Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
DANHNHANVIET. Blog Ô Sin đăng bài về Tướng Giáp: ..."Ngoài tài năng còn có một yếu tố quan trọng khác, ông là một người có đầu óc thực tiễn ghê gớm, luôn tổng kết trong thắng, trong bại để tìm ra cách đánh mới". Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng đã quyết định thay đổi từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chậm, thắng chắc”. Một quyết định mà theo GS Phan Huy Lê, trở thành nhân tố làm nên Điện Biên Phủ. Một quyết định mà theo thượng tướng Lê Trọng Tấn, tránh cho toàn bộ lực lượng của ta bị “phơi áo” trong lòng chảo Điện Biên. Nhưng quyết định đó không chỉ là kết quả của “11 ngày đêm trăn trở”. Theo thiếu tướng Lê Phi Long, từ tháng 5-1953 sau trận Nà Sản, Đại tướng đã quyết định thành lập một tổ nghiên cứu 24 người nằm trong rừng lim khu căn cứ Định Hóa để “chuẩn bị lý luận đánh tập đoàn cứ điểm”. Tướng Lê Phi Long là một trong 24 sỹ quan nằm trong “Tổ Nghiên Cứu” ấy. Bài "Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy" lưu lại những tư liệu quý (chép lại từ Blog Osin và Huy Đức: Tướng Giáp - Chương 15, Tập II của "Bên Thắng Cuộc")cùng với bài Quyền bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử Việt Nam hiện đại, bình luận của nhà nghiên cứu Lê Mai để rộng đường dư luận. Riêng bài "Trí tuệ bậc Thầy" của John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên Giáp, tạp chí George tháng 11 năm 1998, tôi chưa kịp chép lại, xin mời quý bạn đọc tìm xem bản dịch tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 "Không phải huyền thoại (tái bản lần thứ tư). Nhà Xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, trang 564-569. Hoàng Kim (thu thập, tổng hợp và biên soạn)
Xem tiếp:
TƯỚNG GIÁP
Blog Osin
Những đoạn (…) là tự ý đục bỏ
Tiếng vỗ tay như vỡ tung Cung Hữu Nghị Việt Xô khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn giọng: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là Tổng Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng Tướng Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng, những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; lăn khi, tiếng vỗ tay vẫn cứ kéo dài. Hôm ấy là ngày 6-5-1994, tại Hà Nội, Nhà nước tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Bài diễn văn dài của Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ vỏn vẹn có 59 từ nói về Tướng Giáp, lại được viết rất công thức, “rào đón” bằng cả “Bộ Chính Trị” và “Bác Hồ”. Sở dĩ, chúng có thể tạo ra sự rung động đặc biệt đến vậy, là vì đó là lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ, cái tên Võ Nguyên Giáp lại được nhắc đến trong một buổi lễ chính thức. Điện Biên Phủ là một chiến thắng “chấn động”, một chiến thắng đưa Võ Nguyễn Giáp trở thành một bậc tướng huyền thoại. Nhưng, năm 1984, khi chuẩn bị số đặc biệt mừng 30 năm Điện Biên, vào giờ chót, một tờ báo lớn đã phải “bóc” hình Tướng Giáp.
…
Trước lễ 7-5-1994, khi gặp phỏng vấn ông, tôi đã đặt một câu hỏi mà sau đó, báo Tuổi Trẻ “tự ý đục bỏ”: Thưa Đại tướng, khi Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra, Đại tướng đang là Bộ trưởng Quốc Phòng, Bí thư Quân ủy, Tổng Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang, nhưng tại sao vai trò của Đại tướng rất ít được nhắc tới trong hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân của tướng Văn Tiến Dũng? Tướng Giáp đáp: “Nhật ký Tổng Hành Dinh ghi rõ, trong những ngày ấy, tôi lệnh gì, anh Ba (Lê Duẩn) lệnh gì. Tôi nghĩ, các nhà sử học muốn tìm hiểu sự thật nên tiếp cận với các tài liệu chính thức ở Tổng Hành Dinh thay vì thông qua lời tuyên bố của một ai đó”. Khi nói tới “Nhật ký Tổng Hành Dinh” ông quay qua nói với thiếu tướng Lê Phi Long, người cùng có mặt trong buổi phỏng vấn: “Cậu biết rõ điều này, Phi Long”.
Thiếu tướng Lê Phi Long nguyên Cục phó Cục Tác chiến, là người từng có nhiều năm làm việc trong Tổng Hành dinh. Có những giai đoạn như Mậu Thân, tướng Long được giao nhiệm vụ theo dõi chiến trường, mỗi ngày làm 3 báo cáo, sáng (6g), trưa (12g), chiều (6g) cho một số ủy viên Bộ Chính trị. Ông, có thể nói, vừa là một chứng nhân, vừa là một người tạo ra lịch sử. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông Lê Phi Long là Chủ nhiệm “Hướng Tây Nguyên”, ở bên cạnh Tướng Giáp cho đến giai đoạn quyết định, được giao làm Trưởng phòng Tác chiến “Cánh quân Duyên Hải” do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, “thần tốc” đánh từ Trị Thiên vào thẳng Dinh Độc Lập.
…
Tướng Giáp kể lại rằng, trong cái ngày 30-4 ấy, sau khi nhận được tin báo Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Ông đã rời Tổng Hành Dinh, một mình bước ra phố. Khi đó ông có cái cảm giác của một tướng quân đã đánh xong thành lũy cuối cùng, đã hoàn thành nhiệm vụ. Có lẽ trong giờ phút hạnh phúc đó, Tướng Giáp không thể ngờ những gì sắp xảy ra với mình.
… Tháng 3 năm 1985, Tướng Giáp, lúc này đã không còn chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông có Tướng Lê Trọng Tấn, lúc bấy giờ là Tổng Tham mưu Trưởng và Tướng Lê Phi Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình Cẩn ở Huế. Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: “Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì về mình không?” Tôi trả lời. Anh bảo: “Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hóa thành 3 thái độ: một là thẳng thắn đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có điều kiện thì chọn cách 2, còn cách 3, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của Tướng Giáp vào Đà Nẵng bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế giành cho Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh ủy viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn bình thản”. Đêm ấy, Đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo chương trình, đoàn sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Mời ai đã có chủ định, kế hoạch cả. Ai không có giấy thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì có Tổng Bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể, “chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến, thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”. Lập tức, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân Khu 5 tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Quân Khu 5, đương nhiên phải tuân lệnh. Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông, họ đến không phải được triệu tập. Họ đến để xem mặt vị tướng lừng danh mà họ vô cùng yêu mến.
…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Tướng Giáp kể: “Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa quân Cần Vương, mỗi khi Tây về làng bà ngoại lại phải bỏ mẹ tôi vào quang thúng gánh chạy”.
Những năm học ở Trường Quốc học Huế, cậu Giáp học rất xuất sắc, thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai. Con gái cụ Mai, bà Đặng Bích Hà, sau này là phu nhân đại tướng, kể: “Ba tôi lớn hơn nhà tôi một giáp, nhưng hai người là bạn vong niên, rất thân nhau”.
Năm 1929, 18 tuổi, lần đầu tiên Giáp ra Hà Nội. Một người đồng chí của ông ở Tân Việt, ông Nguyễn Văn Tạo, dẫn ông ra Cửa Bắc, thành Hà Nội để nhìn hai vết đạn đại bác của Pháp đánh dấu thành Hà Nội thất thủ. Tướng giữ thành Hoàng Diệu tự sát. Lúc dạy học ở Thăng Long, ông Giáp thường nói về tinh thần yêu nước và quá khứ anh hùng. Ông vẫn thường dẫn học trò ra đê Giảng Võ coi mộ Francis Garnier; ra Cầu Giấy chỉ cho học sinh mộ Henri Rivière để nung nấu họ tinh thần chống Pháp.
Một trong những học trò của Tướng Giáp, ông Bùi Diễm, một người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa năm 1965, nhớ lại: Khi tôi vào trường Thăng Long, nơi đây đã sôi sục ý chí chống Pháp và những cuộc tranh luận về tương lai cho xã hội Việt Nam. Ban giáo sư gồm những người như ông Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giam, Trần Văn tuyên… Nhưng trong tất cả những nhân vật đáng nhớ, đặc biệt có một người tôi khó quên: đó là ông Võ Nguyên Giáp, người dạy tôi về môn Sử. Dáng người nhỏ nhắn song nhìn vào ông thì thấy cả một bầu nhiệt huyết. Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân (Napoléon) rất ly kỳ. Ông trình bày tường tận chiến thuật và chiến lược của Nã Phá Luân bằng cách tả rõ từng trận đánh nhỏ một. Hình như ông đã in tất cả trong đầu và Sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó. Trong giờ ông giảng, học sinh thường im lặng như tờ… (Bùi Diễm- Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai, 2000, tr. 21,22,23).
Lần ra Hà Nội năm 1929 để bàn với chi bộ Vinh và Hà Nội tổ chức cho Nguyễn Thị Minh Khai đi thoát ly, theo lời kể của chị Hồng Anh, con gái Tướng Giáp: “Cha tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái (cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh đẹp của Nguyễn Thị Minh Khai-HĐ). Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi (Quang Thái) lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xõa, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”. Năm 1935, họ cưới nhau.
Năm 1940, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được tổ chức đưa sang Vân Nam. Giáp chia tay với người vợ trẻ Nguyễn Thị Quang Thái khi họ vừa có Hồng Anh, con gái đầu lòng. Đó là lần chia tay cuối. Sau khi Giáp ra đi, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt và năm 1944 chết trong nhà tù.
Năm 1946, Võ Nguyên Giáp tới thăm gia đình ông Đặng Thai Mai khi gia đình giáo sư vừa rời Sầm Sơn ra Hà Nội sau khi từ chối một chức bộ trưởng trong chính phủ Trần Trong Kim. Năm ấy, bà Đặng Bích Hà bước sang tuổi 19, đẹp và là “tiểu thư” trong một gia đình danh giá. Mối tình của họ đã đưa bà Đặng Bích Hà lên chiến khu, sinh cho ông thêm hai cô gái, và đúng năm 1954 sinh hạ người con trai thứ nhất, đặt tên là Võ Điện Biên.
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới thứ hai đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Từ đó ông không có thêm cơ hội để học qua bất cứ một trường lớp nào. Có lẽ, chính những năm dạy sử ở Trường Thăng Long đã hình thành nên tư duy quân sự ấy.
Thiếu tướng Lê Phi Long cho rằng: “Ngoài tài năng còn có một yếu tố quan trọng khác, ông là một người có đầu óc thực tiễn ghê gớm, luôn tổng kết trong thắng, trong bại để tìm ra cách đánh mới”. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng đã quyết định thay đổi từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chậm, thắng chắc”. Một quyết định mà theo GS Phan Huy Lê, trở thành nhân tố làm nên Điện Biên Phủ. Một quyết định mà theo thượng tướng Lê Trọng Tấn, tránh cho toàn bộ lực lượng của ta bị “phơi áo” trong lòng chảo Điện Biên. Nhưng quyết định đó không chỉ là kết quả của “11 ngày đêm trăn trở”. Theo thiếu tướng Lê Phi Long, từ tháng 5-1953 sau trận Nà Sản, Đại tướng đã quyết định thành lập một tổ nghiên cứu 24 người nằm trong rừng lim khu căn cứ Định Hóa để “chuẩn bị lý luận đánh tập đoàn cứ điểm”. Tướng Lê Phi Long là một trong 24 sỹ quan nằm trong “Tổ Nghiên Cứu” ấy.
Năm 1975, kết thúc chiến tranh. Năm 1977, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cho thôi chức Bí thư Quân ủy trung ương, thôi bộ trưởng Bộ Quốc phòng, những chức vụ mà ông được giao kể từ năm 1946. Năm 1982, ông không còn là ủy viên Bộ Chính trị. Năm 1983, ông được giao kiêm nhiệm chức Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1983, dân gian làm thơ: “Nhà thơ làm kinh tế/Thống chế đi đặt vòng”. Cũng trong năm 1983 ấy, ông về quê, thảnh thơi đi bộ ra chợ Tréo (huyện Lệ Thủy, Quảng Bình). Chợt hỏi: “Bún chợ Tréo chấm ruốc, giờ có còn ngon không?”. Mấy người dân quê nghe “bún chấm ruốc” từ miệng vị tướng lẫy lừng, không hiểu sao, òa khóc.
(Phần cuối bài này có sử dụng một số chi tiết tôi đã viết trên tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, tháng 5-2004)
MỘT SỐ CẢM NHẬN
1.AC-ARIZONA COWBOY
08/05/2009 7:42 pm
Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào?
theo báo Quân đội nhân Dân, Thứ Tư, 09/01/2008, 09:07 (GMT + 7) có đoạn :
Quân ủy Trung ương Gồm các đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng. Khi đồng chí Nguyễn Chí Thanh vào Nam, đồng chí Phạm Hùng thay. Các đồng chí Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn chỉ dự những cuộc họp của tập thể Bộ Chính trị.
Đáng chú ý là trong quá trình hình thành quyết tâm và kế hoạch chiến lược cũng như trong những ngày đầu của đợt 1 của cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1968, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhiều lần vắng mặt ở Tổng hành dinh và không tham gia một số cuộc họp quan trọng của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cũng như cuộc họp của Tổ 5 đồng chí Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương.
http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.quocphong.nghethuatquansu.27876.qdnd
——————————-
1963 đến 1967, Cục bảo vệ quân đội theo lệnh của Bộ nội vụ và Trưởng ban tổ chức trưng ương Đảng bắt giữ hàng loạt cán bộ ở Bộ quốc phòng, Bộ tổng tham mưu, được coi là thân cận nhất của tướng Giáp từng chiến đấu ở Điện Biên phủ . Do một số sĩ quan thân tín của ông Giáp bị xử trong ” vụ án xét lại chống Đảng” nên Tướng Giáp bị quản thúc từ năm 1967 .
