Tác giả bài viết này là “giáo sư Việt văn” bậc trung học ở Miền
Nam trước năm 1975 (các thầy cô giáo dạy trung học được gọi là giáo sư trung
học). Trong cuộc thảo luận về đề tài “Ngữ văn trong nhà trường” do Văn Việt nêu
ra, tôi thấy trải nghiệm dạy văn của mình có nhiều vấn đề liên quan đến các đề
tài được gợi ý trong cuộc thảo luận. Sau 1975 tôi không còn dạy học nên không
đủ thẩm quyền góp ý về việc dạy và học văn hiện nay nhưng tôi nghĩ những trải
nghiệm của mình trong nghề cũng là một cách so sánh, đối chiếu để góp phần soi
sáng thêm về một vấn đề chung mà Văn Việt đã nhấn mạnh tầm quan trọng là “có
tác động rất lớn đến tâm hồn con em chúng ta và tương lai văn học nước nhà”.
Bài viết sẽ lướt qua các vấn đề: quá trình đào tạo giáo sư Việt
văn, chương trình, phương pháp giảng dạy, sách giáo khoa, hoạt động ngoại khóa,
thi cử, mối quan hệ với học sinh và hình ảnh người giáo sư văn chương trong mắt
học sinh.
Quá trình đào tạo “giáo sư Việt văn” cũng như giáo sư dạy các môn khác khá công
phu và bài bản, tạm đủ để giáo sinh ra trường có thể thực hiện tốt công việc
của mình. Tôi học Đại Học Sư Phạm Huế từ năm 1963 – 1967, là khóa đầu tiên đào
tạo 4 năm, thay vì 3 năm trước đó. Muốn vào Sư Phạm phải qua thi tuyển, các đại
học khác (như Văn Khoa, Khoa Học, Luật), học sinh có bằng Tú Tài 2 chỉ cần ghi
danh vào học. Thi tuyển vào Sư Phạm cũng khá khó khăn, tỉ lệ thi đỗ tùy năm,
khoảng trên dưới 20%, sau đó còn tiếp tục được sàng lọc. Lớp tôi thi vào đỗ 22,
lúc ra trường chỉ có 13 người tốt nghiệp. Sinh viên Sư Phạm có học bổng, được
hoãn dịch, ra trường được chính thức bổ nhiệm làm công chức ngay (với mức lương
khá cao so với các ngành nghề khác), nghề giáo được xã hội coi trọng nên Sư
Phạm được coi là một đại học “có giá”.
Sinh viên học Sư Phạm Việt văn thường là những người có năng lực
về văn ở trung học, yêu thích văn chương và “có mộng văn chương”, thích làm
nghề thầy, chứ không phải kiểu “chuột chạy cùng sào mới vào…”.
Chương trình đào tạo ngoài các môn về văn học Việt Nam còn học Hán
văn, chữ Nôm, Anh văn, Pháp văn, văn học Trung quốc, văn học phương tây, triết
học đông phương, tâm lý giáo dục… Các giáo sư giảng dạy một số tốt nghiệp ở
nước ngoài, một số là học giả trong nước, những người đã có công trình nghiên
cứu chuyên sâu và xuất bản sách về môn mình giảng dạy. Trong 4 năm học, sinh
viên sư phạm Việt văn được khuyến khích học thêm bên Văn khoa để lấy bằng cử
nhân Văn khoa hoặc ít nhất bắt buộc phải có hai chứng chỉ văn chương Việt Nam
và Hán văn bên Văn khoa. (Bằng cấp ở Văn khoa theo chế độ chứng chỉ, tuy học tự
do nhưng lấy chứng chỉ không phải dễ, như chứng chỉ Văn chương Việt Nam, nửa
đầu thập niên 60, mỗi năm khoảng 30 người dự thi, chỉ đậu 5 – 7 người, thậm chí
có năm chỉ 2 – 3 người. Vì ghi danh học tự do nên người giỏi có thể chỉ 3 năm
lấy bằng cử nhân, gồm 1 năm dự bị và 2 năm lấy 4 chứng chỉ, nhưng có người học
5 – 6 năm cũng không lấy nổi cử nhân nên cứ tà tà học hoặc có thể cố ý để vừa
đi học vừa hoạt động… “cách mạng”.)
