01/05/2015 13:00 GMT+7
Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến đầu tiên Mỹ xử lý dữ liệu bằng máy
tính. Đầu thập niên 1970, quân đội Mỹ tại Việt Nam đã tự hào có trong
tay những cỗ máy tính mạnh nhất thế giới, được vận hành bởi 250 nhân
viên của IBM và đội ngũ sĩ quan của quân đội Mỹ và Sài Gòn.
Cuối tháng 3/1975, sau khi Đà Nẵng được giải phóng, đoàn cán bộ kỹ thuật của Bộ Quốc phòng do Đại tá Hoàng Đình Phu Viện trưởng Viện KTQS dẫn đầu lên đường vào nam tiếp quản các cơ sở khoa học của chính quyền Thiệu.
Sáng ngày 30/4, bám sát các đơn vị bộ binh, đoàn hướng về Sài Gòn thực hiện nhiệm vụ tiếp quản hệ thống máy tính mà quân đội Sài Gòn đang sử dụng. Chiều 2/5, họ đã phát hiện được dàn máy IBM 360/20 của Trung tâm Điện toán ở 63 đường Gia Long.
Trung tâm này được lập từ tháng 7.1973 nhằm điện toán hoá lương bổng và phụ cấp cho toàn bộ quân đội của Thiệu, theo dõi ngân sách quốc phòng,... Để khôi phục lại hoạt động của máy, các anh đã cho gọi 5 sĩ quan và nhân viên cũ đến cộng tác, đồng thời yêu cầu họ dẫn đến các nơi đặt máy tính ở Sài Gòn.
Dưới sự chỉ dẫn của các nhân viên máy tính chế độ cũ, đoàn cán bộ kỹ
thuật đã tiếp cận Trung Tâm Điện Toán thuộc Bộ Tổng tham mưu của Quân
đội Việt Nam cộng hòa. Tại đây, hãng IBM lắp đặt máy tính IBM 360/40,
đảm trách thống kê, quản lý quân số, thiết lập danh sách và lệnh gọi
nhập ngũ.
Trước đó, sáng 30/4, Tiểu đội biệt động của Nguyễn Minh Hòa thuộc Phân đội Z8 Lữ đoàn biệt động 316 được lệnh chiếm Trung tâm này. Lúc các anh vào đến nơi thì có một người khoảng 40 tuổi mặc thường phục, nói rành rọt, như đang báo cáo với thượng cấp: "Tôi là Chu Văn Hồ, đại tá, Chỉ huy trưởng Trung tâm Khai thác an bài điện tử Bộ Tổng tham mưu, đang chờ lực lượng cách mạng để bàn giao".
Rồi ông ta dẫn quân cách mạng đến từng phòng lắp điều hòa mát rượi, có những máy giàn máy đồ sộ, đèn xanh đỏ không ngừng nhấp nháy, giới thiệu:
"Đây là hệ thống máy tính IBM360/40 do hãng IBM Hoa Kỳ chế tạo, hiện đại nhất Đông Nam Á, nó quản lý toàn bộ nhân sự, khí tài, quân dụng, quân trang của 1,2 triệu sĩ quan và binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mong phía Giải phóng giữ gìn và bảo vệ để sử dụng lâu dài".
Tiến sĩ Nguyễn Trọng, khi đó là thiếu úy của Trung Tâm Toán – Máy Tính, Bộ Quốc Phòng, kể rằng: Máy tính IBM360/ 50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình.
Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng. Đây là cỗ máy tính có năng lực lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ. Nói rộng ra thì ở miền Nam vào thời điểm đó có một trình độ ứng dụng tin học cao hơn tất cả các quốc gia khác trong khu vực và máy IBM360/50 cũng là máy có năng lực lớn nhất khu vực. Tuy vậy, nó dùng hệ điều hành OS/360, khá giống với máy tính Minsk của Liên Xô và sử dụng ngôn ngữ lập trình Cobol. Chúng tôi đã tiếp xúc tài liệu về ngôn ngữ này qua bản tiếng Nga nên mọi người nắm bắt khá dễ dàng. Lại được ông Hồ và nhân viên cũ hướng dẫn, nên chỉ sau khoảng một tháng đã cho nó đã hoạt động bình thường.
Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp số liệu nhân lực, danh mục hàng hóa còn lại trong các kho của quân đội Sài Gòn cho các cơ quan quản lý. Những cỗ máy này còn tiếp tục sử dụng đến những năm 1980, phục vụ cho tính toán các công trình kinh tế như dầu khí, thủy điện Trị An, quản lý đảng viên, tuyển sinh đại học,...
Nhờ có sự tiếp nhận kịp thời của các cán bộ kỹ thuật nên chúng ta đã vận hành hiệu quả các máy tính hiện đại ở Sài Gòn. Những người tham gia vào công tác đó, sau trở thành các chuyên gia gạo cội của làng CNTT Việt Nam như Trần Thế Nam, Lê Tự Thành, Nguyễn Trọng, Nguyễn Quang Bắc, Hoàng Minh Châu , Ngô Vi Đồng, Lê Trường Tùng...
Minh Thư
Nguồn: Vietnamnet
____________________
Cuối tháng 3/1975, sau khi Đà Nẵng được giải phóng, đoàn cán bộ kỹ thuật của Bộ Quốc phòng do Đại tá Hoàng Đình Phu Viện trưởng Viện KTQS dẫn đầu lên đường vào nam tiếp quản các cơ sở khoa học của chính quyền Thiệu.
Sáng ngày 30/4, bám sát các đơn vị bộ binh, đoàn hướng về Sài Gòn thực hiện nhiệm vụ tiếp quản hệ thống máy tính mà quân đội Sài Gòn đang sử dụng. Chiều 2/5, họ đã phát hiện được dàn máy IBM 360/20 của Trung tâm Điện toán ở 63 đường Gia Long.
Trung tâm này được lập từ tháng 7.1973 nhằm điện toán hoá lương bổng và phụ cấp cho toàn bộ quân đội của Thiệu, theo dõi ngân sách quốc phòng,... Để khôi phục lại hoạt động của máy, các anh đã cho gọi 5 sĩ quan và nhân viên cũ đến cộng tác, đồng thời yêu cầu họ dẫn đến các nơi đặt máy tính ở Sài Gòn.
Dàn máy IBM 360 40 của Bộ TTM quân đội Sài Gòn |
Trước đó, sáng 30/4, Tiểu đội biệt động của Nguyễn Minh Hòa thuộc Phân đội Z8 Lữ đoàn biệt động 316 được lệnh chiếm Trung tâm này. Lúc các anh vào đến nơi thì có một người khoảng 40 tuổi mặc thường phục, nói rành rọt, như đang báo cáo với thượng cấp: "Tôi là Chu Văn Hồ, đại tá, Chỉ huy trưởng Trung tâm Khai thác an bài điện tử Bộ Tổng tham mưu, đang chờ lực lượng cách mạng để bàn giao".
Rồi ông ta dẫn quân cách mạng đến từng phòng lắp điều hòa mát rượi, có những máy giàn máy đồ sộ, đèn xanh đỏ không ngừng nhấp nháy, giới thiệu:
"Đây là hệ thống máy tính IBM360/40 do hãng IBM Hoa Kỳ chế tạo, hiện đại nhất Đông Nam Á, nó quản lý toàn bộ nhân sự, khí tài, quân dụng, quân trang của 1,2 triệu sĩ quan và binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mong phía Giải phóng giữ gìn và bảo vệ để sử dụng lâu dài".
|
Nhóm biệt động chiếm giữ Trung tâm Điện toán Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa sáng 30/4/1975. |
Dù không hiểu biết về giá trị của cỗ máy, nhưng đơn vị biệt động
vẫn ra lệnh canh phòng cẩn mật, còn đại tá Hồ được cho về, khi cần sẽ
triệu tập. Sau này mới biết Trung tướng Đồng Văn Khuyên, quyền Tổng
tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn đã ra lệnh cho Đại tá Chu Văn Hồ đặt
mìn phá hủy Trung tâm Điện toán, nhưng ông đã chống lệnh. Ông và người
con trai đã nằm suốt đêm 29/4 để chờ quân giải phóng vào bàn giao.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lãm, khi đó là Đại úy kể: Khi được gọi, ông
Hồ có mặt và tỏ ta vui mừng khi thấy các cỗ máy vẫn an toàn, máy lạnh
không bị tắt "để tiết kiệm điện". Về sau, ông Hồ tâm sự: sở dĩ ông
không di tản bởi hệ thống quản lý quân số này là thành quả cả đời ông.