Có lẽ vì không có Ông Tướng Giáp nên các trận đánh năm 68 Mậu Thân + khe sanh, Quân miền Bắc thương vong trên 160,000 quân, hầu như toàn bộ cơ sở nội thành nằm vùng bị lộ và bị tiêu diệt ( theo tài liệu hội đàm Lê Duẩn và Mao tại Bắc Kinh được bạch hoá ) .
Từ cuộc chiến 7 ngày (5-6-1967) giữa Khối ả rập Ai cập, Siria, Jordan.. và Isarel. Mao Trạch Đông và Kissinger ( gốc Dothái) bắt tay nhau để chống Liên Xô, lúc đó đang bành trướng với khối Ả rập tại bán đảo Sinai đe doạ khống chế kinh Suez, tiêu diệt Isarel và các nước ả rập cung cấp dầu cho Mỹ .
Năm 1969 Mỹ bắt đầu quá trình ố ạt rút hơn 500 ,000 quân khỏi VN, cắt dần viện trợ bỏ mặc miền Nam , đem toàn lực để đối phó cuộc chiến tại vùng Cận Đông bán đảo Sinai hòng bảo vệ Isarel. Đám Do thái tại Mỹ, vì quyền lợi Isarel, hậu thuẩn Đảng Dân Chủ kích động phong trào biểu tình chống việc Mỹ tham gia cuộc chiến tại Đông Dương ..
Cuộc chiến từ năm 1969-1970 do Ai Cập khởi xướng tấn công Isarel với mục tiêu giành lại bán đảo Sinai.Cuối cùng, các bên ký kết thỏa thuận ngừng bắn và không thay đổi về lãnh thổ.
Ngày 6-10-1973 Ai Cập tấn công vào Sinai, còn Syria tấn công vào Golan. Kết quả là quân đội của Syria và Ai Cập đều bị Israel đẩy lùi, sau đó các bên trở về vị trí cũ.
Từ 1969 viện trợ của Trung quốc giảm rất nhiều và vận chuyển vũ khí từ Liên Xô viện trợ qua ngã Trung Quốc càng khó khăn và hay bị mất cắp, do không muốn VN có thể Thống Nhất , ngược lại để tạo thế chiến trường phối hợp chiến đấu với Khối Ả-rập, tại bán đảo Sinai, Viện trợ Vũ khí từ Liên Xô và khối Warszawa tăng lên rất nhiều và toàn vũ khí tối tân hơn hẳn quân Miền Nam như: hơn 1000 xe tăng T54 và PT76, Pháo 130mm bắn xa 27km với đạn xuyên phá bongke, hoả tiễn tầm nhiệt SA-2 , SA-7 Strella đối không, hoả tiễn chống chiến xa AT 3 - Sagger , Sam-2, Sam-3, Mig -21, Pháo phòng không 57ly, các dàn radar tối tân ,
Tháng 9 năm 72 Miền Bắc khi các sư đoàn 2 và 3 sao vàng, 304, 308, 324B, 325, 320B, 312, …. thương vong nặng hơn 120,000 quân chết tại KonTum, Quảng trị , An Lộc, Bình Long, ( chết nhiều hơn vì Bom B52)
Còn Quân Miền Nam hơn 60,000 lính tử trận,40% là lính Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến , Sư đoàn 22 gần như xoá sổ Lữ đoàn Thiết kỵ mất 1,170 binh sĩ, khoảng 200 thiết giáp, xe tăng gồm M-48, M-41 và M-113, 140 khẩu đại bác, Sư đoàn 3 tổng cộng có 2,700 người chết, thiệt hại tới 75%, các Liên đoàn BÐQ thiệt hại nặng trên phân nửa khả năng chiến đấu, chưa kể dân thường chết vô số. Tại Saigon nhà nào cũng có người thân leo lên bàn thờ vào năm 1972.
Hai Miền Nam Bắc dùng Pháo Nga, Bom Mỹ , đập nhau chí chết . Kết cục hội nghị Paris cả 2 miền đều thua , Tàu Cộng và Mỹ bắt tay nhau “tọa sơn quan song hổ đấu” bỏ mặc hai thằng Việt Nam chém nhau lòi phèo . Tuy nhiêncuộc đời có những bất ngờ.
Năm 74 khủng hoảng gía xăng dầu tăng gấp 4 lần, vàng tăng gấp 2 gây khủng hoảng kinh tế tại nhiều nước Tư Bản , GDP của Nhật giảm 13%, Tàu xua quân chiếm Hoàng Sa, Mỹ không chỉ ngó lơ mà còn cắt giảm viện trợ Vũ khí Quân dụng , khiến lúc đó Quân miền Nam nhiều đơn vị thiếu đạn, thiếu phụ tùng thay thế cho chiến cụ , thiếu Bom, thiếu xăng, không quân thiếu những chuyến bay C-130 vận chuyển quân và vũ khí trở nên hiếm hoi. Mỗi Ngày hàng ngàn các đơn vị tiền phương điện về xin tiếp vận và câu trả lời luôn là “biết rồi ,khổ lắm, nói mãi, cố chờ “. Tướng Do Thái độc nhãn Moshé Dayan đến VN còn xúi : “Miền Nam phải thua vào tay Cộng Sản mới thắng được”.
Đầu năm 75, Quốc Hội Mỹ giáng thêm đòn “cắt hầu hết viện trợ ” coi như tình hình Quân Lính Miền Nam chết chắc, trong khi Khối Cộng Sản và Liên Xô vẫn không ngừng viện trợ cho Miền Bắc.
Thời gian này CIA bắt liên lạc với MTGPMN và bật đèn xanh hậu thuẫn chống lưng cho đám thành phần thứ 3 tại miền Nam ra mặt gây hỗn loạn trong chính trường, giống thời giết TT Diệm, lá bài Dương Văn MInh lại được CIA sử dụng một lần nữa, ông Thiệu buộc từ chức và đi lưu vong nếu không có thể bị giết trong xe M113 như Ông DiệmNhu. Có những thoả thuận về các giải pháp cho Miền Nam giữa Mỹ và Trung Ương Cục Miền Nam tuy nhiên sau khi “Giải Phóng ” Miền Nam điều đó đã không được thực hiện do MTGPMN đã bị giải tán, nhiều người vô tù , trong đó có nhiều sĩ quan lính của Tướng Trà được học tập cải tạo chung trại với sĩ quan miền Nam.
Điệp viên CIA tiếp xúc với Tướng Trần Văn Trà, đang ở Trại David và hội đàm bí mật với Trung ương cục Miền Nam, CIA đã khẳng định thông tin Mỹ thực sự chấm dứt viện trợ cho miền Nam, không xử dụng Không yểm B52 và Pháo hạm của hạm đội 7 nữa, thời cơ chín mùi rồi, mời các ông xơi cho lẹ. Tướng Trà và Phạm Hùng đích thân tức tốc ra Bắc báo cáo tình hình và đề nghị hướng tấn công Ban Mê Thuột ngay trong năm 1975.
Chính vì có sự bảo đảm đó nên Ông Giáp mới quyết định cho Bộ Đội hành quân công khai trên quốc lộ 1, dọc theo bờ biển trên 1000km trước mũi súng của Hạm Đội 7 .. nếu Mỹ chỉ cần bắn chặn hoặc oanh kích tại bất cứ một điểm nào thì tình hình sẽ biến chuyển khác hẳn.hoặc cung cấp cho không quân miền Nam vài trăm trái bom CBU thì sẽ không có ngày 30-4-75. .
Do cách chỉ huy tấn công thần tốc của ông Giáp nên Trung Quốc bất ngờ không kịp trở tay,lúc đó 2 quân khu Quảng Đông và Quảng Tây đã có 200,000 Hồng Vệ Binh dàn sẵn tại biên giới Việt Trung chờ hiệu lệnh là tràn qua, với nội ứng của 100,000 thợ xây dựng, chuyên gia Trung Quốc lúc đó đang ở tại Miền Bắc,thì chỉ cần Dương Văn Minh nghe lời ông Tướng Pháp ra lệnh tử thủ thì cuộc chiến cũng sẽ chuyển hướng khác.
Trần Văn Trà và Võ nguyên Giáp có công lớn trong chiến thắng thần tốc tấn công Saigon tháng 4 năm 1975 nhưng bị phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ , Văn Tiến Dũng che giấu không cho phổ biến công trạng 2 ông này đến tận bây giờ.
Tướng thật sự giỏi của miền Bắc là Võ nguyên Giáp, Hoàng văn Thái, Nguyễn Hữu An , Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo và Kim Tuấn (chết khi đánh Kam puchia).
Giờ mới hiểu tại sao châu Âu hồi xưa tụi nó ghét người Do Thái.
2 Sự thật
08/05/2009 8:10 pm
Bài viết có nhiều điểm phiến diện, cảm tính. Tôi hoàn toàn KHÔNG đồng ý với tác giả.
Cũng như mọi người khác, tướng Giáp cũng có những điểm yếu, nhiều sai lầm trong chỉ huy. Ngay cả Nã Phá Luân (Napoleon) thần tượng của tướng Giáp cũng thua nhiều trận quan trọng và cuối cùng phải thất bại.
Vai trò của tướng Giáp trong đánh Pháp và trận Điện Biên là không thể phủ nhận, nhưng trong kháng chiến chống Mỹ thì không phải vậy. TBT Lê Duẩn đã bình luận về việc này như sau:
“Hồi đó (hồi đánh Mỹ), bộ trưởng quốc phòng nhát như thỏ đế, vừa đánh Mỹ mà vừa run như vậy này (ông co người lại run rẩy). Do đớ chúng tôi không để cho chỉ huy, chúng tôi phải trực tiếp nắm tình hình và chỉ đạo chiến tranh, và trên thực tế đã thay người khác trong nhiệm vụ Bộ trưởng Quốc phòng…”. ở một số cuộc họp khác, ở Hà Nội và Sài Gòn, ông cũng nói như vậy, đả kích rõ rệt đại tướng Võ Nguyên Giáp.
(buổi nói chuyện tại Tòa soạn báo NHÂN DÂN tháng 3.1983, trích Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín, nguyên Phó Tổng biên tập Báo ND)
Sự đánh giá của TBT Lê Duẩn là hoàn toàn khách quan và sự thật, tôi hoàn toàn đồng ý. Chính vì tướng Giáp định giữ cách đánh “chậm chạp” như thời Điện Biên, tức là cần tới 2 năm cho chiến dịch Hồ Chí Minh (từ đầu 1975 đến hết 1976). Nếu Bộ chính trị và TBT Lê Duẩn nghe theo thì bao giờ mới giải phóng được miền Nam, và nếu không thần tốc ngay trong mùa xuân 1975 thì có khi Mỹ đã quay lại và có thể đất nước vẫn còn bị chia cắt đến ngày nay.
Trích “Hồi đầu năm 1975, ông Giáp có phần lưỡng lự khi cân nhắc có nên đưa cả 15 sư đoàn bộ binh vào miền Nam không; lúc đầu ý ông dự định để quân đoàn 1 ở lại giữ “gôn”, có nghiã là giữ nhà, giữ căn cứ địa lớn của cả nước. Về sau, trên thực tế thì chỉ có 1 sư đoàn 308 ở lại mà thôi” (sách đã dẫn)
TBT Lê Duẩn đã hoàn toàn sáng suốt. Chủ trương thần tốc và quyết thắng đã thành công rực rỡ.
3 SỰ THẬT
@ Ô Sin: cám ơn anh đã trả lời. Mong anh sớm đưa ra luận điểm của mình để góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử.
Về phần tôi, tôi vẫn tin là tướng Giáp không có vai trò gì lớn trong chiến thắng cuối cùng năm 1975. Tất nhiên là so với những người nổi bật hàng đầu như Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng thôi. Chứ còn ở vị trí Bộ trưởng quốc phòng kiêm Phó thủ tướng, thì chắc hẳn tướng Giáp có đóng góp gì đó rồi, ít ra thì phải ngang với các thứ trưởng quốc phòng nhàng nhàng hồi đó là Song Hào, Lê Quang Đạo, Hoàng Văn Thái… Xét cho cùng thì chiến thắng là của toàn dân tộc, mỗi cá nhân ít nhiều đều góp phần. Chúng ta bàn là vai trò của những kiến trúc sư, nhưng người tướng lĩnh cao nhất.
Việc Bộ chính trị và người lãnh đạo cao nhất là TBT Lê Duẩn không tín nhiệm tướng Giáp là rõ ràng. Cương lĩnh đấu tranh giải phóng miền Nam của Lê Duẩn không được tướng Giáp ủng hộ. Tướng Giáp nghe lời các cố vấn quân sự Trung Quốc (vẫn như thời Điện Biên hic) là chỉ nên tiến hành chiến tranh du kích chứ không nên giao chiến trực diện với Mỹ dùng các đơn vị chính quy lớn của miền Bắc. Có người còn nói tướng Giáp là người “chủ hòa” hay nói cách khác là nhu nhược không quyết tâm trong việc giải phóng miền Nam bằng mọi giá (theo quan điểm xét lại “ai thắng ai bằng kinh tế chứ không phải vũ trang” của Khơ-rut-sôp năm 1964). Tôi thì chưa tin lắm vào điều này, có thể mâu thuẫn trong chiến lược thôi chứ không phải tướng Giáp là người hèn nhát như thế.