Về chương trình, phương pháp giảng dạy, sách giáo khoa hoàn
toàn khác hẳn hiện nay.
Chương trình mỗi lớp do Bộ Giáo dục ấn định, có tích cách rất tổng
quát, chỉ quy định lớp nào học các tác giả nào, thời kỳ văn học nào, mỗi phần
học mấy tuần hay mấy tháng. Không có “sách giáo khoa pháp lệnh” của nhà nước mà
chỉ có một số sách do tư nhân, là các giáo sư dạy văn biên soạn, bán trên thị
trường. Các sách này cũng chỉ dùng để tham khảo, vì mỗi giáo sư phải tự soạn
lấy bài giảng của mình. Giáo sư phải sử dụng kiến thức học ở đại học, nghiên
cứu tìm tòi thêm để soạn bài, không những để đạt yêu cầu theo chương trình mà
còn mang dấu ấn cá nhân của người soạn. Một giáo sư tài hoa sẽ có những bài
giảng tài hoa, uyên bác, gây ấn tượng mạnh trong nhiều thế hệ học sinh.
Thời gian quy định giảng dạy cho các phần trong chương trình mỗi
lớp chỉ có tính cách tương đối, giáo sư có thể “du di” theo ý mình, miễn là
cuối năm hoàn tất chương trình, nhất là các lớp cuối cấp phải đi thi. Tôi có
thể dành đến 3 tháng để dạy về truyện Kiều, gấp đôi thời gian quy định, để gởi
gắm thêm tâm trạng và những suy tư của mình về định mệnh và kiếp người. Thích
tinh thần phản kháng, ngang tàng và tài hoa của Cao Bá Quát, tôi dành thời gian
gấp đôi thời gian dành cho Nguyễn Công Trứ dù hai tác giả này được quy định
thời gian tương đương. Có thể nói tôi đã tung hoành trong bài giảng của mình,
thể hiện mình thông qua các tác giả. Đặc biệt trong những lớp ban C, tức ban
văn chương ở đệ nhị cấp (cấp 3), mà học sinh cũng là những cô cậu mới lớn có
tâm hồn lãng mạn, thích văn chương theo học, thầy trò lại càng đi sâu vào những
khía cạnh tâm lý phức tạp của nhân vật chứ không phải chỉ là những kiến thức
giáo khoa. Đó cũng là một phần của quan niệm “dạy văn tức là dạy người”. Người
dạy người không phải dễ, dù đó là giáo sư văn chương được đào tạo bài bản.
Người dạy không những có kiến thức mà còn phải có lý tưởng, nhân cách, am hiểu
sự mong manh tế nhị, nhạy cảm của tâm hồn và sức thuyết phục toát ra không
chỉ từ bài giảng mà còn từ toàn bộ cuộc sống của mình.