Ông muốn giao nó lại đầy đủ cho cách mạng, bởi ông sợ khi không trực
tiếp quản lý nó sẽ không nguyên vẹn. Được sự chỉ dẫn của Chu Văn Hồ,
đoàn cán bộ kỹ thuật tiếp cận Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận của quân đội
Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất, nơi sử dụng máy IBM 360/50 là máy tính
lớn nhất Sài Gòn lúc ấy. Tiến sĩ Nguyễn Trọng, khi đó là thiếu úy của Trung Tâm Toán – Máy Tính, Bộ Quốc Phòng, kể rằng: Máy tính IBM360/ 50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình.
Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng. Đây là cỗ máy tính có năng lực lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ. Nói rộng ra thì ở miền Nam vào thời điểm đó có một trình độ ứng dụng tin học cao hơn tất cả các quốc gia khác trong khu vực và máy IBM360/50 cũng là máy có năng lực lớn nhất khu vực. Tuy vậy, nó dùng hệ điều hành OS/360, khá giống với máy tính Minsk của Liên Xô và sử dụng ngôn ngữ lập trình Cobol. Chúng tôi đã tiếp xúc tài liệu về ngôn ngữ này qua bản tiếng Nga nên mọi người nắm bắt khá dễ dàng. Lại được ông Hồ và nhân viên cũ hướng dẫn, nên chỉ sau khoảng một tháng đã cho nó đã hoạt động bình thường.
Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp số liệu nhân lực, danh mục hàng hóa còn lại trong các kho của quân đội Sài Gòn cho các cơ quan quản lý. Những cỗ máy này còn tiếp tục sử dụng đến những năm 1980, phục vụ cho tính toán các công trình kinh tế như dầu khí, thủy điện Trị An, quản lý đảng viên, tuyển sinh đại học,...
Nhờ có sự tiếp nhận kịp thời của các cán bộ kỹ thuật nên chúng ta đã vận hành hiệu quả các máy tính hiện đại ở Sài Gòn. Những người tham gia vào công tác đó, sau trở thành các chuyên gia gạo cội của làng CNTT Việt Nam như Trần Thế Nam, Lê Tự Thành, Nguyễn Trọng, Nguyễn Quang Bắc, Hoàng Minh Châu , Ngô Vi Đồng, Lê Trường Tùng...
Minh Thư
Nguồn: Vietnamnet
____________________
Máy tính điện tử ở miền Nam sau năm 1975 với lời dặn của Giáo Sư Trần Đại Nghĩa
20:42 03/11/2015
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tạp chí CNTT&TT xin giới thiệu bài viết của TS. Nguyễn Trọng kể về những ngày đầu tháng 5/1975, đội ngũ sỹ quan trẻ của Trung tâm Toán – Máy tính quân đội ta tiếp quản và sử dụng hệ thống máy tính điện tử của chế độ ngụy quyền Sài Gòn.
Về các dàn máy tính IBM khá hiện đại thời bấy giờ ở Sài Gòn thì hôm nay còn có gì cần suy nghĩ nữa?
Trong bài báo của Donald Ficher Harisson viết năm 1988 với tựa đề “Computer, Electronic Data, and the Vietnam War” đã viết rằng: Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến có nhiều dữ liệu nhất trong lịch sử quân sự, là cuộc chiến đã được vận hành với sự hỗ trợ tổng lực của công nghệ phân tích dữ liệu điện tử.
Năm
1965, Nhà Trắng mới chính thức sử dụng máy tính điện tử trong quản lý
và phân tích dữ liệu chính phủ và dữ liệu quốc phòng thì năm 1968, quân
đội Mỹ đã làm điều ấy ở chiến tranh Việt Nam, tại Lầu Năm Góc Phương
Đông, đặt trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất.