@ Hồng Minh: các thông tin về thời kỳ này trong tài liệu lịch sử chính thức đều rất chung chung, không nói nhiều về vai trò các cá nhân mà chỉ chú trọng về thành tựu tập thể của toàn Đảng toàn quân. Tài liệu chủ yếu bạn có thể tham khảo là:
+ “Đại thắng mùa xuân” của Đại tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy cao nhất trong quân đội hồi đấy về thực chất, dù ông Dũng chỉ là Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch HCM, đại diện Bộ chính trị và Quân ủy trung ương ở chiến trường. Trước khi mất năm 1967 thì Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người có thực quyền cao nhất, đủ cả đức lẫn tài. Từ 1967-1972 thì các tướng lĩnh khác chưa đủ bản lĩnh để đứng cao hơn tướng Giáp, trừ tướng Dũng. Đến năm 1975 thì tình hình hoàn toàn khác, vai trò của tướng Dũng và Bộ tổng tham mưu rất quan trọng, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chính trị.
+ Hồi ký của các tướng lĩnh sĩ quan khác như Lê Trọng Tấn, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Trần Độ, Bùi Tín (đã trích ở trên)
4 DUY KHANH
10/05/2009 // 4:03 am
Tôi khá ngạc nhiên khi có comment cho rằng Tổng Hành Dinh (THD) toàn chuyện lặt vặt, không xứng tầm, theo tôi là ngược lại!
Một số sử liệu quan trọng trong TỔNG HÀNH DINH TRONG MÙA XUÂN TOÀN THẮNG (sau đây viết tắt THD) (t/g Võ Nguyên Giáp), xuất bản năm 2004 và được giới thiệu nhiều kỳ trên báo Tuổi trẻ.
1. Chương 3: Chiến lược giải phóng miền Nam được Bộ tổng tham mưu dự thảo từ đầu năm 1973, do tướng Lê Trọng Tấn làm Tổ trưởng dự thảo phục vụ Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương. Dự thảo lần thứ … 8 được Bộ chính trị phê duyệt ngày 26-08-1974. Chiến lược nêu trọng điểm là Nam Tây Nguyên , miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng, dự kiến giải phóng trong năm 1975-1976. (Nên nhớ Lê Trọng Tấn là đệ tử số 1 của tướng Giáp và theo tôi có công lao, tài năng nhỉnh hơn Văn Tiến Dung).
2. Chương 5: VNG là Bí thư quân uỷ, Tổng Tư lệnh, nên Văn Tiến Dũng phải xin ý kiến VNG về các quyết định quan trọng. VD: trang 168, VTD muốn đánh Đức Lập rồi mới đánh Ban Mê Thuột, VNG không đồng ý thay đổi kế hoạch.
3. VNG và Bộ TTM trực tiếp chỉ huy quân đoàn II đánh Trị-Thiên và giải phóng Huế.
4. VNG thay mặt QUTW đề nghị mở mặt trận Quảng-Đà do Lê Trọng Tấn làm tư lệnh. VNG lệnh cho LTT nội trong 3 ngày phải bay từ Hà nội vào tổ chức đánh ngay Đà Nẵng (trang 238). LTT dứt điểm Đà Nẵng trong 32 giờ !
5. Ngày 7/4 VNG điện “thần tốc, thần tốc hơn nữa. táo bạo, táo bạo hơn nữa”, cánh quân phía Đông do LTT chỉ huy 32.000 quân tiến như vũ bão giải pho’ng Phan Rang, Phan Thiết vào đến Xuân Lộc 20/04 chi viện bộ binh và pháo hạng nặng cho Trần Văn Trà dưt điểm Xuân Lộc. (trang 286)
6. VNG lệnh Hải quân và Quân khu V giải phóng Trường Sa.
7. Ngày 29/04/1975 LTT (lúc này là Phó tư lệnh chiến dịch HCM, dưới quyền Văn Tiến Dũng) điện xin VNG thảo luận với Ba Duẩn cho đánh Saigon trước 12 tiếng so với kế hoạch. VNG và Ba Duẩn đồng ý. Tu huong Dong, Lê Trọng Tấn kéo quân thẳng vào Dinh Độc Lập ngaỳ 30/04 trước các cánh quân khac! (trang 333)
Các chi tiết trên đây đều được xác nhận bằng văn bản và công điện, nên có độ tin cậy rất cao. Nếu VN có chế độ giải mật các hồ sơ tại Bộ Tổng tham mưu như ở Mỹ chẳng hạn, thì chúng ta không mất nhiều thì giờ tranh luận.
Theo tôi, Văn Tiến Dũng có vai trò quan trọng trong mặt trâ’n Tây Nguyên và chiến dịch HCM. Võ Nguyên Giáp đóng góp lớn nhất trong việc giải phóng toàn bộ miền duyên hải phía Đông và chỉ đạo hướng đánh vào Sài Gòn của cánh quân phía Đông.
Lưu ý điểm số 7 đã nêu: LTT “qua mặt” VTD điện xin trực tiếp VNG và Lê Duẩn tấn công sớm vào chiếm Dinh Độc Lập cho thấy vai trò của Bộ tư lệnh chiến dịch HCM không quan trọng như trước đây bị thổi phồng.
5. SỰ THẬT
10/05/2009 10:15 am
Nói thêm về tướng Lê Trọng Tấn, “đệ tử số 1″ của tướng Giáp. Anh Ôsin nói tướng Giáp không phải là người chịu trách nhiệm chính về thất bại 1972. Tôi không rõ điều này có đúng không, nhưng thất bại của chiến dịch Quảng Trị 1972 có trách nhiệm chính của tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh chiến dịch này.
Trong 80 ngày đêm tại thành cổ Quảng Trị, tướng Tấn với chiến thuật “biển người” của tướng Giáp và cố vấn Trung Quốc đã gặp sai lầm nghiêm trọng, đưa rất nhiều lực lượng tập trung vào 1 khu vực diện tích nhỏ, làm mồi ngon cho bom và pháo của quân Mỹ ngụy. Rất nhiều chiến sĩ đã hy sinh ở đây, gồm cả anh Nguyễn Văn Thạc, người mới vào chiến trường chưa kịp bắn phát đạn nào thì đã hy sinh vì trúng đạn pháo. Rất đau lòng là hàng chục ngàn chiến sỹ quân giải phóng đã hy sinh ở đây mà cuối cùng vẫn không giữ được thành cổ.
Trong hồi Mậu Thân 1968, có thể anh Ôsin nói đúng là tướng Giáp không phải chịu trách nhiệm chính, vì hồi đó vụ án xét lại chống Đảng đang diễn ra với sự chỉ đạo trực tiếp của đ/c Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn, một loạt những người thân cận của tướng Giáp bị bắt và khai trừ Đảng như Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Nguyễn Văn Vịnh, Lê Trọng Nghĩa và những nhân vật có liên quan khác như Bùi Công Trừng, Hoàng Minh Chính… Nếu đúng như nguồn tin (chưa kiểm chứng) nói là nhóm tướng lĩnh sỹ quan này có tư tưởng “chủ hòa”, không quyết tâm giải phóng miền Nam bằng mọi cách như chủ trương của Đảng thì thật là tệ hại, không thể bào chữa được. Và nếu đúng là tướng Giáp có chủ trương như thế thì việc không bị cách chức là quá may mắn. Hồi đó chưa có chủ trương sinh đẻ có kế hoạch, nếu không tướng Giáp có thể bị điều sang giữ chức “trưởng ban kế hoạch hóa gia đình” ngay từ năm 1963 chứ không đợi đến mãi sau này là 1983. Đến khoảng 1971, khi vụ án xét lại chống Đảng đã làm rõ, tướng Giáp không liên lụy, và do đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời, nên tướng Giáp mới được quyền chỉ đạo lại từ năm 1972. Tuy nhiên năm 1975 thì lại khác như tôi đã phân tích ở trên, vai trò của đại tướng Văn Tiến Dũng là rõ ràng và không thể phủ nhận như cuốn sách “Đại thắng mùa xuân 1975″ là tài liệu chính thức đầu tiên được công bố sau 1975.
6. Tam Thái
11/05/2009 1:53 am
http://www.dddn.com.vn/10551cat137/thuong-tuong-hoang-minh-thao-van-nguyen-ven-nguoi-linh-thoi-binh-lua.htm
Tướng Hoàng Minh Thảo xếp hạng tướng lĩnh: “:Đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn. Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An”
“Chiến dịch Quảng Trị 1972 cũng vậy. Do không thực hiện đúng chỉ đạo của tướng Giáp là vòng qua Tây Huế nên khi địch phản công, chiếm lại Quảng Trị, thương vong rất cao. Sai lầm ở chiến dịch này là nghệ thuật quân sự không rõ ràng, không chú trọng phòng ngự”.
Theo “Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên”:
Theo kết quả bầu chọn tại Đại hội Toàn quân để bầu sĩ quan cao cấp tham dự Đại hội Đảng VI , Võ Nguyên Giáp và Lê Trọng Tấn đứng đầu danh sách 77 người tham dự Đại hội Đảng của Bộ Quốc phòng. Trong khi đó, Văn Tiến Dũng, khi đó là đương kim Bộ trưởng Quốc phòng không lọt vào danh sách này .
Hồ Chí Minh chỉ biết sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đã nổ ra khi nghe đài trong lúc đang dưỡng bệnh tại Trung Quốc.
7. DUY KHANH
11/05/2009 2:03 am
@ HUNG về bức điện “thần tốc…” của tướng Giáp: nó được chụp nguyên bản, có đánh số/ngày đàng hoàng, được in lại trong cuốn Nhật ký Tổng Hành Dinh tôi đã dẫn nên bạn có thể yên tâm nó là “hàng” ngon 100%.
Tôi rất thích lối viết sử có chứng cứ như thế chứ không phải kiểu “tôi nghe nói…thế này…thế kia”, rồi nhận xét chủ quan linh tinh về các nhân vật lịch sử mà chẳng có cứ liệu gì.
8. DUY KHANH
11/05/2009 3:44 am
Tôi trân trọng giới thiệu các bạn đọc cuốn Nhật ký Tổng Hành Dinh vì những cứ liệu lịch sử quan trọng của nó, để so sánh/đối chiếu với các cuốn hồi ký khác nhằm tìm ra sự thật khách quan
@ SUTHAT
1. Như tôi đã dẫn ở comment 130, Nhật ký THD là cuốn sách có giá trị chứ không phải là chuyện “dưa cà mắm muối” như bạn nhận xét. Cuốn sách nói lên vai trò quan trọng của LD, VNG, LTT, VTD,…đóng góp vào chiến thắng, nguợc với nhận xét của bạn là “tướng Giáp không có vai trò gì lớn trong chiến thắng cuối cùng năm 1975″.
Bạn có thể không đồng ý với quan điểm của tác giả, nhưng nhận xét cuốn sách giá trị và vai trò VNG như thế là vô căn cứ và không nghiêm túc. Tôi nghĩ rằng bạn chưa đọc kỹ cuốn sách này vì thành kiến của mình.
2. Hội nghị BCT góp ý cho Kế hoạch chiến lược trước khi phê duyệt (ngày 8/10/1974 kết thúc hội nghị) đã yêu cầu bổ sung “kế hoạch tạo thời cơ và đón thời cơ”, VNG khẳng định “thời cơ chiến luợc đã đến” (trang 136). Kế hoạch thì phải trung dung, còn thực tế thuận lợi thì phải chớp thời cơ đánh nhanh thắng nhanh. Thực tế VNG đã đánh điện “thần tốc…táo bạo…” 07/04/1975 in trong sách, cánh quân phía Đông tiến nhanh nhất vào giải phóng Sài Gòn.
Trừ phi bạn dẫn ra được tài liệu nào ghi lại VNG cãi lời LD không dám đánh nhanh, thì tôi nghi nhân ý kiến của bạn. Bằng không, bạn phải chấp nhận sử liệu giấy trắng mực đen.
3. Chiến dịch tây nguyên nằm trong kế hoạch chung được phê duyệt, lại có tư lệnh là Hoàng Minh Thảo là nguời rất am tường cao nguyên và đã quần thảo nhiều trận tại khu vực này với quân đoàn 2 VNCH, nhưng tôi vẫn ghi công đầu cho VTD - là đại diện của QUTW và Bộ tư lệnh tại chiến trường.
Ngược lại, bạn cho rằng VNG - Tổng tư lệnh, bí thư QUTW; và LTT - Tư lệnh mặt trận Quảng Đà, người chấp bút Kế hoạch chiến lược không có công bằng Tư lệnh quân đaòn 2 NG Hữu An, thì thật mâu thuẫn. Lập luận thế thì VTD cũng chẳng có công trạng gì nhiều, vì Kế hoạch chung do LTT soạn, thực hiện cụ thể do Tư lệnh mặt trận Tây nguyên HMThảo.
Sách ghi rõ các bức điện VNG và LTT chỉ đạo đánh Huế Đà Nẵng (trang 222 đến 255)
4. Dứt điểm Đà Nẵng 32 tiếng mà SUTHAT cho chưa phải là tài thì thật không công bằng. Chúng ta nên nhớ, Quân đoàn IV đánh Xuân Lộc mất gần 02 tuần lễ với lực lượng áp đảo mới xong. Chúng ta cần công bằng với công lao của VNG, LTT, Ng Hữu An.
5. Nhật ký THD không hạ thấp vai trò của BTL chiến dịch HCM mà nói rõ chi tiết về Bộ TTM, với VNG và LTT chỉ huy cánh quân phía Đông tìm ra được tử huyệt của Sài Gòn nên đã chọn cách đánh vòng qua Bà Rịa, Nhơn Trạch tiến vào Sài gòn sớm nhất. Trang 333 mô tả rất lý thú VNG giữa đêm đến nhà LD đề nghị LD ký lệnh cho LTT đánh sớm, thì LD bảo “Anh là Tổng tư lệnh, anh ký tên”. Các bức điện này chắc chắn còn lưu lại đầy đủ tại Bộ TTM và dễ dàng được kiểm chứng.