Lúc mới ra trường, tôi dành cả nửa tháng trời để suy nghĩ và chuẩn
bị cho giờ học đầu tiên ở mỗi lớp. Không có chuyện quy định giờ nào phải dạy
bài nào, dạy không xong sẽ “cháy giáo án”. Giờ học đầu tiên là cách “trình
diện” trước học sinh, thế hệ đàn em, về lý tưởng, hoài bão và phương pháp của
một giáo sư văn chương. Đó là tâm tình của một người đàn anh trong 4 năm đại
học đã trải qua nhiều biến động và trưởng thành trong những sóng gió của đất
nước thời chiến. Thời kỳ đó đã tác động mạnh vào tuổi trẻ học đường, buộc những
chàng trai trẻ sinh viên không chỉ biết học, bạn bè, yêu đương mà còn suy tư,
đối diện với những vấn đề lớn của đất nước và dấn thân bằng hành động. “Giây
phút đầu tiên” này không chỉ đầy xúc động đối với người thầy mà cũng còn là
những giây phút khó quên đối với học sinh mà họ vẫn còn lưu giữ trong ký ức,
mãi đến mấy chục năm sau vẫn còn được nhắc lại khi thầy trò gặp nhau và đầu đều
đã điểm bạc. Và những khi thầy trò đều chán nản, uể oải vì một lý do nào đó,
thầy sẵn sàng ngưng dạy bài học để cùng nhau nói chuyện đời. Đôi khi những câu
chuyện này lại có ích cho cả thầy và trò hơn những kiến thức giáo khoa khô
chết. Nếu chỉ bám vào giáo khoa làm sao đối diện được với cuộc sống hiện tại
mới mẻ và muôn vàn biến động. Đôi khi chính những giờ phút “phi chính thống”
này lại mang đến hứng thú, sức hấp dẫn cho những giờ dạy và học văn chương.
Các hoạt động ngoại khóa cũng mang lại sự hào hứng cho sinh hoạt văn chương. Tổ
chức làm báo, thi sáng tác thơ văn , lập các bút nhóm học trò là
những hoạt động hào hứng đầy say mê, nhất là với những học sinh có “mộng văn
chương”. Những lớp nhỏ chỉ làm báo tường (viết trên một tấm giấy lớn treo trên
tường) nhưng các lớp đệ nhị cấp thường làm báo ronéo. Lớp đệ tam C (lớp
10) văn chương đầu tiên do tôi đề nghị thành lập và làm chủ nhiệm khi mới ra
trường đã làm tờ báo ronéo lấy tên “Những bước chân reo” tuy
in ấn hơi lem nhem nhưng là một kỷ vật vô giá cho lớp học này mãi về sau, mang
chứa những hoài bão và kỷ niệm đẹp của một thời trắng trong sôi nổi. Tờ
báo “Niềm tin” với danh nghĩa là tờ báo của toàn trường do Ban
Báo chí thực hiện, tất cả mọi khâu sáng tác, chọn bài, in ấn đều do học sinh tự
làm, mà nòng cốt là các học sinh yêu thích văn chương, phát hành ra cả bên
ngoài nhà trường, lại bị chính quyền cấm vì nhiều bài viết được cho
là không phù hợp với chính sách đương thời.
Đặc biệt sôi nổi hào hứng là hoạt động thuyết trình.
Mỗi lớp được chia thành nhiều tổ, trong đó có một tổ trình bày đề tài và các tổ
khác “phản biện”. Đề tài thường là giới thiệu phê bình một cuốn sách, trình bày
một nội dung trong chương trình có liên hệ đến thực tế hiện tại hay về một vấn
đề thời sự do giáo sư gợi ý. (Có lần ở lớp đệ tứ (lớp 9), tôi đã cho các em
thuyết trình về tập truyện ngắn “Trước khi mặt trời mọc” của Trần Duy Phiên,
bạn tôi, khi vừa được tạp chí Đối Diện xuất bản). Các em chuẩn bị rất công phu,
hàng tuần hay đôi khi hàng tháng, từ sưu tầm tư liệu, viết nội dung đến phân
công trình bày. Các lớp nhỏ khi tranh luận thường có ý ganh đua những chi tiết
vụn vặt nhưng các lớp lớn đã biết đi sâu vào lý luận, quan điểm, nhất là các
vấn đề liên quan đến thời sự - chính trị, phản ánh tư tưởng của tuổi trẻ trong
một giai đoạn đặc biệt của đất nước, qua đó người thầy có thể hướng suy nghĩ
của các em về hướng lành mạnh, đúng đắn. Điều này không thể làm được trong các
bài giảng giáo khoa khô cứng.