Viết
những dòng này, tôi nhớ lại một buổi trưa khoảng giữa tháng 8/1975, Bác
Trần Đại Nghĩa, khi đó là thiếu tướng, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần,
sau khi vào thăm dàn máy tính IBM – 360/40 đang làm nhiệm vụ khai thác
các dữ liệu về nhân sự của quân đội Sài Gòn và các dữ liệu mà quân đội
Sài Gòn gọi là “Tù binh cộng sản”, Bác Nghĩa cùng ngồi bệt xuống đất bên sân bóng bàn ở khu vực ngoài phòng máy trò chuyện với bọn sỹ quan trẻ chúng tôi.
Hình
ảnh khu sân của Trung Tâm máy tính IBM 360 – 40 năm 1975, nơi bác Trần
Đại Nghĩa ngồi trò chuyện với chúng tôi là sân bóng bàn phía sau lùm cây
mé phải.
Hình
ảnh dàn máy tính IBM 360 -40 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Sài Gòn,
chuyên về quản lý nhân sự quân đội Sài Gòn với hơn 1 triệu quân, nơi bác
Trần Đại Nghĩa ghé thăm vào tháng 8/1975. Ảnh trái là bộ phận CPU với
bàn phím điều khiển máy, ảnh phải là các tủ băng từ, máy nhập dữ liệu từ
bìa đục lỗ và máy in (từ trong ra).
Sau
khi báo cáo với bác Nghĩa mọi mặt về tình hình khôi phục và tiếp tục tổ
chức hoạt động của dàn IBM 360 – 40, tôi báo cáo thêm với Bác rằng quân
đội Mỹ đã đưa các dàn máy tính vào loại hiện đại nhất thời cuối 1960
vào tham chiến ở Việt Nam, chỉ chậm hơn vài năm so với Pentagon, thì Bác
Nghĩa cười và nói: “Một trong các lý do Mỹ thua là vì thế đấy! Hành
quân theo máy tính, ném bom cũng theo máy tính! Mà hôm nay họ còn đau
tiếp là vì máy tính đã cho các bạn biết về từng người lính của quân đội
Sài Gòn”. Dừng một lát Bác nói tiếp: “Nói đùa thôi, chứ các cậu
phải nghiên cứu xem họ làm những gì và làm thế nào để mau chóng sử dụng
các dàn máy này vào việc tích lũy và phân tích dữ liệu cho quân đội và
nhà nước ta. Tới đây nhất định phải là như vậy, chiến tranh hiện đại và
xây dựng kinh tế rất cần tích lũy và phân tích dữ liệu. Chúng ta chưa
quen với thông tin và dữ liệu. Chiến thắng họ nhưng chỗ này phải học họ”.
Trong bài viết “Data Processing Goes to War with IBM's Bachelor Computer Experts”
của Dan Feltham, tác giả đã nói khá kỹ về một đội quân kỹ thuật của IBM
gồm khoảng 250 lượt người đã tham gia trong một đội tham chiến ở Việt
Nam thuộc đội hình của MACV (Bộ Tư
lệnh hỗ trợ quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, thường đọc là Mắc Vi).
MACV thực chất là bộ chỉ huy tối cao quân đội Mỹ và đồng minh trong
chiến tranh xâm lược Việt Nam và toàn Đông Dương.
Thời
những năm trước 1970, nói đến máy tính điện tử thì chủ yếu chỉ có IBM ở
Mỹ và EC ở Liên Xô. Vài nước khác cũng có sản xuất máy tính nhưng chưa
đáng kể. Bản thân Feltham là một trong số 250 chuyên viên IBM tham chiến
tại Việt Nam. Họ được điều sang Thái Lan và Việt Nam theo từng nhiệm kỳ
2 năm. Theo Feltham thì có lẽ tại một thời điểm có nhiều nhất là khoảng
50 chuyên viên kỹ thuật IBM có mặt tại Việt Nam. Kể
từ năm 1968, nhóm chuyên viên IBM này chủ yếu làm việc tại Việt Nam và
rút đi vào cuối tháng 3/1973, đúng 60 ngày sau hiệp định Paris được ký
kết vào 27/01/1973, quy định việc quân đội Mỹ phải rút khỏi Nam Việt
Nam. Như vậy là nhóm IBM này có mặt tại chiến trường Việt Nam suốt trong
thời kỳ của các đại tướng Westmoreland, Abrams, Wayand, lần lượt là các
tư lệnh của MACV từ 1967 tới 1973 và sau đó đều là Tham Mưu Trưởng Lục
Quân Hoa Kỳ (Chief of Staff of the United States Army) - sĩ quan cao cấp nhất trong Lục quân Mỹ.