Chi tiết này đắt giá, vì theo như tuyên truyền trước đây thì mọi việc trong chiến dịch HCM đều do Tư lệnh VTD quyết định, không nói gì đến VNG, nay mới thấy vai trò quan trọng của VNG trong QĐNDVN nói chung và vào việc giải phóng Sàigòn nói riêng. Nếu VTD và Lê Đức Thọ là chỉ huy tối cao toàn quyền quyết định thì sao VNG lại dám quyết cho LTT đánh trước 12 tiếng, vớisự đồng ý của Lê Duận, rồi mới thông báo cho BTL chiến dịch HCM.
Tôi không có các ngụ ý là Bộ tư lệnh chiến dịch HCM chỉ “ngồi chơi”, hoặc LTT chỉ đạo toàn bộ chiến dịch. Tôi chỉ làm rõ là Bộ tư lệnh chiến dịch HCM và VTD trong thực tế không phải là quan trọng bao trùm lên tất cả, VNG là con số 0 tròn trĩnh, như VTD nêu trong Đại thắng mùa xuân.
Cám ơn SUTHAT đã tham gia tranh luận, dù sao tôi cũng cơ hội nhìn nhận lại lịch sử một cách rõ ràng hơn.
9. Lê
11/05/2009 5:28 pm
Bàn về ĐBP
Ai đã từng coi qua “Đường tới ĐBP” do tướng Giáp viết (tất nhiên là đã qua kiểm duyệt) mới hiểu được tại sao Ông là 1 trong 10 danh tướng hàng đầu thế giới mà VN vinh dự (và đau xót…) góp vào 2 nhân vật lừng lẫy. Tôi không theo SGK mà nói, sự thực mà nói ĐBP là mồ chôn sống danh tiếng cho bất tướng quân nào. .Nhìn vào quân lực, pháo binh, khí tài và kinh nghiệm chiến đấu của đoàn quân lê dương, pháo đài đó là không thể đánh hạ, ngừoi Pháp tin, người Mỹ tin. Các bạn trẻ hiện nay nghĩ trong chiến tranh bên nào đông là thắng, vũ khí hiện đại là thắng, vấn đề chỉ là thời gian, chiến tranh không đơn giản như vậy, ĐBP là 1 nghệ thuật pháo binh, chiến hào và tin thần thép
Bàn về 1972, 1975
Không bít thì không nói, nhưng con người từng ra những quyết định đau xót (Ông nhiều lần dùng từ “đưa quân đoàn dự bị” trong sách mà theo tôi hiểu là đội quân đi trước đã tử trận gần hết) không thể nào “co ro và run rẩy” như LD mô tả được. Hồi ký của Ông nếu dc, xin gửi cho 1 nhà xuất bản nước ngoài để con cháu VN và cả những người đứng bên kia chiến hào có cơ hội nhìn thấy được sự thật 1972 và 1975 ra sao
Bàn về cách ăn mặc
Tướng Giáp được đào tạo chính quy và học hành tử tế, sẽ là sự xúc phạm nếu đặt Ông ngang hàng với những vị lãnh đạo Đảng hiện nay, những người còn chưa biết đến lễ phục là gì trong những sự kiên quan trọng.
Vài lời..
Kính
10. Vietnam Quehuong
19/05/2009 3:02 am
Moi nguoi nen doc bai moi dang tren Vietnamnet de biet ai la nguoi da ra buc dien khan nay….
http://vietnamnet.vn/psks/2009/05/848384/
Người giải mã bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
09:24′ 19/05/2009 (GMT+7)
- Trong những năm chiến đấu nơi đại ngàn Trường Sơn, ông là người đã giải mã hàng ngàn bức điện mật của Bộ Tham mưu gửi vào miền Nam. Và, cũng chính ông là người chuyển thông điệp “thần tốc, táo bạo, bất ngờ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra cho chiến trường miền Nam. Ông là Đại tá Nguyễn Đức Mãi.
83 tuổi, thi thoảng bệnh tim lại hành hạ ông. Ấy vậy mà mỗi khi nhắc đến Trường Sơn, nhắc đến những trận đánh nơi ngút ngàn rừng xanh năm xưa, đôi mắt Đại tá Mãi lại rực sáng lên. Với ông, con đường huyền thoại Trường Sơn là máu, là hoa, là nơi mà ông đã chứng kiến bao đồng đội của mình ngã xuống cho nền độc lập nước nhà. Và cũng giữa nơi đại ngàn này, ông vinh dự là người giải mã những bức điện mật của Bộ Tổng tham mưu trong chiến dịch thống nhất đất nước.
Trường Sơn những năm 1959 …
Người lính già của Trường Sơn năm xưa rót nước mời khách. Những cơn ho sặc sụa kéo dài đang hành hạ ông. Thi thoảng, ông lại hướng đôi mắt nhìn vào cõi hư vô. Quá khứ hào hùng và oanh liệt về những năm tháng chiến đấu nơi ngút ngàn Trường Sơn lại hiện về trong ông. Rồi ông kể cho tôi nghe về những tháng năm chiến đấu nơi con đường huyền thoại Trường Sơn.
Tháng 5/1959, sau mấy ngày nghỉ phép về thăm gia đình, Nguyễn Đức Mãi lập tức lên đường vào nhận nhiệm vụ. Là lính cơ yếu đầu tiên của Đoàn 559 nên hầu hết những bức điện mật thời ấy đều qua tay của tổ cơ yếu và liên lạc. Và, chính đến tận bây giờ, ông Mãi cũng không thể nhớ mình đã giải mã bao nhiêu bức điện mật ở chiến trường.
“Trở lại chiến trường Quảng Bình sau mấy ngày phép, tôi lại lao nhanh vào công việc, đảm bảo cho đường liên lạc được thông suốt.
Tối 19/5/1959, sau khi kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ, tất cả chúng tôi được lệnh lên xe vào chiến trường mới. 15 chiếc xe vận tải quân sự bịt kín chạy về hướng Đông Nam, tất cả im lặng để giữ bí mật. Khi qua thị xã Đồng Hới, tôi quan sát thấy hầu hết người dân đã đi sơ tán, chỉ còn vài ánh đèn le lói từ một số gia đình ở lại.
Đoàn xe chạy lên phà Long Đại rồi rẽ về hướng tây Vĩnh Linh rồi dừng lại mở bạt ra, mọi người xuống hít thở không khí một cách thoải mái. Tôi ngắm nhìn cảnh núi rừng hùng vĩ, sừng sững bao quanh và hỏi ra mới biết đó là địa phận Khe Hó – Chúng tôi đóng quân ở đó. Khe Hó trở thành trụ sở chỉ huy đầu tiên của Đoàn 559” - Đại tá Mãi mở đầu câu chuyện.
Khe Hó (Vĩnh Linh) là địa điểm được chọn làm vị trí xuất phát của đường giao liên Trường Sơn đầu tiên. Sau khi xây dựng lán trại, tổ điện đài của Mãi được phân công đi theo phục vụ bộ phận Chỉ huy tiền phương do Đại úy Chu Đăng Chử phụ trách.
Đài đặt ở vị trí đỉnh 1701 động Voi Mẹp nằm phía bắc đường 9. Công việc chủ yếu thực hiện vào ban đêm nên vô cùng khó khăn, nhất là khâu đảm bảo bí mật tuyệt đối, vô tuyến điện của chỉ huy tiền phương 301 chỉ được liên lạc với vô tuyến điện của chỉ huy Lữ đoàn 341 ở Vĩnh Linh.
Thời kỳ đầu hoạt động của đường dây vận chuyển 559 này vô cùng gian khổ, sinh hoạt thiếu thốn, ăn ngủ trong những hang đá, dưới tán cây rừng và cứ hai ba hôm lại phải di chuyển để tránh bị lộ.
Cụ Mãi đã từng giải mã rồi mã hóa và truyền đi hàng ngàn bức điện mật quan trọng. Ảnh: Hoàng Sang - Đức Huy
Sau mấy chuyến hàng đầu tiên vận chuyển vào Quân khu V trót lọt, địch đánh hơi được hoạt động của ta nên chúng tăng cường tuần tra lùng sục suốt ngày đêm. Để đảm bảo bí mật về con đường vận chuyển, chúng ta phải tìm mọi cách né tránh không để lộ bất kỳ dấu vết nào.
“Đầu tháng 4 năm 1961, quân đội Sài Gòn cũ phối hợp với Ngụy quân Lào tổ chức trận càn dọc hai hành lang đường 9. Chính trong trận càn đó, hai trinh sát của ta không may bị rơi vào ổ phục kích của địch đã hy sinh, một đồng chí là Trần Tương (quê Quảng Nam), đồng chí thứ hai là Nguyễn Đức Thông (quê ở Diễn Châu – Nghệ An).
Sau trận càn hôm đó tôi đã gặp anh Hồ Ổi (một trong 3 thanh niên ưu tú người dân tộc Vân Kiều được Tỉnh ủy Quảng Trị cử sang làm trinh sát và liên lạc giúp Đoàn 301) và được anh kể lại rằng: Trần Tương bị địch bắt và tra tấn rất dã man, không khai thác được thông tin gì nên chúng giết anh và vứt xác giữa rừng.
Sau khi địch rút đi, đồng bào địa phương (người Vân Kiều) đã đem xác anh chôn cất. Trường hợp của Nguyễn Đức Thông thì bị địch phát hiện lán ở của tổ trinh sát, chúng bao vây phục kích xung quanh. Khi anh Thông vừa bước chân vào lán để nghỉ sau ca trực trinh sát, lập tức bọn địch hò nhau ập vào định bắt sống để khai thác thông tin. Với sức khỏe tốt, lại giỏi võ thuật, Thông quần nhau tay bo với cả tốp thám báo làm xéo nát cả một vạt cây cỏ dưới chân núi Động Tro. Không thể bắt sống được người chiến sĩ trinh sát kiên cường, bọn địch đã nổ súng giết anh rồi cắt tai đem về để lĩnh thưởng. Nguyễn Đức Thông và Trần Tương chính là hai liệt sĩ đầu tiên của Đoàn 559”.
Từ nòng cốt đầu tiên là Đoàn 301 với qui mô chỉ bằng một tiểu đoàn, theo yêu cầu ngày càng cấp bách của chiến trường miền Nam, Đoàn 559 ra đời với qui mô cấp Sư đoàn bao gồm nhiều binh chủng hợp thành dưới sự chỉ huy tài tình của vị tướng huyền thoại Đồng Sĩ Nguyên.
Người giải mã bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Trong suốt 17 năm công tác ở Trường Sơn, Đại tá Mãi đã từng giải mã rồi mã hóa và truyền đi hàng ngàn bức điện mật quan trọng.
Kể đến đây, mắt ông bỗng rực sáng, rồi ông đưa cho tôi bức ảnh chụp lại nội dung bức điện mà mình giải mã năm xưa. Giọng ông chầm chậm: “Ngày 7/4/1975, tôi nhận được bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận. Giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng! Truyền đạt tức khắc đến đảng viên và chiến sĩ”.
Nhiệm vụ đặt ra lúc đó là chúng tôi phải lập tức vừa giải mã nội dung bức điện, sau đó mã hóa theo các từ khóa mới đã qui ước với các đơn vị tiếp nhận rồi truyền mệnh lệnh đến tất cả các đơn vị đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường Hồ Chí Minh và tất cả các đơn vị đang hành quân trên đường.
Mệnh lệnh được phát qua sóng vô tuyến điện từ, bên phía địch và các phương tiện truyền thông thế giới đều có thể bắt được tín hiệu. Sau khi phát đi, chúng tôi hồi hộp và lo lắng theo dõi đài BBC xem bức điện mật có bị lộ không. Tuy nhiên đến mấy ngày sau vẫn không thấy hãng thông tấn quốc tế bám rất sát diễn biến cuộc chiến tranh Việt Nam này nói gì. Mãi đến ngày 30/4, khi quân ta tiến vào cửa ngõ Sài Gòn mà phía địch vẫn còn ngỡ ngàng.
Sau khi bí mật của bức điện này được giữ cho đến những giây phút cuối, Đại tá Mãi lại là người vinh dự đầu tiên ở Đoàn 559 biết quân ta đã tiến vào Dinh Độc lập, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
“11 giờ ngày 30/04/1975, chúng tôi lại vinh dự nhận được bức điện mật của Bộ chỉ huy mặt trận cánh Đông do Trung tướng Lê Trọng Tấn chuyển về Bộ Tổng tham mưu với nội dung:10 giờ ngày 30/04, toàn bộ Lữ đoàn 203, E9, E66PB, CX của Quân đoàn 2 đã vào Sài Gòn chiếm lĩnh dinh Độc Lập, bắt Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu cùng nhiều nhân viên cao cấp quân đội Sài Gòn cũ đang họp. Dương Văn Minh ra Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng (12 giờ, giờ Sài Gòn).
- Quân đoàn 2 đang tiếp tục bố trí lực lượng.
- Quân đoàn 4 đang tiếp tục chiếm lĩnh các mục tiêu”.
Cất giữ những báu vật. Ảnh: Hoàng Sang - Đức Huy
Mặc dù nằm giữa núi rừng Trường Sơn nhưng những người lính cơ yếu chúng tôi là một trong những người vinh dự được biết tin chiến thắng sớm nhất, trước cả Bộ Tổng tham mưu. Nhận được bức điện xong lập tức chúng tôi giải mã rồi lập từ khóa mã mới chuyển sang trạm trung gian tiếp theo để nhanh chóng truyền ra Bộ Tổng tham mưu ở Hà Nội, để các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng kịp thời mở đài phát thanh theo dõi lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh”.
Miền Nam những ngày 30/4/1975 rợp cờ hoa chiến thắng. Những ngày đó, ở núi rừng Trường Sơn, Đại tá Mãi vẫn cùng đồng đội miệt mài giải mã bức điện mật để gửi tin chiến thắng ra Bộ Tổng tham mưu.
Đất nước thống nhất, ông lại về quê nhà tiếp tục sự nghiệp binh nghiệp. Và trong căn nhà nhỏ, những kỷ vật về một thời máu lửa nơi đại ngàn Trường Sơn vẫn được ông lưu giữ cẩn thận. Ông gọi 2 phiên bản của bức điện mật là “báu vật của cuộc đời”.
