2016/03/28 bởi levinhhuy
Đất Giao Chỉ xưa vốn
thuộc Tàu, nên đã ngàn năm nay, việc người Tàu sang đây sinh sống là
chuyện thường tình. Nhưng di dân Tàu ồ ạt thành đoàn thành lũ xuống
phương Nam là bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII. Họ là những kẻ bất phục Mãn
Thanh, tìm sang Nam để gìn giữ nề nếp phong tục người Hán. Họ tập hợp
nhau lập thành làng, gọi làng Minh Hương (làng của người Minh).
Để phân biệt, ta hiểu “người Minh Hương” là những di dân chính trị. Từ
thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, ta có những “Hoa kiều”, đó là những di
dân kinh tế.
Không có dân tộc nào
tôn thờ chữ viết như người Tàu. Nghệ thuật viết chữ được luyện thành thư
pháp, như một tôn giáo để di dưỡng tâm hồn. Văn tự thành chiếc cầu nối
giữa người phàm với thần linh. Lưu lạc đến bất cứ đâu, việc họ bắt tay
thực hiện đầu tiên là lập hội quán, để tập hợp thành cộng đồng tương trợ
nhau; kế đó là xây dựng trường học, để bảo tồn chữ Hán.
Thời Hậu Lê, người
Tàu đã được hưởng quy chế ngoại kiều. Người Việt vốn chuộng hư danh phù
phiếm, xem thường việc kinh thương, lại say mê đánh giết nhau, nên ngay
từ Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Tàu đã nắm trọn độc quyền khai thác
khoáng sản, buôn bán gạo muối và kinh doanh vận tải; giang sơn Đại Việt
chia đôi chẳng ngăn được người Tàu ở hai Đàng (Trong và Ngoài)
hiệp lực với nhau, chi phối và thao túng toàn bộ kinh tế Đại Việt. Người
Tàu chí thú làm ăn, cung cấp lương thực và hàng hóa cho hai phe đồng
chủng Tiên Rồng đánh giết nhau, và họ trở nên giàu có, một phần nhờ ở sự
hiếu chiến oai hùng của người Việt.
Sự giàu có của người
Tàu được Nguyễn Huệ ghé mắt xanh, đưa vào diện quan tâm đặc biệt. Những
cuộc chém giết để cướp của của người Tàu được giặc Tây Sơn tổ chức quy
mô: San bằng Cù Lao Phố Đồng Nai, hủy diệt Mỹ Tho, tàn sát Chợ Lớn. Huệ
thành hiện thân của quỷ dữ, người Tàu bị đẩy vào thế phải đâu lưng cùng
Nguyễn Ánh để chung sức tiêu diệt hung đồ bạo ngược.
Ghi nhớ công hãn mã
khuông phò của bọn người Tàu, khi lên ngôi, Gia Long đã dành cho Hoa
kiều những đặc ân lớn: nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng
thuế thân. Vua lại cho phép họ thành lập bảy đại bang theo phương ngữ,
được quyền tự trị, là Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế
Châu, Lôi Châu và Hải Nàm. Từ sau đời Minh Mạng, tuy cũng có lúc Hoa
kiều bị siết chặt, ngăn ngừa họ phóng túng vô cương, nhưng Hoa kiều vẫn
luôn là cộng đồng được ưu ái nhất ở Việt Nam. Đến khi người Pháp vào cai
trị, những quy chế ưu đãi của Nguyễn triều dành cho Hoa kiều được duy
trì hầu như không đổi, thế lực Hoa kiều cứ thế ngày một lớn mạnh.
Kể từ sau Hiệp định
Geneva 1954, Việt Nam chia thành hai miền Nam Bắc thì tình hình làm ăn
của Hoa kiều không còn hanh thông như trước.
Trước đó, ngoài Bắc,
khi cộng sản nắm quyền, các bang hội Tàu s9ã bị giải tán, trường dạy chữ
Tàu bị đóng cửa. Không giữ được văn tự và bang hội, người Tàu đất Bắc
nhanh chóng bị đồng hóa với dân bản địa, không thể phân biệt được họ với
người Việt bình thường nữa. Trong Nam, chánh quyền không có được lợi
thế sắt máu của chuyên chính vô sản, nên đã phải chật vật hơn rất nhiều
trong việc đưa cộng đồng Hoa kiều hòa nhập vào khối đoàn kết toàn dân,
đồng thời vẫn để họ giữ gìn bản sắc, cũng như phát huy sở trường kinh
thương.
B. Diễn biến công cuộc bắt buộc Hoa kiều nhập Việt tịch
Nhận thấy Hoa kiều đã
được hưởng lợi lộc khổng lổ ở Việt Nam nhưng lại không hề phải thực thi
nghĩa vụ gì đối với quốc gia. Quy chế ngoại kiều đã giúp họ không phải
đóng thuế kinh doanh; thể chế bang hội tự trị khiến họ trở thành những
tiểu quốc gia trong một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Không chịu sự tài
phán của tòa án Việt Nam, chẳng cần sự bảo vệ và giúp đỡ của cảnh sát,
tự họ giải quyết với nhau theo phán quyết của các Bang trưởng. Sự khép
kín của cộng đồng Hoa kiều là hành vi ích kỷ và bội bạc với đất nước đã
cưu mang mình.