Dàn
máy tính chính mà nhóm IBM sử dụng trong thời kỳ này là IBM 360-50 cùng
với một số máy tính nhỏ hơn và hàng trăm đầu cuối thu thập dữ liệu
chiến trường. Dàn máy 360-50 này được kết nối mạng với các trung tâm máy
tính ở Thái Lan, Honolulu và Lầu Năm Góc. Mọi kế hoạch tác chiến, mọi
mệnh lệnh từ Bộ Quốc Phòng, mọi kết quả không kích và những kết quả tác
chiến khác, mọi mệnh lệnh điều động lực lượng và phương tiện vật chất
trong chiến tranh Việt Nam,… đều được lưu trữ, xử lý tại dàn máy này.
Báo cáo được máy tính chuyển lên cấp trên và mệnh lệnh thì chuyển xuống
các đơn vị và cá nhân thực hiện. Thông tin được nhận – truyền trực tiếp
về các bộ tư lệnh cấp trên và về Tổng Hành Dinh với hệ thống viễn thông
cực tốt hoạt động 24/7.
Hãng
IBM có lẽ là hãng máy tính duy nhất kiếm được khá nhiều tiền trong
chiến tranh Việt Nam. Theo Feltham thì trong những năm 1968 – 1973, quân
đội Mỹ đã phải chi cho đội IBM khoảng 70 triệu USD mỗi năm.
Từ
tháng 3 năm 1973, dàn máy IBM 360-50 này được bán cho quân đội Sài Gòn
và trở thành Trung tâm Điện toán Tiếp vận. Trung tâm này quản lý toàn bộ
cơ sở vật chất kỹ thuật của quân đội Sài Gòn, chủ yếu là Tổng kho Long
Bình và một số kho lớn khác ở Tây Nguyên và các vùng chiến thuật.
Vào
những năm đầu thập kỷ 70, IBM còn thành lập công ty IBM Việt Nam với
nhiệm vụ chính là cho thuê và bảo trì các dàn máy IBM mà các tổ chức
khác nhau ở miền Nam kể cả quân đội, cảnh sát, cơ quan Chính Phủ và một
số doanh nghiệp khác (chủ yếu là ngân hàng) thuê để sử dụng. Với IBM
Việt Nam này thì người Mỹ làm quản lý, còn các chuyên viên kỹ thuật kể
cả cứng và mềm chủ yếu là người Việt, vài người Hoa, người Pháp. Có tất
cả khoảng 15 dàn máy IBM hoạt động tại Sài Gòn vào thời kỳ 5/1975, bao
gồm chủ yếu là IBM 360 (13 dàn, thời đó gọi là Main Frame, tức các máy
tính lớn), và vài dàn System 3 (thời đó gọi là các dàn Mini, tức máy
tính nhỏ). Số các dàn IBM 360 bao gồm:
-
2 dàn máy 360-50: Ngoài dàn máy IBM 360-50 nói trên mà quân đội Sài Gòn
đã mua lại của hãng IBM thì còn một dàn máy IBM 360-50 nữa đặt tại cơ
quan Phủ Tổng Thống.
-
4 dàn IBM 360-40: 01 ở Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Sài Gòn (chuyên về
quản lý nhân sự), 01 ở Tổng Nha Cảnh Sát, 01 ở cơ quan điện lực và chiếc
thứ tư ở chính trụ sở công ty IBM,
- 1 dàn IBM 360-30 đặt tại một cơ quan trong sân bay Tân Sơn Nhất, chuyên thầu các công trình quân sự.