*
Nhóm PV
Nguồn: blog Osin
TƯỚNG GIÁP
Huy Đức
(Chương 15, trong sách Bên Thắng Cuộc, Tập II. Quyền Bính, Nhà Xuất bản OSINBOOK, 2012, tr. 134-178; Nguồn: http://viet-studies.info/kinhte/HuyDuc_TuongGiap.htm)
Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.
Vụ Án “ Năm Châu - Sáu Sứ ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, uỷ viên Bộ Chính trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết (173)”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khoá IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với tướng Giáp, còn tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các uỷ viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khoá VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được(174). Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khoá, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”(175). Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan tướng Trà và tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi” (176).
Năm ấy, tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi (177). Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
“ Cách mạng miền Nam ”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình” (178).
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên toà xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước toà. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư (179).
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn chiến sỹ trong đó có ba nữ (180). Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng. Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng tướng Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ (181). Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực (182).
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ Tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba làm phó Tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó” (183).
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm Tổng bí thư thay Trường Chinh, uỷ viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức Tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm 1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình” (184). Ngày 9-7-1956, trong một cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh (185), cho rằng: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình” (186).
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva” (187).
Đây không chỉ là quan điểm của tướng Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hoà hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin chết ba năm trước đó (188). Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không thể ra ngoài đường lối hoà bình được. Chính đường lối tranh đấu hoà bình ấy mới tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây chiến và chính sách tàn bạo của Mỹ-Diệm” (189). Theo ông, thì hoà bình chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Nam” (190).
Trong khi tướng Giáp phân tích: “Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta” (191). Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng phương pháp hoà bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm, đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hoà bình, thống nhất đất nước” (192).
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định” (193).
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng chính quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm thơ : “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng vừa từ Xứ uỷ Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương (194).
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng: không thể hoà bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị không có ảo tưởng hoà bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế. Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hoà bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hoà hoãn không chỉ thể hiện trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế (195).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn” (196). Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát” (197). Trên thực tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới” (198).
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày 2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc (199). Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính (200) vẫn dựa trên lập trường “chung sống hoà bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông không được lựa chọn. Tháng 12-1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm (201).
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng gần gũi với tướng Giáp như Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính uỷ Sư đoàn 308, Phó Chính uỷ Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của “cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham mưu trưởng được đưa vào Nam (202) và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa về các trung tâm huấn luyện (203).
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam, “Ngô Chí Sĩ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị” (204). Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể được bảo toàn” (205). Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết (206).
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng, nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho miền Nam sụp đổ.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Một tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào “Chiến trường B” (207).
Người Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến Quân uỷ Trung ương tuần lễ đầu tháng 8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối, chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm đội Bảy. Quân uỷ cũng nhận định không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền Bắc”.
Ngày 2-8-1964, khi chiếc tàu USS Maddox di chuyển từ phía Bắc Việt Nam vào vùng biển Hòn Mê, thuộc địa phận Thanh Hoá, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng tàu phóng ngư lôi bắn trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill đã náo loạn”. Ngày 4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ có một cuộc tấn công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không ghi nhận bất cứ sự kiện gì vào ngày 4-8 cả” (208).
Vụ tàu USS Maddox đã khiến cho lòng kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964, 100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100 thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép tổng thống toàn quyền hành động quân sự với miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ Thanh Hoá, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm lớp huấn luyện, bắt đầu hành trình vượt Trường Sơn (209).
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng. Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu Maddox, trực Quân uỷ Trung ương là tướng Trần Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai” (210).
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” trở thành lý do để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự, Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực tiếp làm bí thư Trung ương Cục. Cùng đi có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hoà, Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn công này nhanh chóng biến thành một chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh “chiến dịch Sấm rền”. Sự kiện này đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho một lực lượng quân nhân của các nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm 1964, ông Lê Duẩn từng dự định “giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng cuộc đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công, nhân khi “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì chưa được đưa vào tham chiến. Đại tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã cử một “bộ khung” vào Nam.
Một thành viên trong “bộ khung” này, ông Kiều Xuân Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn và Tố Hữu tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương Cục, họ thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”. Đồng tiền “miền Nam Việt Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật danh: “Hàng 65”. Nhưng cuộc đảo chính do Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965, hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt con số 543.000 người vào năm 1968.
Mậu Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng” (211). Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận thế giới về mình” (212). Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt (213).
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi” (214). Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào đó sẽ phải thương lượng” (215).
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có gặp người Mỹ, ông hãy nói cho ho rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả” (216). Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu đến cùng của chúng tôi ” (217).
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”, cho dù tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau “những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm, tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp. Người thân của ông kể lại rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông “phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị Fontainebleau (218). Sự ra đi đột ngột của tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ” (219) khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán (220) với điều kiện Mỹ ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu biết răng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm hai nước chống đối nhau” (221).
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông, từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó là một tối hậu thư đối với nhân dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên quyết bác bỏ nhưng đề nghị trên đây của Mỹ” (222). Một kế hoạch mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam - để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném bom” (223), vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý “Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp rút xây dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày 21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác” (224).
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê hương rất mong có một món quà của tổ quốc” (225). Không chỉ hiểu tâm trạng của vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến” trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ ngoại giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức, phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I, Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng nói), như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất đoàn kết nhưng, có thời gian Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham mưu trưởng mới là tướng, còn bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó, Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ. Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói tướng Giáp chống Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông thường ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận” (226).
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” (227). Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu, Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí, bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó. Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo: Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân uỷ Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay’. Tôi hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo” (228).
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới” (229).
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình :
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên !
Toàn thắng ắt về ta!” (230)
Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng Quân uỷ, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân uỷ, là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những người thân cận với tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang (231), Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này (232).
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những uỷ viên trong Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm xét lại (233). Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm 1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh hoặc là những trợ thủ đắc lực của tướng Giáp.
Theo thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng (234): “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại Tổng Hành dinh khi không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa là không phù hợp” (235). Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào Nam (236). Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế” (237).
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000 năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào thì Sài Gòn sẽ nổi dậy (238). Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không “bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của Bí thư Lê Duẩn (239). Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được” (240). Nhưng, không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất rất nặng nề” (241). Từ chỗ đang giữ thế thượng phong trên chiến trường miền Nam, Quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng (242).
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt Cộng” bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng bắn nhau trong sân Toà Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường phố Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai tay anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách dự báo sự thất bại” (243). Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu” (244). Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa” (245).
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”. Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
“ Nghị quyết 21 ”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút thì, ở trên bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm 1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp cho sự ra đi của Mỹ có một tên gọi khác (246).
Sau Hiệp định Paris, theo tướng Giáp, ở Hà Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hoà bình, thực hiện hoà hợp, tạo thế ổn định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường chiến tranh để làm vốn tích luỹ ban đầu. Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến không muốn đánh trả e vi phạm hiệp định” (247).
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ” (248). Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định” (249).
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân uỷ Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, tướng Giáp vẫn xác định phương châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du kích, tác chiến với binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch gắn với giành dân” (250). Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định trong Hội nghị Quân uỷ: “Đối tượng tác chiến lúc này là quân nguỵ” (251). Ngày 28-3-1973, Bí thư Quân uỷ Võ Nguyên Giáp gửi điện cho các chiến trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta là chủ động tiến công, không phòng ngự đơn thuần” (252).
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày 27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được cử vào Trung ương Cục phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hoà hợp dân tộc và thi đua hoà bình”. Cùng thời gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng triển khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hoà hợp, hoà giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm 1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia “chính phủ liên hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã vào Trung ương Cục chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu uỷ ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu uỷ, triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội dung chủ trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu uỷ sẽ có chỉ đạo khác”. Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu uỷ, “quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hoà bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam Cộng hoà đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu uỷ và Quân khu, ông Kiệt khi ấy vừa trở thành uỷ viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu uỷ Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của Thường vụ Khu uỷ”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp uỷ đã ban hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông Kiệt ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các uỷ viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải dành đủ thời gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ uỷ viên trung ương nào cần nghe là phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3 (253) cũng tuỳ thuộc vào cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường tiếp tục tiến công, T3 sẽ giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như các tướng Lê Hai, Văn Tiến Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, tướng Giáp nghe rất kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ Chính trị về việc thi hành Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng có lợi cho dân, nhưng, đánh lại như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị thế khó khăn của mình, tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, tướng Giáp đã cho lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305 TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho gọi tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”. Theo tướng Đức thì sau khi nghe, Lê Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều, Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói: “Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng, tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được điện thoại của tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho Tổng bí thư. Lê Duẩn định kêu tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc, bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong Tổng Hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu (254).
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác định hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo tướng Lê Đức Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo tướng Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hoà hoãn nữa” (255).
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị Trung ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973, xác định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay cách khác, Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có tổng tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ” (256). “Bây giờ” mà tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng của Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân hàm vượt cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng như thế nào đối với khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam” (257).
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1 tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm tài khoá 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo “bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974, Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng hoà khó có khả năng kháng cự (258). Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hoà đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris. Thế nhưng, Thượng viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng thống mà còn cắt đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác, tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực thăng cấp cứu” (259). Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị quyết định đưa tướng Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và khi thấy sức khỏe của tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói với tướng Giáp: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở Đồ Sơn, tướng Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi ấy là một khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi cùng. Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc ra cho Đại tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng khởi nghĩa. 7/11 uỷ viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp chỉ còn có hai uỷ viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, tướng Giáp thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân uỷ như Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng tài và trung thành với tướng Giáp nhưng khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, “rất may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu số phục tùng đa số” và tướng Giáp thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và trực tiếp ghi chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng công kích’ được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được tướng Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt tướng Hoàng Văn Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo tướng Giáp: từ giữa năm 1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm việc, tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột (260). Tướng Giáp, tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn này.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột tướng Giáp ra lệnh cho tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ Buôn Mê Thuột, tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán của anh, Nguỵ rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay sau khi có tin tướng Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần cuối buổi họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ Chính trị và các anh bên Quân uỷ suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn là người đầu tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị đều tán thành” (261).
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là tổng tư lệnh trong chiến dịch, tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến trường.
Theo tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, tướng Giáp và Thường trực Quân uỷ nhất trí nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn, giành thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt địch và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực lượng còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm càng hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy mô lớn chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho phát triển về hướng Đông, phù hợp với Quân uỷ Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần nữa và được anh Ba đồng ý” (262).
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường Văn Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi không ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá hai mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp của lãnh đạo và người ở chiến trường” (263).
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh. Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến trường phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau ngày 18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của Quân uỷ, “giải phóng miền Nam trong năm 1975”, tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, tướng Giáp liên tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn công. Tướng Giáp phê bình tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch trong vòng năm ngày, trong khi theo tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là cao và tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ họp, hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ, Trung tá Lê Phi Long được cử làm trưởng Phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng 25-3, tướng Lê Trọng Tấn nhận những chỉ thị cuối cùng của tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển theo đường 72 ra Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào chiều 25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị, chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới ba uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, tướng Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên Hải” (264) phải “thần tốc và táo bạo” (265) còn tướng Lê Trọng Tấn thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4 (266), Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải, tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn phải vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, tướng Đức quyết định đánh thức tướng Giáp. Xem xong bức điện, tướng Giáp đồng ý ngay với tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Sau khi để tướng Đức đọc bức điện của tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”. Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?”(267). Anh Ba nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ, anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý”(268). Cũng trong ngày 24-4, tướng Tấn cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ huy Chiến dịch và tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống Nguỵ”; 11 giờ 30, cục phó Cơ yếu mang vào phòng họp bức điện của tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, tướng Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
“ Thống chế đi đặt vòng ”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, tướng Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, tướng Giáp thôi chức bí thư Quân uỷ Trung ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ thuộc về Tổng bí thư. Năm 1980, ông phải giao chức bộ trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng (269). Trước Đại hội Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt (270): “Anh Thọ cũng đưa ra những thông tin như Trần Quỳnh (271) kể nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác với những điều anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể có những uỷ viên Bộ Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”. Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt nói: “Uy tín trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình với cách cư xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền nhau : “Nhà thơ làm kinh tế / Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký “Điện Biên Phủ- Chiến dịch lịch sử”, đăng nhiều kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên của tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân uỷ” thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn Thái nổi giận đòi ngưng, tên của tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại trên tờ Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện Biên. Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên tướng Giáp. Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng đưa tin về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ” tổ chức tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách “Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không - xếp sau Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại tướng” và không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước” đang “nức lòng ca ngợi” ấy (272).
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên 1980 lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một “tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”(272). Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm (274). Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề xuất hầu hết các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu tiên tán đồng những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi anh ra Bắc” (275). Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe, Bác bảo với anh: “Chú nói đúng” (276).
Tháng 3-1985, tướng Giáp, lúc này đã không còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông có tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng và tướng Lê Phi Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hoá thành ba thái độ: một là thẳng thắn đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của tướng Giáp vào Đà Nẵng bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh uỷ viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn bình thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì có Tổng bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì được triệu tập mà đến để nhìn tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông được xếp đứng sau chín người, trong đó có nhiều người từng là cấp dưới của ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên cạnh hai chức danh: uỷ viên Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng Diệu. Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi tướng Giáp càng bị biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời thường của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ tướng Giáp biết được vị trí trong lịch sử của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng trên những khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, tướng Giáp chính thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần minh oan như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là tổng tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết công thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi chín từ, nhưng chỉ cần cái tên tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho Cung Văn hoá Việt-Xô oà vỡ. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng tướng Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
Chú thích
(173) Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên Giang, thường trú tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Từng tham gia lực lượng Thanh niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn ở lại miền Nam.