Việc thi cử, nhất là các kỳ thi Tú tài 1 và Tú tài 2, rất quan trọng đối với
học sinh, để có thể học lên cao hay phải đi lính, không ảnh hưởng đến cách
giảng dạy của giáo sư vì không có chuyện học tủ, thi tủ. Muốn làm được bài thi
phải có kiến thức vững chắc và toàn diện cả chương trình. Khi chấm thi, các
giáo sư giám khảo có thang điểm hướng dẫn một cách tổng quát mỗi phần cho bao
nhiêu điểm nhưng không có quy định phải như thế nào cụ thể theo một giáo án nào
đó mới là đúng hay sai. Việc đánh giá là do chủ quan của giáo sư giám khảo căn
cứ trên kiến thức cần có của chương trình đã học và nghệ thuật trình bày, khả
năng lý luận và sáng tạo của học sinh, đúng với bản chất của văn chương chứ
không phải thuộc lòng rập khuôn theo “văn mẫu”. Không có cái gì gọi là “văn
mẫu”, ngược lại càng độc đáo và phản biện tích cực càng được đánh giá cao, nhất
là trong các bài nghị luận. Ngoài ra trong các kỳ thi này, giáo sư dạy tỉnh này
được phân công đi chấm thi ở tỉnh khác nên phần lớn đều giữ được sự công tâm
cần có.
Mối quan hệ giữa các giáo sư nói chung với học sinh khá thân thiết, nhất là đối với các giáo
sư văn chương vì những người này cũng thường lãng mạn và phóng khoáng. Học sinh
là thế hệ đàn em không cách bức nhiều lắm vì chỉ hơn nhau 5 – 7 tuổi, thậm chí
có học sinh lớn bằng tuổi thầy vì học muộn và khai gian tuổi để trốn lính (thầy
cô tốt nghiệp đại học ra trường đúng tuổi chỉ mới 22).
Không có chuyện dạy thêm học thêm nên thầy trò không có gì cấn
cái. Ngoài giờ học thầy trò có thể cùng đi uống café nghe nhạc (dĩ nhiên do
thầy “bao” và học trò cũng hay vòi). Các buổi đi picnic từng nhóm nhỏ hay cắm
trại lớp, trường là những dịp đặc biệt để thầy trò vui chơi chan hòa (cắm trại
đúng nghĩa trong rừng chứ không phải trong sân trường như hiện nay).
Một nhóm học sinh lớp đệ nhị và đệ nhất (11 và 12) thường đến nhà
tôi để trao đổi chuẩn bị cho các buổi thuyết trình. Nhà tôi chật chội nhưng có
vườn nên các em đã nảy ra ý định đề nghị làm một cái chòi ngoài vườn để làm nơi
sinh hoạt. Tôi đồng ý. Các em rủ nhau đi rừng chặt vác về một số cây cột để
dựng chòi. Thế là các em có được một nơi gặp gỡ thoải mái.
Những điều này góp phần tạo nên tình thân nhưng không vì thế mà
mất chữ “lễ” khi thầy trò cùng hiểu đúng về quan hệ thầy trò.
Cũng nhờ có thân tình đó và sự tin cậy mà các em học sinh đã chia
sẻ với tôi những tâm tình riêng tư. Tôi còn nhớ mãi hai câu chuyện cảm động.
Một em vì hoàn cảnh gia đình và tâm trạng cá nhân muốn bỏ học để
đi lính. Đó là một chàng trai lớp đệ nhị bình thường rất ngang tàng,
không thân với tôi lắm và không hiền hòa lễ phép như phần đông các em khác. Thế
nhưng một hôm em tìm đến tâm sự và hỏi ý kiến của tôi. Tôi đã phân tích, khuyên
nhủ nhưng không lay chuyển được ý định của em. Em đã đăng ký tình nguyện vào
một đơn vị đặc biệt hết sức nguy hiểm. Không lâu sau tôi nghe tin em đã tử
trận. Tôi vô cùng hối tiếc và cảm thấy mình quá bất lực.