-
5 dàn IBM 360-20: 01 ở cơ quan Bộ Quốc Phòng (chuyên về tính lương cho
quân đội Sài Gòn), 01 ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân, 01 ở hãng rượu bia BGI, 01 ở
trụ sở ngân hàng và chiếc thứ năm ở cơ quan bưu điện.
Với
13 dàn máy IBM 360 (20, 30, 40, 50) này và một số dàn máy tính IBM loại
khác thì đội ngũ lập trình viên (ngày đó gọi là thảo chương viên) tại
Sài Gòn đã khá đông, có thể đã lên đến vài trăm người. Cùng với đội ngũ
lập trình viên, loại nhân sự cấp cao trong các trung tâm tính toán thì
còn 3 nhóm nhân viên nữa với số lượng nhiều hơn số lập trình viên. Đó là
nhóm các operators (đôi khi gọi là các “điều hành viên”), tức những
nhân viên vận hành máy tính, nhóm các nhân viên chuẩn bị dữ liệu (thường
gọi là “nhân viên xuyên phiếu”) và nhóm nhân viên chuẩn bị tài liệu cho
xuyên phiếu viên (thường gọi là các “mã số viên”). Cả 4 nhóm, tức nguồn
nhân lực làm việc với các dàn máy tính này có lẽ khoảng 3 - 4 ngàn
người. Vào thời kỳ đó, năng lực tính toán của Sài Gòn phải coi là lớn so
với miền Bắc và cả với các quốc gia lân cận.
Ngày
nay, khi hầu như mọi người đều làm việc với máy tính thì chúng ta khó
hình dung chỉ một dàn máy, chẳng hạn IBM 360-40 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu
quân đội Sài Gòn, chuyên về quản trị nhân sự toàn thể quân đội Sài Gòn
cần đến khoảng 40 thảo chương viên, 30 điều hành viên, khoảng 200 xuyên
phiếu viên và khoảng 200 mã số viên, tức tổng cộng khoảng 500 người làm
việc cho hệ thống quản lý nhân sự với dữ liệu trên 1 triệu quân của quân
đội Sài Gòn thời kỳ đó.
Sau
ngày 30/4, sự hợp tác giữa anh chị em làm máy tính miền Bắc và miền Nam
kể cả dân sự và quân sự phải nói là rất tốt, chung sức cùng nhau tổ
chức hoạt động trở lại các dàn máy tính ở Sài Gòn để một mặt khai thác
các thông tin của chế độ cũ và mặt khác phục vụ các nhu cầu tính toán
cho nhà nước và quân đội ta, khắc phục sức tính toán còn nhỏ của vài dàn
máy tính ở miền Bắc.
Hầu
hết các dàn máy tính phi quân sự ở Sài Gòn đều tiếp tục làm việc với
nhân lực cơ bản là anh chị em đã làm việc ở đó trước đây, rồi tiếp tục
được bổ sung bởi các anh chị em làm những công việc tương tự từ miền
Bắc. Trong số các anh chị em làm máy tính trước năm 1975 tại Sài Gòn có
thể kể đến các anh Dương Quang Thiện (nguyên giám đốc máy tính IBM 360 –
20 thuộc hãng BGI), anh Lê Bá Quang (nguyên cán bộ của máy tính ngân
hàng), anh Đỗ Văn Hai (nguyên đại úy, trưởng phòng thảo chương thuộc dàn
máy IBM 360 – 40 Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Sài Gòn), và nhiều anh chị
em khác đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự khôi phục hoạt động của các
dàn máy tính IBM và tham gia vào việc phát triển các công nghệ và ứng
dụng hệ thống máy vi tính trong nhiều năm sau này tại TP HCM.
Các
dàn máy thuộc quân đội, cảnh sát và chính quyền Sài Gòn thì các cán bộ
máy tính của quân đội, công an, một số cơ quan Chính Phủ ta cũng rất
nhanh chóng làm chủ và tổ chức cho hoạt động lại chỉ vài ngày sau ngày
30/4/1975. Với các dàn máy này thì thường ta mời lại một số chuyên viên
cũ cùng làm việc với các hệ thống dữ liệu của chính quyền Sài Gòn.