(174) Khi chính quyền Ngô Đình Diệm lập ấp chiến lược, ba má ông Võ Viết Thanh đã lớn tuổi, chống không vô ấp. Tối 26-8-1962, một toán lính đồn Lương Phú, huyện Giồng Trôm, Bến Tre, đóng giả giải phóng quân vào nhà “mời hai bác ra gặp giải phóng quân về”. Ông bà cảnh giác không đi, liền bị trói dẫn ra bờ sông cắt cổ. Sáng hôm sau, Chính quyền Sài Gòn tung tin, “Gia đình có hai con đi tập kết, hai con đi giải phóng quân mà Việt cộng còn về giết thế này, cho nên không ai ở ngoài ấp chiến lược được”. Về cáo buộc bắt hai cán bộ quân báo, theo ông Võ Viết Thanh: Chiều 30-4-1975, trinh sát bắt được hai người: Phan Mậu, nguyên trung đoàn trưởng, Sư đoàn 5, đầu hàng Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân; Lê Đức Phượng, một tình báo viên được Cục II đánh vào năm 1954 nhưng sau đó khi bị lộ đã phản bội. Ông Thanh, khi ấy là Chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn quân báo 316, chỉ đạo thả. Nhưng, ngày 2-5-1975, ông Thanh nói: “Lữ đoàn trưởng đi giao ban Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh về, truyền đạt lệnh: Trong khi còn tranh tối tranh sáng cần xử lý ngay những tên đã gây tội ác. Anh yêu cầu tôi cho bắt lại hai đối tượng đã tha vào chiều 30-4. Tôi truyền lệnh cho đại đội trinh sát rồi từ đó bị công việc cuốn đi, không kiểm tra lại việc này nữa”. Sau Đại hội, ông Võ Viết Thanh cho lục lại toàn bộ hồ sơ, thì được Tư lệnh Quân khu Thủ đô cho biết, Lê Đức Phượng vừa mới được Cục II cấp tốc lập hồ sơ công nhận liệt sỹ. Theo ông Võ Viết Thanh: “Sau này, khi đối chất trong một cuộc họp của Bộ Chính trị, Tư Văn phải công nhận, Phượng không phải là đại uý cũng không phải là đảng viên. Tư Văn nói: Do có sự nhầm lẫn ở phòng chính sách”.
(175) Sau khi Võ Viết Thanh bị đưa ra khỏi danh sách ứng cử Ban chấp hành Trung ương, ngày 24-6-1991, Lê Đức Anh viết bức thư thứ 2: “Kính gửi anh Linh, anh Tô, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trước đây khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề nghị với Bộ Chính trị Khoá V cho phép tôi được chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm một khoá nữa. Theo sự phân công của Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp chiến lược quốc phòng-an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trước tình hình diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn, nặng hơn không hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi sẽ không làm được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xin Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và cùng với anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào tình hình mới, và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương khoá VII. Mong các anh chấp nhận. Lê Đức Anh”(Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 243). Lê Đức Anh ra viện khi Đại hội Đảng lần thứ VII bắt đầu. Ông Võ Viết Thanh kể: “Giờ giải lao, đích thân Lê Đức Anh tìm tôi, rồi nắm lấy tay tôi kéo ra một hàng ghế bên hành lang Hội trường. Ông nói: Việc xảy ra khi tôi đang bị chảy máu dạ dày, phải nằm viện nên không biết. Chuyện Bảy Thanh thì tôi biết rõ là không có vấn đề gì. Để từ từ rồi mình tính”. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nghe ông Lê Đức Anh nói vậy tôi cũng xúc động, nghĩ, Cục II làm như vậy có thể chỉ do mối quan hệ giữa tôi với Tư Văn. Nhưng, khi tôi chuẩn bị rời Bộ Nội vụ về Sài Gòn, anh Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, gọi tôi lên nói thì tôi mới giật mình. Anh Ba Ngộ nói: Bảy Thanh ơi, tôi không biết Lê Đức Anh đối xử với anh thế nào nhưng, sau Đại hội, ông ấy bảo tôi đừng để Bảy Thanh ở trong ngành mà nên chuyển ngay Bảy Thanh sang Bộ Thương mại”.
(176) Năm 1983, sau gần bảy năm lặn lội với lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được ông Võ Văn Kiệt yêu cầu về công tác trong ngành Công an. Trong năm đó, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an Thành phố. Năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông chính thức trở thành uỷ viên Trung ương khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ là uỷ viên dự khuyết. Trung tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân đội. Bị buộc phải ra đi ở một thời điểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được tướng Giáp ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ” còn chặn được con đường của ông Võ Viết Thanh, người mà ông Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ khi ông trở thành Thủ tướng.
(177) Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Tướng Giáp kể: “Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa quân Cần Vương”. Những năm học ở Trường Quốc Học Huế, cậu Giáp thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai. Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khoá để phản đối. Vì sự kiện ấy Giáp cũng bị đuổi học, về làng. Anh Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp: “Chúng tôi đã lập Đảng Tân Việt”. Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 10-1930, Giáp bị bắt cùng với thầy Đặng Thai Mai và nhiều người khác, trong đó có Nguyễn Thị Quang Thái, em gái nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1929, Giáp cùng thấy Mai ra Hà Nội, vừa dạy sử ở trường Thăng Long, vừa tự học lấy bằng cử nhân luật và kinh tế. Một trong những học trò của tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà năm 1965, viết: “Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” (Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23). Năm 1946, khi ông Đặng Thai Mai chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái của thầy Mai, Đặng Bích Hà đã là một cô gái xuân mười chín. Họ lấy nhau và có bốn người con. Sau 1954, cả gia đình tướng Giáp, kể cả người con gái của ông và bà Quang Thái, Võ Hồng Anh, sống quây quần trong biệt thự 30 Hoàng Diệu.
(178) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36
(179) Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái cưới nhau năm 1935. Năm 1940, khi cùng Phạm Văn Đồng sang Vân Nam gặp Nguyễn Ái Quốc, Giáp chia tay với người vợ trẻ khi họ vừa có Hồng Anh, con gái đầu lòng. Sau đó, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt rồi chết ở trong tù vào năm 1944. Theo lời kể của Giáo sư Võ Hồng Anh, con gái tướng Giáp: “Năm 1929, cha tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xoã, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”.
(180) tướng Giáp là người đội mũ phớt trong bức hình chụp “34 chiến sỹ này” nên về sau Lê Đức Thọ đã gọi ông là “ông tướng mũ phớt”.
(181) Năm 1948, với tư cách là uỷ viên Thường vụ Trung ương, ông Thọ được cử vào Nam, nơi ông Lê Duẩn đang là bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ uỷ tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ uỷ Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề. Theo ông Võ Văn Kiệt, người có mặt trong hội nghị này: “Mặc dù phái đoàn (anh Lê Đức Thọ) có những đánh giá không sát với chiến trường Nam Bộ, nhưng trước hội nghị, anh Ba vẫn nhận lấy trách nhiệm một cách nghiêm túc. Phát biểu của anh Ba như tiếp thêm nguồn sinh lực và làm cho hội nghị trở nên hào hứng khi anh phân tích có sức thuyết phục bằng tầm bao quát sâu rộng và những lý lẽ được minh chứng bằng thực tiễn sinh động”. Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Lê Kiên Thành, nói rằng, khi mới vào Nam Bộ, ông Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ uỷ, nhưng đã bị ông Lê Duẩn thuyết phục hoàn toàn. Ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
(182) Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm. Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện), Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ). Năm mười lăm tuổi, khi đang học tại trường tiểu học tại Nam Định, Lê Đức Thọ đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Ba năm sau ông tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng, làm bí thư chi bộ học sinh. Tháng 11-1930, thì bị bắt, bị kết án mười năm khổ sai và bị đày đi Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn vào năm 1936. Nhưng, năm 1939, do có hai đảng viên phản bội, gần như tất cả các tổ chức cộng sản ở bốn tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình đều bị vỡ, trên 500 nguời bị bắt, trong đó có ba anh em Phan Đình Khải. Theo Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, “Phan Đình Khải bị tra tấn rất dã man vẫn không khai”. Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn La, Lê Đức Thọ bắt đầu được giao phụ trách công tổ chức và huấn luyện cán bộ (từ tháng 9-1944) và được chỉ định làm uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ. Ông Thọ là một trong số các nhà lãnh đạo của Đảng dự hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương đêm 9-3-1945, hội nghị đề ra chủ trương “phát động một cao trào cách mạng đi tới cuộc tổng khởi nghĩa”. Ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, tháng 8-1945 và kể từ sau Cách mạng tháng Tám được chính thức giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Từ năm 1956, sau khi ông Lê Văn Lương nhận án kỷ luật trong vụ cải cách ruộng đất, Lê Đức Thọ chính thức làm trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(183) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 36
(184) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(185) Bài diễn văn ngày 9-7-1956 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “Tháng 7-1956 đã đến, cuộc tổng tuyển cử đúng kỳ hạn theo hiệp định Geneva quy định đang bị đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam phá hoại. Nhưng, trong thời gian hai năm qua nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn: miền Bắc được giải phóng và bước đầu được củng cố, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam được giữ vững và rèn luyện, sự đồng tình quốc tế ngày càng vững thêm… Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình… Chúng ta đã kháng chiến lâu dài để tranh thủ hoà bình, hoà bình được lập lại là một thắng lợi của nhân dân ta. Hoà bình càng được củng cố lâu dài thì thắng lợi của ta càng có điều kiện phát triển. Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để thực hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng tức là cuộc thi đua hoà bình giữa chế độ chính trị của miền Bắc và chế độ chính trị của miền Nam ở trong phạm vi một nước” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(186) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(187) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(188) Trong bài phát biểu trước cuộc mit tin ở Hà Nội ngày 9-7-1956, tướng Giáp nói: “Trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (thi đua hoà bình) là chủ trương chính xác duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, đại hội đã nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ nghĩa xã hội trong đó có đường lối hoà bình phát triển không dùng đến vũ trang đấu tranh” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(189) Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 17-1956, trang 797-798.
(190) Sách đã dẫn.
(191) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(192) Sách đã dẫn.
(193) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 35-36.
(194) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002.
(195) Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009.
(196) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36.
(197) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster 2003, trang 26
(198) Sách đã dẫn
(199) Hai đại đội Quân Giải phóng đã đọ súng với một lực lượng quân Việt Nam Cộng hoà đông gấp bốn lần, có thiết vận xa M113, máy bay, pháo binh và cố vấn Mỹ. Kết quả, phía Việt Nam Cộng hoà: sáu mươi chết, 109 bị thương; cố vấn Mỹ: 3 chết, 8 bị thương. Phía Quân Giải phóng, ngay trong đêm rút lui an toàn về Đồng Tháp mươi.
(200) Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.
(201) Tháng 4-1963, ông Ung Văn Khiêm đã bị cho thôi chức Bộ trưởng Ngoại giao sang làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
(202) Tháng 9-1963, Đại tá Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm phó Tổng tham mưu trưởng và vào “cuối mùa đông” năm đó ông được cử vào Nam. Theo ông Lê Đức Anh: “Trước ngày ra đi ông Văn Tiến Dũng căn dặn: ‘Vào tới nơi anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các anh thực hiện Nghị quyết 15: Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự tại chỗ; thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông; thứ ba, cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng’. Sau đó, ông Lê Đức Anh sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu, ông Lê Duẩn nói: ‘Ba ý kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 63). Khi ấy, ở Trung ương Cục ông Nguyễn Văn Linh đang là bí thư; ở Bộ chỉ huy Miền, tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh, cả hai đều nói: “Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 65).
(203) Theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Ngày 1-12-1963, tôi được thông báo về nhận nhiệm vụ mới… Chúng tôi hành quân vào tập kết ở Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Tại đây, các đồng chí Tô Ký, Đồng Văn Cống, quán triệt tình hình nhiệm vụ, động viên và bố trí chuẩn bị lần cuối thật chu tất cho chuyến hành quân xa” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 87).
(204) Giữa năm 1963, Sắc lệnh cấm treo cờ của các giáo phái, các nhóm tôn giáo và các đảng phải chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tạo ra một làn sóng chống đối. Trong cuộc biểu tình tại Huế vào ngày 8-5-1963, binh lính đã nổ súng vào đoàn người biểu tình. Ngày 11-6-1963, tại Sài Gòn, trước ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Bức ảnh chụp vị sư già ngồi thiền trong khi lửa cháy được truyền đi khắp thế giới như một bằng chứng về sự mất lòng dân của Ngô Đình Diệm. “Giọt nước tràn ly” khi ngày 21-8-1963, lực lượng của Ngô Đình Nhu bất ngờ khám xét hàng loạt chùa chiền, bắt đi hơn 1.400 nhà sư.
(205) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 35
(206) Ngày 2-11-1963: 6:20, ông Diệm gọi điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn xin đầu hàng và được an toàn tới phi trường để ra đi cùng với Ngô Đình Nhu; 6:45 tướng Khiêm được ông Diệm cho biết nơi hai anh em ông đang trốn; 7:00 tướng Big Minh sai Mai Hữu Xuân đi đưa ông Diệm về Bộ Tổng Tham Mưu; 8:30 hai anh em Diệm và Nhu bị giết trong một chiếc xe M113, trên xe khi ấy có Đại uý Nguyễn Văn Nhung, cận vệ tướng Big Minh. Không rõ ai đã ra lệnh giết hai ông Diệm - Nhu vì sau đó ít lâu Đại uý Nhung đã chết và được công bố là “tự tử”.
(207) Mật danh các chiến trường miền Nam: B-2 gồm các tỉnh Nam Bộ; B-3 Tây Nguyên. Các chiến trường Campuchia gọi là K; Lào gọi là C.
