh chị 
em khác đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự khôi phục hoạt động của các 
dàn máy tính IBM và tham gia vào việc phát triển các công nghệ và ứng 
dụng hệ thống máy vi tính trong nhiều năm sau này tại TP HCM.
Các
 dàn máy thuộc quân đội, cảnh sát và chính quyền Sài Gòn thì các cán bộ 
máy tính của quân đội, công an, một số cơ quan Chính Phủ ta cũng rất 
nhanh chóng làm chủ và tổ chức cho hoạt động lại chỉ vài ngày sau ngày 
30/4/1975. Với các dàn máy này thì thường ta mời lại một số chuyên viên 
cũ cùng làm việc với các hệ thống dữ liệu của chính quyền Sài Gòn.  
Một
 trong những vấn đề nan giải là việc bảo trì, sửa chữa các dàn máy thì 
các chuyên viên kỹ thuật còn lại của hãng IBM, như các anh Sô, anh Hòa, 
anh Lý,… đã một mặt tiếp tục lo việc này rất trách nhiệm, mặt khác huấn 
luyện và đào tạo nhiều kỹ sư của ta làm chủ các hệ thống kỹ thuật của 
IBM. Có vài người tiếp tục đi sâu vào công nghệ IBM và trở thành những 
chuyên gia kỹ thuật cấp cao của công ty IBM hoạt động tại Việt Nam nhiều
 năm sau này.  
Một
 nhận xét quan trọng là toàn bộ các dàn máy tính ở Sài Gòn khi đó chỉ 
tập trung giải quyết các bài toán quản lý, phân tích dữ liệu. Hầu như 
không có các bài toán về khoa học – kỹ thuật được giải quyết trên các 
dàn máy tính này. Tuy nhiên đây lại là một đặc điểm mang lại cho chúng 
ta nhiều tri thức rất bổ ích. 
Hai đỉnh cao của thời đại máy tính cho đến các năm cuối của thế kỷ trước là: 
-
 Đỉnh cao thứ nhất:  Computer đã có thể thực hiện mọi tính toán cho tất 
cả các bài toán khoa học – kỹ thuật từ xây dựng nhà cửa, đến chế tạo bom
 nguyên tử, từ thiết kế ô tô đến các con tàu vũ trụ,...  Đỉnh cao này 
thì con người đã có thể kết luận ngay sau vài chục năm xuất hiện máy 
tính điện tử, tức kết luận này đã có được vào những năm 60 thế kỷ trước. 
-
 Đỉnh cao thứ hai: Computer đã có thể triển khai mọi hệ thống quản trị 
từ nhỏ gọn như QUẢN LÝ NHÂN SỰ cho một cơ quan đến khổng lồ như QUẢN LÝ 
TÀI CHÍNH cho một đại tổ chức như WORLD BANK. Kết luận này dần dần được 
lộ diện từ thập kỷ 70 thế kỷ trước và đến những năm 80 - 90 thì đã được 
khẳng định.  
Ở
 góc độ ứng dụng thì để leo lên mức nào đó ở đỉnh cao thứ 2, tức ứng 
dụng hiệu quả CNTT cho một yêu cầu quản lý nào đó khó hơn rất nhiều so 
với lập trình cho việc giải một bài toán về khoa học kỹ thuật đã có mô 
hình toán học. Bác Trần Đại Nghĩa đã dặn rằng, ta thắng Mỹ và chính 
quyền tay sai nhưng trong lĩnh vực này cần học họ. Chúng ta đều biết 
rằng về quản lý thì Mỹ là quốc gia có trình độ quản lý hàng đầu thế 
giới. Chính quyền và quân đội Sài Gòn đã buộc phải tổ chức các hệ thống 
quản lý theo các công nghệ quản lý của Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu các 
hệ thống quản lý sử dụng máy tính điện tử trong các đơn vị kinh tế cũng 
như trong quân đội Sài Gòn chính là nghiên cứu phương pháp tổ chức ứng 
dụng CNTT trong quản lý của Mỹ vào những năm 70 thế kỷ trước. Có những 
nguyên lý, phương pháp, giải thuật trong tổ chức các hệ thống thông tin 
quy mô lớn cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị vì đó là những nguyên 
tắc quản trị chứ không chỉ là vấn đề công nghệ tính toán. Theo nhận xét 
của chúng tôi thì đến nay, các chương trình giảng dạy về sử dụng CNTT 
trong quản lý của chúng ta ở bậc đại học cũng vẫn còn thiếu rất nhiều về
 công nghệ quản lý mà chỉ chú trọng nhiều về CNTT. Một thí dụ rất đơn 
giản là khi tổ chức một hệ thống quản lý nhân sự cỡ vài triệu đối tượng,
 phân tán trên một vùng địa lý rộng lớn, chẳng hạn một tỉnh hoặc lớn hơn
 là trong cả nước thì rất nhiều câu hỏi được đặt ra như: 
·        Những sai lệch giữa thực tế và dữ liệu trên máy tính sẽ là những gì? 