Để kiến thiết kinh tế
cũng như tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc đưa Hoa kiều
hội nhập là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chánh phủ Ngô Đình Diệm vừa mới
được thành lập ở miền Nam ngày 26-10-1955, thì chỉ hơn một tháng sau,
vào ngày 7-12-1955, Thủ tướng đã ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật quốc tịch Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt Nam”.
Theo đó, tất cả những ai gốc Tàu sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc phải
nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
Bọn người Tàu
vẫn được hưởng đặc quyền đặc lợi bấy lâu, nay bỗng dưng thấy mình có
nguy cơ bị thất sủng nên đã kiên quyết bất hợp tác với chánh quyền. Hơn
800.000 thần tử Hoa Hạ ở miền Nam Việt Nam chăm chú hướng về Đài Loan,
trông chờ sự can thiệp của Tưởng Giới Thạch [Con số 800.000 này không
tính người Minh Hương; thời điểm đó tổng dân số Việt Nam Cộng Hòa khoảng
hơn 10 triệu].
Đinh ninh Thống chế Thạch sẽ “trị” được Thủ tướng Diệm, nên Hoa kiều xem Dụ lệnh số 10 như gió thoảng ngoài tai, không đáng để ý. Trước sự chây ỳ táo tợn khinh thường luật nước đó, chánh quyền ban hành tiếp Dụ số 48
(ngày 21-8-1956), Sửa đổi Bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định:
Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt
buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập
tịch thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời
hạn ấn định cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để
được cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày 08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn
tất vào ngày 22-6-1957. Bằng Dụ lệnh này, Diệm cho thấy sự kiên quyết
của chánh quyền để buộc Hoa kiều vào khuôn phép. Ai không muốn nhập tịch
cứ sang Đài Loan sinh sống, mỗi người sẽ được chánh quyền cấp cho 400
đồng để “hồi hương”, đúng theo luật định.
Ngày 29-8-1956, Thủ tướng ban hành Dụ số 52
qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi
có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Tàu
phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang, Diệp, Lưu,
Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v…) chứ không được xưng các tên
ngoại quốc hay tên gọi riêng (như Chú, A, Chế…) kể cả bí danh, trong
những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải
viết bằng Việt ngữ.
Tuy Dụ lệnh chỉ đề
cập chung “ngoại kiều”, nhưng nhìn vào, ai cũng nhận ra, đối tượng của
nó là bọn Hoa kiều, vì 11 nghề đó là những hoạt động chính của họ. Ngày
24-10-1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, cho đến
ngày 13-11-1956, theo Nguyễn Văn Vàng, Đặc ủy Trung Hoa sự vụ của chính
quyền Sài Gòn lúc đó, thì “rất ít Hoa kiều đến khai nhận Việt tịch, Dụ 48 chưa đem lại kết quả khả quan”.
Ngày 28-11-1956, Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng quốc gia đặc trách kinh tế
mời tất cả các đại diện nghề nghiệp Hoa kiều của Văn phòng Thương mại
Chợ Lớn đến để nói rõ chính sách quốc tịch của chánh phủ. Ông Thơ cảnh
cáo: “Những người ngoại quốc nào còn muốn tiếp tục hoạt động kinh
thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết cho xong vấn đề quốc tịch.
Đừng nghĩ rằng chánh phủ sẽ không có biện pháp đối với những ai không
muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp. Giải pháp đã có sẵn, nó nằm
trong tầm tay của mỗi quí vị, và quí vị hãy tự quyết định lấy”.
Với hai Dụ lệnh 52 và 53,
quy chế ngoại kiều ưu đãi bao đời nay dành cho bọn Ba Tàu đã hoàn toàn
bị bãi bỏ. Bị choáng bởi liều thuốc quá sốc, phản ứng của họ rất dữ. Họ
tẩy chay thuốc lá điếu và không tiêu thụ thịt heo (là hai ngành nghề
chính của người Việt lúc bấy giờ mới hình thành), thành lập Hội Hoa kiều
tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam (nhằm làm áp lực buộc Hoa Kỳ phải góp
phần can thiệp để Diệm thu hồi các Dụ lệnh trên). Chính quyền một mặt
xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho Hoa kiều thất nghiệp mỗi người được
200.000 đồng, nhưng hiệu lực của Dụ lệnh vẫn cứ y nguyên giá trị, bất
dịch.
Cảnh sát Sài Gòn được
phép bắt giữ và tịch thu thẻ căn cước Đài Loan của Hoa kiều để cấp lại
thẻ căn cước Việt Nam cho họ. Cửa hàng của Hoa kiều kinh doanh 11 ngành
nghề nói trên phải gấp rút chuyển tên người sở hữu để đứng tên thay thế.