(208) tướng Giáp khẳng định với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuộc gặp ngày 23-6-1997 tại Hà Nội. Năm 2005, tài liệu giải mật của Nhà Trắng cho thấy Tổng thống Johnson biết là không có cuộc tấn công thứ hai vào ngày 4-8. Tuy nhiên, sự kiện ấy đã không được Nhà Trắng báo cho Quốc hội và ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng cũng bất ngờ khi nghe tướng Giáp nói.
(209) Đại tướng Phạm Văn Trà kể: “Ngày 14-8-1964, đoàn chúng tôi chính thức lên đường. Đoàn xe ô tô của Tổng cục Hậu cần đưa chúng tôi về Nam theo đường số 1. Toàn đoàn trên dưới 160 anh em, hầu hết là sĩ quan cấp uý… Trước đó hơn một tuần, không quân Mỹ đã ào ạt đánh phá Đồng Hới, Quảng Bình, Vinh - Cửa Hội, Nghệ An, Lạch Trường, Thanh Hoá, Hòn Gai, Quảng Ninh… Bà con ở Vinh kể lại, ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom trúng kho xăng Bến Thuỷ, mặc dầu xăng dầu ta chuyển sơ tán từ trước, chỉ còn dầu cặn, nhưng khói lửa vẫn bùng cao hàng nghìn mét” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 92).
(210) Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa, tướng Trần Quý Hai là người thân tín của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
(211) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(212) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 124.
(213) Mikhalowski, được nói là “đặt nhiều hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ông nói: “Tôi được uỷ nhiệm của các đồng chí lãnh đạo chúng tôi đến tìm hiểu ý kiến của các đồng chí về việc này… Tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Mỹ thấy các đồng chí bác bỏ khả năng đàm phán thì chỉ còn con đường đẩy mạnh chiến tranh” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách dã dẫn, trang 127-128). Nhưng, Hồ Chí Minh còn tỏ ra cứng rắn hơn cả Phạm Văn Đồng: “Tại sao Mỹ phải đi gõ cửa khắp nơi? Chính Mỹ gửi quân đội Mỹ đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lược, như vậy vấn đề sẽ giải quyết. Mỹ phải cút đi!… Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gut-bai (Goodbye)” (sách dã dẫn, trang 128). Mikhalowski cố gắng: “Chiến tranh ghê gớm sẽ kéo dài năm năm, mười năm. Tại sao không vận dụng chiên thuật chính trị để đạt được kết quả tương tự? Rất có thể là Mỹ bây giờ cũng muốn rút lui theo một phương thức nào đó” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Mỹ có mạnh hơn Pháp, nhưng ngay nay chúng tôi cũng mạnh hơn trước kia… Khi chống Pháp, chúng tôi có một mình, bây giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ chúng tôi” (sách dã dẫn, trang 129). Mikhalowski: “Nhưng phe xã hội chủ nghĩa của chúng ta không nhất trí. Chỉ có các đồng chí là đổ máu. Giá phải trả sẽ rất cao” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Nhân dân Việt Nam không sợ. Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu chúng tôi sẽ hoàn thành” (sách dã dẫn, trang 129).
(214) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 147.
(215) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 147.
(216) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 148.
(217) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 149.
(218) Raymond Aubrac (1914-2012), và vợ ông, bà Lucie (1912-2007), là hai nhân vật kiệt xuất trong cuộc Kháng chiến của người Pháp chống Phát xít Đức (1940-1944). Trong thời gian lãnh đạo chính quyền ở Marseille, nửa cuối năm 1944, Raymond Aubrac đã tận tình giúp đỡ giới “lính thợ” (ONS) người Việt ở vùng này, những người mà về sau trở thành những hạt nhân đầu tiên của phong trào Việt kiều ở Pháp. Mùa hè 1946, khi tới Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm gặp Raymond Aubrac. Chỉ sau một lần tiếp xúc, chủ tịch Hồ Chí Minh và những người thân cận trong phái đoàn (Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng, đóng vai ‘tuỳ viên quân sự’, Phạm Văn Đồng, người sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị Fontainebleau…) đã trở thành “khách” thường trú tại ngôi nhà của ông bà ở Soisy-sous-Montmorency (cách Paris 16 km về phía bắc). Cũng trong thời gian này, bà Lucie đã sinh hạ con gái út là Elisabeth (Babette) mà Hồ Chủ tịch nhận làm cha đỡ đầu. Ngoài chuyến đi đến Hà Nội năm 1967, năm 1975, khi chiến tranh vừa chấm dứt, Raymond Aubrac đã thuyết phục được McNamara trao cho chính phủ Việt Nam toàn bộ các bản đồ các bãi mìn dọc theo “bức tường McNamara” (theo Nguyễn Ngọc Giao).
(219) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 215.
(220) Phạm Văn Đồng đã nói cụ thể với hai sứ giả của Washington: “Có hai loại vấn đề: thương lượng và giải pháp. Muốn có thương lượng, chúng tôi đứng trên lập trường nguyên tắc của chúng tôi: phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc mới có thể thương lượng. Trong quá trình thương lượng, chúng tôi biết chúng tôi phải nói gì. Mỹ hãy chuẩn bị về phía họ!”. Aubrac: “Thế nào là việc ném bom không điều kiện?”. Phạm Văn Đồng: “Tôi muốn họ ra một tuyên bố. Nhưng chúng tôi không quá khó tính”. Marcovich: “Có lẽ là một việc ngừng ném bom trên thực tế, không tuyên bố”. Phạm Văn Đồng: “Chúng tôi không khó tính về điểm này. Điều chủ yếu là ngừng không điều kiện. Chúng tôi sẽ không nói chuyên dưới sự đe doạ của bom đạn”. Marcovich nhắc lại điều mà một năm trước đó Sainteny đã nói: “Hoa Kỳ không muốn chịu mất thể diện. Kissinger đã nói với chúng tôi: làm thế nào giúp họ rút đi” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 218).
(221) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228.
(222) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228-229.
(223) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(224) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(225) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(226) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(227) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(228) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(229) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(230) Theo Vũ Kỳ: “Hai Bác cháu lại ngồi im lặng bên nhau, nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa. Thời gian trôi đi chầm chậm. Thấy vẻ Bác trầm ngâm đượm buồn… Từ ngày Bác trở về nước sau hơn ba mươi năm xa tổ quốc, có năm nào Tết đến mà Bác không đến với đồng bào và chiến sĩ đâu… Chỉ có mùa xuân này Bác phải xa tổ quốc. Bác bảo tôi: chú mở cái băng gì vui vui cho Bác nghe với. Tôi biết Bác thương nhớ nhất các cháu nhỏ nên tôi chọn một băng có nhiều bài hát thiếu nhi mở cho Bác nghe. Khi một giọng hát ngây thơ của một em bé hát bài “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố Đông”, tôi thấy Bác mỉm cười. Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh Mùi đón Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang sảng:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!
Tiếng Bác Hồ ngân vang. Trong căn phòng vắng chỉ có hai người”. Bài thơ trên đây được Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12-1967 (Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998).
(231) Đặng Kim Giang là một trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, với vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo mỗi ngày năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
(232) Ông Nguyễn Kiến Giang, người bị bắt giam sáu năm và quản chế ba năm, nói: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa. Người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế, bị giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần mười năm, cho đến khi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân, tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
(233) Ngày 27-1-1972, Ban Chấp hành Trung ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh, khai trừ đảng tịch ông Vịnh, ông Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng và Lê Liêm. Ngày 13-10-1977, sau khi giữ đảng tịch, giữ quân hàm thiếu tướng cho tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3 uỷ viên Trung ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
(234) Từ năm 1973, ông Phạm Văn Hùng là thư ký ông Võ Văn Kiệt.
(235) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(236) Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, một phòng đặc biệt phụ trách chi viện cho miền Nam: Trong năm 1967, Trung ương cho in 10.000 hòm tiền “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”; vì số tiền này dự định phát hành trong năm 1968 nên có mật danh là “hàng 68”. Khi ấy, ở Trung ương Cục cũng đang tồn 14.000 hòm tiền “Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, mật danh là “hàng 65”. Dự kiến, tuỳ theo tình hình, giải phóng ở cấp độ nào thì dùng “hàng” ở quy mô ấy.
(237) tướng Giáp phát biểu với các tướng lĩnh làm công tác Tổng kết chiến tranh ngày 9-2-1999 - Theo tướng Lê Phi Long.
(238) Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 14, tháng 12-1967: “Muốn thắng nó, làm sập nó dữ, không phải đánh thường thường như bây giờ, mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Ông giải thích: “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa… (theo) quan niệm của Lênin: khởi nghĩa ở đô thị là một cuộc cướp chính quyền, là giai đoạn đầu tiên của chiến tranh cách mạng, không có cuộc khởi nghĩa nào rồi là xong đâu, như ta làm Cách mạng Tháng Tám rồi, ta phải kháng chiến chín năm nữa”. Nhưng, ông nhấn mạnh: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng, không phải giai đoạn đầu, không phải là một cú, mà là một giai đoạn… Ta có lý luận quân sự,… có những lực lượng quân sự khá mạnh, những chủ trương lớn và những mũi nhọn khá mạnh đánh ngay vào tim nó; vùng dậy cả về quân sự, chính trị trong một thời gian. Ở đây ta có nhảy vọt lên, nó có nhảy vọt xuống, ghê gớm lắm, không lường thế nào cho hết đâu. Nếu Sài Gòn bị sập một cái, nửa triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta đánh nó thì lắm vấn đề lớn lắm, không lường hết được” (Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008).
(239) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(240) Đại tá Tư Chu giải thích: “Theo kế hoạch chiến đấu Đợt Một Mậu Thân thì các đơn vị Biệt động có nhiệm vụ xung kích, cố giữ các mục tiêu trong vòng một giờ, sẽ có các tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn của các phân khu tiến vào tiếp ứng để đánh chiếm toàn bộ mục tiêu, tiêu diệt cơ quan đầu não của Mỹ-Nguỵ, đồng thời có binh biến của một số đơn vị nguỵ quân, có nổi dậy của hàng vạn thanh niên và quần chúng ở các quận nội đô để giành quyền làm chủ các địa bàn, mục tiêu ta chiếm được. Trên thực tế, không có binh biến cũng như nổi dậy, bộ đội chủ lực thì có nơi không vào kịp, hoặc không vào được, chỉ có các đơn vị biệt động đánh vào 5 mục tiêu một cách đơn độc, có đơn vị phải chiến đấu cho đến người cuối cùng”.
(241) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(242) Ở Huế: Khoảng 2:40, một tiểu đoàn đặc công người Huế, 2 trung đoàn bộ binh người miền Bắc và một tiểu đoàn hoả lực tràn vào chiếm Thành. Trong 6 ngày đầu của cuộc tấn công, Đại tá Tỉnh trưởng Thừa Thiên Phạm Văn Khoa phải trốn trên xà nhà của một bệnh viện. Quân Giải phóng đã trụ được 26 ngày và một số ngày trong khoảng thời gian này, cờ xanh - đỏ - sao vàng đã được kéo lên cột cờ cao nhất ở Huế. Nhưng, Huế đã bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn của cả đôi bên: 14.000 thường dân chết; 24.000 dân thường bị thương, chưa kể gần 3.000 lính Sài Gòn và lính Mỹ; 627.000 người dân mất nhà mất cửa. Có nhiều người Huế đã bị bắt đi, bị thủ tiêu. Huế, đã trở thành một biểu tượng khiến cho khi nói về Mậu Thân, người dân miền Nam đã nghĩ ngay đến màu tang tóc. Ở miền Tây, theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Tiểu đoàn chúng tôi, ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một nghìn tay súng, sau khi kết thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ. Có tiểu đoàn, khi đánh vào Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ vài chục chiếc, mỗi chiếc chở vài ba anh em. Đành rằng, trong chiến tranh, không phải lúc nào cũng lấy việc ‘đếm xác’ của hai bên trên chiến trường để kết luận sự thắng bại; nhưng để tổn thất lớn là điều chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ; đặc biệt đối với chúng tôi là những người cầm quân trên chiến trường… Tôi nhớ khi đó anh em trong đơn vị đã truyền nhau mấy câu lục bát:
Vòng cung đi dễ khó về
Đạn chen đầu đạn, bom kề hố bom;
Hay là:
Tưởng là lên lộ đi xe
Ai ngờ trở lại không ghe, không xuồng.