Một
trong những vấn đề nan giải là việc bảo trì, sửa chữa các dàn máy thì
các chuyên viên kỹ thuật còn lại của hãng IBM, như các anh Sô, anh Hòa,
anh Lý,… đã một mặt tiếp tục lo việc này rất trách nhiệm, mặt khác huấn
luyện và đào tạo nhiều kỹ sư của ta làm chủ các hệ thống kỹ thuật của
IBM. Có vài người tiếp tục đi sâu vào công nghệ IBM và trở thành những
chuyên gia kỹ thuật cấp cao của công ty IBM hoạt động tại Việt Nam nhiều
năm sau này.
Một
nhận xét quan trọng là toàn bộ các dàn máy tính ở Sài Gòn khi đó chỉ
tập trung giải quyết các bài toán quản lý, phân tích dữ liệu. Hầu như
không có các bài toán về khoa học – kỹ thuật được giải quyết trên các
dàn máy tính này. Tuy nhiên đây lại là một đặc điểm mang lại cho chúng
ta nhiều tri thức rất bổ ích.
Hai đỉnh cao của thời đại máy tính cho đến các năm cuối của thế kỷ trước là:
-
Đỉnh cao thứ nhất: Computer đã có thể thực hiện mọi tính toán cho tất
cả các bài toán khoa học – kỹ thuật từ xây dựng nhà cửa, đến chế tạo bom
nguyên tử, từ thiết kế ô tô đến các con tàu vũ trụ,... Đỉnh cao này
thì con người đã có thể kết luận ngay sau vài chục năm xuất hiện máy
tính điện tử, tức kết luận này đã có được vào những năm 60 thế kỷ trước.
-
Đỉnh cao thứ hai: Computer đã có thể triển khai mọi hệ thống quản trị
từ nhỏ gọn như QUẢN LÝ NHÂN SỰ cho một cơ quan đến khổng lồ như QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH cho một đại tổ chức như WORLD BANK. Kết luận này dần dần được
lộ diện từ thập kỷ 70 thế kỷ trước và đến những năm 80 - 90 thì đã được
khẳng định.
Ở
góc độ ứng dụng thì để leo lên mức nào đó ở đỉnh cao thứ 2, tức ứng
dụng hiệu quả CNTT cho một yêu cầu quản lý nào đó khó hơn rất nhiều so
với lập trình cho việc giải một bài toán về khoa học kỹ thuật đã có mô
hình toán học. Bác Trần Đại Nghĩa đã dặn rằng, ta thắng Mỹ và chính
quyền tay sai nhưng trong lĩnh vực này cần học họ. Chúng ta đều biết
rằng về quản lý thì Mỹ là quốc gia có trình độ quản lý hàng đầu thế
giới. Chính quyền và quân đội Sài Gòn đã buộc phải tổ chức các hệ thống
quản lý theo các công nghệ quản lý của Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu các
hệ thống quản lý sử dụng máy tính điện tử trong các đơn vị kinh tế cũng
như trong quân đội Sài Gòn chính là nghiên cứu phương pháp tổ chức ứng
dụng CNTT trong quản lý của Mỹ vào những năm 70 thế kỷ trước. Có những
nguyên lý, phương pháp, giải thuật trong tổ chức các hệ thống thông tin
quy mô lớn cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị vì đó là những nguyên
tắc quản trị chứ không chỉ là vấn đề công nghệ tính toán. Theo nhận xét
của chúng tôi thì đến nay, các chương trình giảng dạy về sử dụng CNTT
trong quản lý của chúng ta ở bậc đại học cũng vẫn còn thiếu rất nhiều về
công nghệ quản lý mà chỉ chú trọng nhiều về CNTT. Một thí dụ rất đơn
giản là khi tổ chức một hệ thống quản lý nhân sự cỡ vài triệu đối tượng,
phân tán trên một vùng địa lý rộng lớn, chẳng hạn một tỉnh hoặc lớn hơn
là trong cả nước thì rất nhiều câu hỏi được đặt ra như:
· Những sai lệch giữa thực tế và dữ liệu trên máy tính sẽ là những gì?
· Vì sao lại có thể phát sinh những sai lệch (tất yếu!) đó?
· Làm sao phát hiện những sai lệch đó?