·        Vì sao lại có thể phát sinh những sai lệch (tất yếu!) đó? 
·        Làm sao phát hiện những sai lệch đó? 
·        Khả năng khắc phục có thể ở mức độ nào và khắc phục ra sao? 
v.v…  
Các câu trả lời không nằm trong công nghệ tính toán mà thuộc các công nghệ quản trị.  
Khi
 nghiên cứu tài liệu phân tích về hệ thống quản lý nhân sự trên một 
triệu người của quân đội Sài Gòn, chúng tôi đã được thấy họ giải đáp 
toàn bộ các vấn đề đó. Cho đến nay, chúng ta chưa bao giờ có những tài 
liệu như vậy dù rằng nhiều người đã và đang nói về những hệ thống còn 
lớn hơn gấp bội so với hệ thống quản lý nhân sự của quân đội Sài Gòn 
trong những năm chiến tranh. Thực tế tiếp cận với một số đề án tổ chức 
các hệ thống quản lý kiểu quản lý con người ở quy mô khá lớn tại TP. HCM
 và vài địa phương lân cận cho thấy những câu hỏi như vừa nêu trên không
 bao giờ được đặt ra. Kết quả là các hệ thống đó chưa bao giờ được vận 
hành tốt dù chi phí không nhỏ.  
Có
 thể nói, lực lượng làm máy tính còn lại ở miền Nam sau giải phóng cùng 
với lực lượng làm máy tính ở miền Bắc đã nhanh chóng làm chủ vững chắc 
và cho các dàn máy khá lớn vào thời đó trở lại hoạt động, vượt qua muôn 
vàn khó khăn của thời kỳ cấm vận, duy trì một năng lực tính toán khá 
mạnh cho cả nước so với trong khu vực trong hàng chục năm sau giải 
phóng. Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 thì lần lượt các dàn máy 
IBM ở Sài Gòn ngưng hoạt động. Thay thế vào đó là các máy vi tính, các 
máy tính cá nhân. Chúng có giá trị là làm cho hàng trăm ngàn người, rồi 
hàng triệu người và nay thì hầu như mọi người quen với khái niệm máy 
tính, thông tin, dữ liệu, Internet. Hiện tượng tích cực này giống như sự
 bùng nổ của kinh tế thị trường sau đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn
 một khoảng cách tri thức trong việc tổ chức các hệ thống thông tin quy 
mô lớn. 
 Có
 thể làm một so sánh tuy hơi khập khiễng để phần nào thấy cái thiếu về 
tri thức tổ chức các hệ thống thông tin quy mô lớn mà chúng ta đang phải
 đối mặt. Đó là chúng ta đã có hàng triệu doanh nghiệp, hàng chục triệu 
người làm kinh doanh, quen với việc mua, bán, quen với đồng tiền, với 
lời, lỗ... Nhưng chúng ta còn rất ít các doanh nghiệp lớn, rất ít các 
doanh nghiệp có sản phẩm với thị trường lớn dù chỉ là trong nước. Nhìn 
vào việc ứng dụng CNTT trong quản lý thì hầu khắp mọi nơi có sử dụng 
CNTT nhưng tổ chức những hệ thống thông tin lớn, đặc biệt là những hệ 
thống quản trị xã hội cỡ lớn như dân cư (với rất nhiều thể loại khác 
nhau), cơ sở vật chất các loại,… thì việc này cũng khó như việc xây nên 
những đại doanh nghiệp, dù rằng buôn bán thì hầu như ai cũng làm được ở 
mức độ nào đó. Ta có thể thấy có một nguyên nhân chung của hiện tượng 
không ít những đại doanh nghiệp, nhất là đại doanh nghiệp nhà nước đã 
sụp đổ tương tự sự sụp đổ của không ít các hệ thống thông tin quy mô 
lớn. Đó là trình độ tổ chức quản trị còn chưa tới mức cần thiết.
 Dường
 như chúng ta chưa hiểu hết về ứng dụng CNTT trong quản lý và do đó mà 
cũng chưa làm hết điều mà Bác Trần Đại Nghĩa đã dặn dò đám sỹ quan trẻ 
bốn mươi năm trước mà bây giờ họ đều đã ở tuổi 70. Một trong những biểu 
hiện của “hiện đại hóa” chính là những hệ thống thông tin lớn về kinh tế, về xã hội được tổ chức nghiêm cẩn, một mục tiêu còn khá xa với nước ta./.
TS. Nguyễn Trọng
Nguồn: Tapchibcvt