Một em khác cũng lớp đệ nhị, hỏi ý kiến tôi về một chuyện hết sức
bất ngờ. Em có ý định giết một người đàn ông vì đã làm hại đến gia đình em.
Người này thường rủ rê ba em rượu chè, cờ bạc nên ba em về nhà hay đánh đập
chửi rủa vợ con. Em nói đã kiếm được một quả lựu đạn và chọn địa điểm trên một
quãng đường vắng để sát hại người kia. Tôi đã phân tích mọi điều và cuối cùng
thuyết phục được em bỏ ý định nguy hiểm và thực hiện những giải pháp khác có
hiệu quả hơn. Về sau gia đình em cũng trở lại hòa thuận.
Khi được học sinh tin cậy trao gởi những điều trọng đại trong cuộc
đời, người thầy phải luôn tự vấn mình phải làm gì để xứng đáng với sự tin cậy
đó.
Vì tất cả những điều trên và những gì tương tự, có lẽ hình
ảnh một giáo sư văn chương trong mắt học sinh có cái gì khá đặc
biệt. Đó là hình ảnh một người thầy có sức hấp dẫn bởi sự uyên bác, tài hoa và
có chất lãng mạn – nghệ sĩ. Những bài giảng về văn chương là bài giảng về tâm
hồn, về cảnh ngộ con người trong nhiều hoàn cảnh sống, về nhân sinh quan, về
nghệ thuật thơ văn đi vào lòng người chứ không phải chỉ là kiến thức. Kiến thức
có đầy trong sách nhưng truyền được ngọn lửa cho thế hệ trẻ đòi hỏi người thầy
phải có tài năng đặc biệt trong nghệ thuật thuyết phục và giáo dục.
Như đã nói ở trên, vào thời kỳ tôi đi học Sư Phạm Việt văn, phần
lớn sinh viên có “mộng văn chương” chứ không phải chỉ là chọn nghề hay vấn đề
cơm áo. Điều này được chứng thực bằng thành quả tiếp theo trong hoạt động
văn học, ngoài việc giảng dạy.
Chỉ trong khoảng thập niên 60 của thế kỷ trước, ở Đại học Sư Phạm
Huế, mỗi năm ban Việt văn chỉ có khoảng từ 10 – 20 sinh viên, nhưng sau khi ra
trường một thời gian, trong số này đã xuất hiện nhiều nhà văn (có
người đã có bài đăng báo, xuất bản thơ ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại
học). Có thể kể (theo thứ tự thời gian tốt nghiệp):
- Ngô
Kha: Tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế. Tác phẩm nổi tiếng: Hai
tập thơ “Hoa cô độc” và “Ngụ ngôn của người đãng trí”. Bị thủ tiêu một cách mờ
ám vì tham gia tranh đấu trong phong trào đấu tranh đô thị Miền Nam.
- Đoàn
Khoách: Tốt nghiệp thủ khoa Đại Học Sư Phạm Huế năm 1960 với huy chương vàng.
Tác giả nhiều sách nghiên cứu cổ văn và sách dịch Hán – Việt. Hiện là giảng
viên Viện Việt học ở Westminster, California Hoa Kỳ.
- Nguyễn
Mộng Giác: Tốt nghiệp thủ khoa ĐHSP Huế 1963. Tác phẩm tiêu biểu: Hai bộ trường
thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ” và “Mùa biển động”. Đã qua đời ở Mỹ.
- Trần
Quang Long: Tốt nghiệp 1965. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần
Hoàng Phong. Tác phẩm tiêu biểu: Thưa Mẹ Trái Tim (thơ tuyển). Hi sinh trong
chiến đấu.
- Nguyễn
Đắc Xuân: Rời trường 1966. Nổi tiếng trong lãnh vực nhiên cứu, biên khảo về
Huế.