· Khả năng khắc phục có thể ở mức độ nào và khắc phục ra sao?
v.v…
Các câu trả lời không nằm trong công nghệ tính toán mà thuộc các công nghệ quản trị.
Khi
nghiên cứu tài liệu phân tích về hệ thống quản lý nhân sự trên một
triệu người của quân đội Sài Gòn, chúng tôi đã được thấy họ giải đáp
toàn bộ các vấn đề đó. Cho đến nay, chúng ta chưa bao giờ có những tài
liệu như vậy dù rằng nhiều người đã và đang nói về những hệ thống còn
lớn hơn gấp bội so với hệ thống quản lý nhân sự của quân đội Sài Gòn
trong những năm chiến tranh. Thực tế tiếp cận với một số đề án tổ chức
các hệ thống quản lý kiểu quản lý con người ở quy mô khá lớn tại TP. HCM
và vài địa phương lân cận cho thấy những câu hỏi như vừa nêu trên không
bao giờ được đặt ra. Kết quả là các hệ thống đó chưa bao giờ được vận
hành tốt dù chi phí không nhỏ.
Có
thể nói, lực lượng làm máy tính còn lại ở miền Nam sau giải phóng cùng
với lực lượng làm máy tính ở miền Bắc đã nhanh chóng làm chủ vững chắc
và cho các dàn máy khá lớn vào thời đó trở lại hoạt động, vượt qua muôn
vàn khó khăn của thời kỳ cấm vận, duy trì một năng lực tính toán khá
mạnh cho cả nước so với trong khu vực trong hàng chục năm sau giải
phóng. Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 thì lần lượt các dàn máy
IBM ở Sài Gòn ngưng hoạt động. Thay thế vào đó là các máy vi tính, các
máy tính cá nhân. Chúng có giá trị là làm cho hàng trăm ngàn người, rồi
hàng triệu người và nay thì hầu như mọi người quen với khái niệm máy
tính, thông tin, dữ liệu, Internet. Hiện tượng tích cực này giống như sự
bùng nổ của kinh tế thị trường sau đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn
một khoảng cách tri thức trong việc tổ chức các hệ thống thông tin quy
mô lớn.
Có
thể làm một so sánh tuy hơi khập khiễng để phần nào thấy cái thiếu về
tri thức tổ chức các hệ thống thông tin quy mô lớn mà chúng ta đang phải
đối mặt. Đó là chúng ta đã có hàng triệu doanh nghiệp, hàng chục triệu
người làm kinh doanh, quen với việc mua, bán, quen với đồng tiền, với
lời, lỗ... Nhưng chúng ta còn rất ít các doanh nghiệp lớn, rất ít các
doanh nghiệp có sản phẩm với thị trường lớn dù chỉ là trong nước. Nhìn
vào việc ứng dụng CNTT trong quản lý thì hầu khắp mọi nơi có sử dụng
CNTT nhưng tổ chức những hệ thống thông tin lớn, đặc biệt là những hệ
thống quản trị xã hội cỡ lớn như dân cư (với rất nhiều thể loại khác
nhau), cơ sở vật chất các loại,… thì việc này cũng khó như việc xây nên
những đại doanh nghiệp, dù rằng buôn bán thì hầu như ai cũng làm được ở
mức độ nào đó. Ta có thể thấy có một nguyên nhân chung của hiện tượng
không ít những đại doanh nghiệp, nhất là đại doanh nghiệp nhà nước đã
sụp đổ tương tự sự sụp đổ của không ít các hệ thống thông tin quy mô
lớn. Đó là trình độ tổ chức quản trị còn chưa tới mức cần thiết.
Dường
như chúng ta chưa hiểu hết về ứng dụng CNTT trong quản lý và do đó mà
cũng chưa làm hết điều mà Bác Trần Đại Nghĩa đã dặn dò đám sỹ quan trẻ
bốn mươi năm trước mà bây giờ họ đều đã ở tuổi 70. Một trong những biểu
hiện của “hiện đại hóa” chính là những hệ thống thông tin lớn về kinh tế, về xã hội được tổ chức nghiêm cẩn, một mục tiêu còn khá xa với nước ta./.
TS. Nguyễn Trọng
Nguồn: Tapchibcvt