Kinh tế miền Nam
trong tháng 7 và 8-1957 bị ngừng trệ, hầu như tê liệt. Người Tàu ồ ạt
rút hết tiền ký thác trong các ngân hàng, tổng số tiền rút ra từ tháng
11-1956 đến tháng 7-1957 là từ 800 triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương
1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trên toàn quốc. Đồng bạc Việt Nam tại
thị trường chứng khoán Hồng Kông liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD
(1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105 đồng trên thị trường chợ đen.
Tiếp sức đồng hương,
Hoa kiều Đông Nam Á cũng làm áp lực bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất
khẩu từ Việt Nam mà không do người Tàu bán. Cụ thể Hồng Kông từ chối mua
40.000 tấn gạo mặc dầu đã ký hợp đồng từ trước, số gạo này khi được chở
qua Singapore thì cũng bị bọn Tàu Sing từ chối không chịu mua. Báo chí
Hoa ngữ ở Đông Nam Á đồng loạt lên tiếng đả kích chế độ Diệm bài Hoa.
Trung cộng nhân dịp này cũng chỉ trích chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm
tranh thủ cảm tình của Ba Tàu hải ngoại. Việt cộng đẩy mạnh “công tác
Hoa vận” ở Sài Gòn-Chợ Lớn, lôi kéo người Tàu theo “cách mạng”. Đất nước
vừa mới thành lập đã gặp phải ngay cơn thử thách lớn, tình hình cực kỳ
nguy hiểm quyết định tồn vong của chế độ Cộng hòa non trẻ.
Thật ra, người Tàu
cũng nhận biết sự kinh doanh miễn thuế của mình là bất lương; không gì
đáng hỗ thẹn bằng thụ hưởng lợi ích từ một đất nước đã cưu mang mình mà
lại không phải đóng góp gì để đền đáp lại. Nhưng vấn đề họ lấy làm lo sợ
nhất khi nhập Việt tịch là… phải thi hành quân dịch. Đã xa rồi cái thời
người Tàu liều thân xông pha sa trường đền ơn tri ngộ của các Chúa
Nguyễn. Những thế hệ Ba Tàu sau này lớn lên đã trở lại bẩm tính thiên
phú là kinh doanh, mưu cầu lợi nhuận, họ không muốn phải tham gia vào
trò chơi chiến tranh của người Việt. Tài sản dẫu tiêu tán thoòng vẫn có
thể gầy dựng lại, nhưng sinh mạng nếu lỡ mất đi thì không thể thu hồi.
Giờ đây, họ bị bắt
buộc phải lựa chọn giữa việc tiếp tục kinh doanh với điều kiện phải cho
phép con em mình tham gia chiến tranh, tái diễn trò Quốc-Cộng sinh tử ở
Việt Nam; và một bên là phải rời bỏ mảnh đất mình đã mấy đời gắn bó này.
Huống chi, Hoa Kỳ đang ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, cơ hội đầu tư đang mở
rộng hơn bao giờ hết. Cuối năm ấy, hầu hết Hoa kiều đang sinh sống ở Nam
Việt Nam đều nhập Việt tịch, chỉ hơn 40.000 người “hồi hương” về Đài
Loan. Cuối cùng “cắc chú” đã phải hiểu ra: không thể sinh sống trên một
đất nước mà không tuân thủ luật pháp của nước đó. Từ nay, máu của người
Tàu đã cùng hội nhập với máu của người Việt anh em, để gìn giữ nền Cộng
Hòa.
Các chú bác cô dì anh chị Ba Tàu của tôi ơi! Sau
1975, khi Việt Nam thống nhất lãnh thổ, phải chịu đòn trưng dụng tước
đoạt tài sản mệnh danh “cải tạo tư sản công thương nghiệp” của bạo
quyền, và trải 2 lần đổi tiền tàn độc, cơ nghiệp tan tành, bang hội tại
Việt Nam bị tiêu vong, chư vị có khi nào nhớ lại và tiếc thương Ngô tổng
thống?
_______
Tài liệu tham khảo:
– Người Hoa tại Việt Nam, Nguyễn Văn Huy. Nxb NBC, Paris, 1973.
– Tìm hiểu chính sách đối với người Hoa của
chính quyền Sài Gòn qua các đạo dụ về vấn đề quốc tịch và vấn đề kinh tế
ban hành trong hai năm 1955-1956, Trịnh Thị Mai Linh. Tạp chí Khoa Học, Đại học Sư phạm Tp Hồ CHí Minh, số 23-2010.
– Người Hoa ở Nam bộ, Phan An. Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
〈第二次世界大戰後越南之華人政策 (1945-2003)〉Chính sách
người Hoa ở Việt Nam sau Thế chiến II (1945-2003), Huỳnh Tôn Đỉnh. Luận
văn nghiên cứu thạc sĩ Đại học Quốc Lập, Đài Loan, 2006.
Cùng vài hồ sơ liên quan của Quốc sử quán Đài Bắc.