- Trần Duy Phiên: Tốt nghiệp 1967. Tác phẩm tiêu
biểu: Trước khi mặt trời mọc (tập truyện trước 1975). Sau 1975 xuất bản hàng
chục tập truyện ngắn và truyện dài “Trăm năm còn lại”.
- Đông
Trình (Nguyễn Đình Trọng): Tốt nghiệp 1968: Tác phẩm tiêu biểu: Rừng dậy men
mùa (tập thơ trước 1975). Sau này tiếp tục xuất bản hàng chục tập thơ khác. Hội
viên Hội Nhà Văn Việt Nam.
- Trần
Hồng Quang (Trần Minh Thảo): Tốt nghiệp 1968. Cây bút chủ lực viết chính luận
trên tạp chí Đối Diện trước 1975.
- Trần
Hữu Lục: Tốt nghiệp 1968. Tác phẩm tiêu biểu: Cách một dòng sông (tập truyện
trước 1975). Tiếp tục sáng tác thơ văn cho đến hiện nay. Hội viên Hội Nhà Văn
Việt Nam.
- Tần
Hoài Dạ Vũ (Nguyễn Văn Bổn): Tốt nghiệp ĐHSP Huế 1969. Xuất bản nhiều tập thơ,
chuyên khảo về Văn nghệ dân gian, hồi ký lịch sử “Phác thảo chân dung một thế
hệ”. Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.
- Nguyễn
Phú Yên: Tốt nghiệp 1969. Sáng tác thơ và nhạc. Nổi tiếng với ca khúc “Thuyền
em đi trong đêm” trong phong trào “Hát cho dân tôi nghe” trước 1975.
- Ngô
Văn Ban. Tốt nghiệp 1970. Chuyên khảo về văn nghệ dân gian. Hội viên Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam.
- Trần
Kiêm Đoàn: Tốt nghiệp 1970. Nổi tiếng với các tác phẩm chuyên khảo về Huế, về
Phật giáo và tiểu thuyết “Tu bụi”. Hiện sống và giảng dạy đại học ở Mỹ.
Đây là danh sách chưa đầy đủ, nhưng với chỉ ngần ấy thôi có lẽ
cũng đã có thể làm người ta kinh ngạc. Và chắc chắn rằng những
người này và bạn bè của họ, không hề là những kẻ “chuột chạy cùng sào mới vào
sư phạm”. Ngược lại, một số không ít trong họ, là những tinh hoa, vừa là những
người thầy đáng kính đào tạo được rất nhiều thế hệ học sinh, vừa là những tài
năng đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà.
Văn học là nhân học. Dạy văn tức dạy người. Lại còn chuyện liên
quan đến “tương lai văn học nước nhà”. Những điều này vô cùng khó, đòi hỏi rất
nhiều yếu tố và sự thành công có thể hiếm hoi nhưng đó là cái đích cho người
thầy dạy văn chương vươn tới. Không chỉ là chương trình, sách giáo khoa, phương
pháp giảng dạy, dù cải tiến đến đâu cũng mới chỉ là vấn đề kỹ thuật (mà hiện
nay người ta cứ “cải tiến cải lùi” mãi không xong), cao hơn nữa phải là tài
năng, nhân cách, lý tưởng của người thầy. Điều này hiện nay vẫn đang chỉ là một
giấc mơ của những người có tâm huyết với nền giáo dục …
Đà Lạt 3/11/2014
TDBCNguồn: Diendantheky
_______________
Trích: (Có lần ở lớp đệ tứ (lớp 9), tôi đã cho các em thuyết trình về tập truyện ngắn “Trước khi mặt trời mọc” của Trần Duy Phiên, bạn tôi, khi vừa được tạp chí Đối Diện xuất bản) - Học sinh trường Trung học Hoàng Đạo Kontum từng học như vậy và thầy là Trần Duy Phiên.