Chủ nhân của mấy câu lục bát ấy, một phong viên mặt trận, bị phát hiện và chịu nhận hình thức cảnh cáo”(Phạm Văn Trà, Hồi ký Đời Chiến sỹ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 142-143). Trên thực tế chiến trường, Cuộc Tổng công kích và khởi nghĩa đã bị nghiền nát. Tài liệu kiểm điểm của Khu uỷ Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư từ năm 1970, viết: Do“chăm bẵm vào khả năng giải phóng hoàn toàn”, Khu uỷ đã tập trung toàn lực, tấn công vào đầu não đô thị. Quân đội Mỹ và Sài Gòn, nhân cơ hội ấy, tiến hành “Bình định đặc biệt”,“Bình định cấp tốc” ở vùng nông thôn, gom dân vào ấp, cán bộ đảng viên bị dạt ra khỏi dân. Quân đội Sài Gòn đóng thêm 1000 đồn bốt. Trong số 250 xã Miền Tây Nam Bộ, cuối năm 1968, có 50 xã, đảng viên phải ly hương; 40 xã khác, chỉ còn một hoặc hai đảng viên. Các trung đoàn chủ lực cũng bị đánh dạt sâu về Trà Vinh, U Minh. Trong khi số lượng du kích sụt, tân binh lại không tuyển được ngay cả trong những “xã giải phóng”… Trong Chiến dịch Mậu Thân, ông Võ Văn Kiệt đã vào sâu tận nội thành Sài Gòn, chiều mùng Một Tết, ông đã có mặt ở một xóm nhỏ gần đình Bình Đông, Quận Tám. Tiền phương của Sài Gòn cũng nhận được những lệnh liên tiếp tập kích vào đô thị để “giành thắng lợi tối đa”. Những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không thể nào tính được. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng”. Chưa bao giờ quân Giải phóng ở trong tình trạng như vậy, có những sỹ quan chỉ huy cấp sư đoàn cũng chịu không nổi, phải ra đầu hàng chính quyền Sài Gòn. Ngày 9-2-1999, khi nói chuyện với các tướng lĩnh làm Tổng kết chiến tranh, tướng Giáp nói: “Có đồng chí chỉ huy gửi điện cho tôi nói rõ tình hình bộ đội tan tác, ẩn nấp trong rừng mặn ngập nước ở phía Đông Nam Sài Gòn, tướng không chỉ huy được quân nữa. Ở Huế, anh Trần Văn Quang gửi tôi một bức điện dài 16 trang, xin rút. Tôi đồng ý và viết điện trả lời. Sáng hôm sau giao ban thấy bức điện vẫn để nguyên trên bàn, tôi hỏi tại sao chưa gửi thì anh Văn Tiến Dũng trả lời: ‘Việc này hệ trọng phải đem ra bàn bạc trong tập thể Quân uỷ đã, mình anh quyết định sao được’. May mà lúc đó ở dưới, anh em đã rút. Đồng chí Tư Chu, chỉ huy Biệt Động Sài Gòn, cũng có kể cho tôi nghe thực cảnh bộ đội sau năm 1968. Thiệt hại to lớn quá. Giá đắt quá! Về Huế thì anh Đặng Kinh, khi ấy là phó tư lệnh Mặt trận, biết quá rõ. Sau này anh ấy ra Bộ báo cáo và để lại nhiều tài liệu quan trọng. Những băn khoăn về Mậu Thân còn dai dẳng, thời gian cũng không thể che lấp được. Lịch sử đang đợi những người còn sống phải làm rõ, nhất là những người có chức, có quyền”.
(243) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 47
(244) Sách đã dẫn.
(245) Sách đã dẫn.
(246) Xem Phụ lục: Đánh & Đàm.
(247) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 48-49.
(248) Sách đã dẫn, trang 54.
(249) Sách đã dẫn, trang 55.
(250) Sách đã dẫn, trang 55.
(251) Sách đã dẫn, trang 55.
(252) Sách đã dẫn, trang 55.
(253) Mật danh của Khu IX.
(254) Các tướng lĩnh cho rằng Trần Quỳnh đã bịa đặt khi viết trong Hồi ký: “Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại nhà riêng của Lê Duẩn, có khi tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ chính trị quyết định. Cách làm việc của Lê Duẩn có tính cách gia đình, không biên bản không ghi âm. Lê Duẩn nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến của Lê Duẩn làm của mình”.
(255) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 67.
(256) Trần Văn Trà, Hồi ký Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, Nhà Xuất bản Văn Nghệ TP HCM 1982.
(257) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 493
(258) Quân lực Việt Nam Cộng hoà lúc đó ở trong tình trạng: “Không đủ để thay thế các thiết bị hư hỏng hoặc mất mát; Giảm 50 phần trăm hiệu năng của số máy bay đã hạ cánh thuộc 11 phi đội hàng đầu; Giảm 30 phần trăm sự hoạt động của các tầu biển và 82 phần trăm đối với các tầu sông; Quân nhu y tế sẽ sử dụng hết vào cuối tháng Năm năm 1975; Nhiên liệu cho lục quân sẽ cạn kiệt vào cuối tháng Tư năm 1975; Vào cuối năm tài khoá 1975, Quân đội sẽ chỉ có một phần tư số dự trữ đạn dược tối thiểu cần thiết để đối phó một cuộc tấn công lớn; Các máy bay và thiết bị mặt đất không dùng đến sẽ bị hư hỏng nhanh chóng” (Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 496).
(259) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa Xuân Đại Thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 93.
(260) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong Đại thắng Mùa Xuân, Nhà Xuất bản Chinh trị Quốc gia 2000.
(261) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 664.
(262) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 665.
(263) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 666.
(264) Tiền thân là Mặt trận Quảng Đà, gồm Quân đoàn II, Quân đoàn IV, Sư 3 và Quân khu V. Ngày 16-4-1975, lực lượng của “Cánh quân Duyên Hải” đã đánh vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn III Sài Gòn ở Phan Rang, bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang và lúc bấy giờ đã đánh vỡ tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa, đưa một đạo quân gần bốn vạn người, cùng với 2.500 xe pháo các loại trong đó có gần l00 xe tăng thiết giáp, 250 xe kéo pháo vào khu vực tập kết.
(265) Điện ngày 7-4-1975 của tướng Giáp gửi Lê Trọng Tấn:
“Mệnh lệnh
1- Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2- Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn”.
(265) Trong cuốn Tổng tập Lê Duẩn, cả ông Lê Hữu Đức và bà Diệu Muội đều nhầm là ngày 29-4-1975.
(267) Trong chiến tranh, Cục Tác chiến là cơ quan trực tiếp báo cáo tình hình chiến trường và chuẩn bị các tài liệu, kể cả soạn thảo các nghị quyết cho Quân uỷ và Bộ Chính trị, và các bức điện ký tên các nhân vật trong Bộ Chính trị. Theo Trung tướng Cục Trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức, trong suốt 55 ngày đêm của Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ có bức điện ngày 9-3-1975 là do chính tay ông Lê Duẩn viết, “Tất cả những bức điện ký tên Anh Ba khác đều do cơ quan Tác chiến chúng tôi dự thảo, anh duyệt và ký tên, cơ quan Tác chiến chuyển qua Cục Cơ yếu điện đi”.
(268) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 667.
(269) Cũng năm ấy, ông Phạm Hùng được cử thay thế Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn; Nguyễn Cơ Thạch chính thức làm Bộ trưởng Ngoại Giao thay thế Nguyễn Duy Trinh; ông Tố Hữu được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế.
(270) Khi ấy là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị.
(271) “Vụ án Chống Đảng” mà Lê Đức Thọ tiến hành được trợ lý của Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, kể: “Đặng Kim Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ quan tình báo” của Liên Xô. Theo Trần Quỳnh thì đích thân Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn về “vai trò của Võ Nguyên Giáp trong tổ chức chống Đảng này”. Trần Quỳnh viết: “Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu: Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên các chế độ đãi ngộ… Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại”.
(272) Chỉ có tờ Tổ quốc, cơ quan của Đảng Xã hội Việt Nam, vào dịp 7-5-1984 vẫn phát hành một số đặc biệt nói về Điện Biên Phủ, trong đó ca ngợi tài năng và, lần đầu tiên nói đến quyết định “kéo pháo ra” của tướng Giáp. Tuy tờ Tổ quốc là của Đảng Xã hội, nhưng tổng biên tập, ông Hàm Châu vẫn là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên việc ca ngợi tướng Giáp đã khiến ông Hàm Châu bị Ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhắc nhở. Theo ông Hàm Châu: Ông Phan Quang, vụ trưởng báo chí của Ban Tuyên huấn Trung ương, gọi ông lên hỏi: “Vì sao đã có chỉ thị không nhắc tên cá nhân anh Giáp mà Tổ quốc vẫn đưa?”. Chủ trương không nhắc tên Võ Nguyên Giáp trong các bài kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ là một “chỉ thị miệng” chỉ được Lê Đức Thọ truyền đạt tới ba cơ quan báo chí lớn: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân và Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuộc gặp này, Lê Đức Thọ nói: “Từ nay đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt nữa”. Ông Hàm Châu nói: “Thậm chí, Lê Đức Thọ còn định lấy ngày thành lập đội du kích Bắc Sơn, 14-2-1941, thay vì ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng quân 22-12-1944 làm ngày thành lập quân đội”. Cho dù “chỉ thị miệng” này ngay sau đó được các đồng nghiệp ở báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân truyền đi. Nhưng, về lý thì không thể kỷ luật những người không nhận được lệnh này một cách trực tiếp. Phan Quang chấp nhận giải trình của Hàm Châu. Ông Hàm Châu nói: “Thâm tâm, chính Phan Quang cũng không đồng ý với chỉ thị của ông Lê Đức Thọ”.
(273) Nhân sinh nhật lần thứ 75 của Tổng bí thư Lê Duẩn, báo Nhân Dân số ra ngày 7-11-1982 đăng bài “Sáng tạo, một tấm gương lớn” của Thép Mới viết về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau khi nhắc đến Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Thép Mới coi “Đề cương cách mạng miền Nam” như một loại sách “Bình Mỹ” mà Lê Duẩn đã “thai nghén từ Biên bạch tới Sài Gòn” để sánh với sách “Bình Ngô” mà Nguyễn Trãi ngồi ở “góc thành Nam, lều một gian” viết 600 năm trước. Dẫn lại một nhận xét về Lê Duẩn của Hoài Thanh: “Mỗi lần anh phát biểu ý kiến, chúng ta đều thấy có gì mới và sâu, soi sáng rất nhiều cho chúng ta”, Thép Mới viết: “Có sức nghĩ của những con người là chỗ dựa cho mạch nghĩ của cả một thế hệ và là điểm tựa chắc chắn cho cả mai đây”. Từ năm 1984, Ban Bí thư cử một nhóm viết tiểu sử và hồi ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn, nhóm gồm ba người: Thép Mới, Bùi Tín và Đống Ngạc, thư ký riêng của Lê Duẩn. Nhóm được ông Lê Duẩn trực tiếp kể về mình tại nhà nghỉ Hồ Tây hoặc tại Đồ Sơn. Cùng nghe có ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng. Đến buổi thứ 5 thì Bùi Tín xin rút. Loạt bài, Thời Thắng Mỹ (đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985), về sau xuất hiện trên báo Nhân Dân chỉ còn đứng tên Thép Mới.
(274) Trong phần nói về cuộc tập kết năm 1955, Thép Mới viết: “Đến giờ kéo neo tàu chạy, anh Ba nắm tay anh Sáu (Lê Đức Thọ): ‘Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí trong này ngày đêm mong Bác sống lâu, mạnh khỏe. Anh cho tôi gửi lời chào Bác, anh Trường Chinh và tất cả các anh ngoài đó. Tình hình này thì dễ đến mười tám, hai mươi năm nữa, anh em ta mới lại gặp nhau”. Lịch sử Nam-Bắc sau đó đã bị phân chia đúng 20 năm: 1955-1975 như… “tiên tri” của Lê Duẩn.
(275) Thép Mới, Thời Thắng Mỹ, đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985.
(276) Thép Mới, sách đã dẫn.
“QUYỀN BÍNH” – VẤN ĐỀ MUÔN THUỞ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Lê Mai
Thăng yên hạ mã bách thiên nan
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn
(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)
Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2 – Bên Thắng Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi. Sau Đại hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá trị sử học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng … Nhưng, trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít về bản thân mình.
Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp. Tác giả đã cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ qua lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại tướng Tổng tư lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã làm nên biết bao công tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời kết án tai ác đến cỡ đó?
Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp dưới của ông Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chiến lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến dịch Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.
Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng sản cấp tiến cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay đắng là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ đầu. Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ mất, ông hỏi Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình nhà cháu không?” (Làm người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại.
Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31 việc nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo đức con người!
Quan sát sự vận hành quyền bính tại VN cho thấy, dường như không ít nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng Giáp, họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật của Nguyễn Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà sau khi biết kết quả điều tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng sợ”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển hình của một tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành quyền lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối và quyền lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”.
Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn – chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì phải khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”. Chỉ có điều, đối thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.
Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là quyền định đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền lực đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị và chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp VN, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi phối của quyền lực, kết quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói, “Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử VN hiện đại.
Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất am hiểu văn hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền Bính” ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn tín hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú vị:
“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”.
Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của xã hội chủ nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không phải! Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó không thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay cái “đuôi” gì đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri thức nhân loại đã kết tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng văn minh thời đại, mà lại “sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ trong lịch sử và than ôi, sự “sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền rồi!
Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến đâu, chúng ta vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt – tôi nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc nắm quyền bính của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng gió: “Sáu Dân muốn làm vua Saigon”.
Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị khá hay. Đã một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính trị để thông qua việc chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng, Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu khí vì bọn Úc đã từng đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền đứng dậy: “Nếu nói như Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu tư. Mỹ là kẻ thù mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết đói; Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.
Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có một điểm nổi bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy. Họ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm của cải cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Kiệt xé rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ “giá – lương – tiền” cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng, sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí không được bầu vào Trung ương.
Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp không được đào tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần đây và hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính: dấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, dấu bệnh để làm Thường trực Ban bí thư, sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng bí thư hai nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ tầm cỡ cán bộ cấp huyện, một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu đất nước có thể phát triển sánh vai với thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận hành như thế?
Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã phân tích rất sâu sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của một tam giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải Phóng” và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng nguồn quyền lực bạo lực nhất.
Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có thể được chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển chuyển. Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn quyền lực của cải nhất.
Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh hoạt nhất, vì một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi sử dụng bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất cao nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng nguồn quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực bạo lực, chắc chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.
Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ những yếu tố khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến cho những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè, đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh họa điều này.
“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại. Một xã hội chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không bị lũng đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực, của cải và tri thức.
Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng Cuộc. Điểm mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công trình mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái hiện một giai đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng không nhiều lắm, chỉ có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên bản, một số nghị quyết, còn chủ yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân chứng. Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo luận nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa tương xứng với nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt ra. Và, tác giả chỉ nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích, không bình luận làm cho bộ sách thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn là một phương pháp tốt nhất?
Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất đáng đọc, rất đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có công trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện đại do các nhà sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không đòi hỏi tác giả Bên Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…
Lê Mai blog http://lemaiblog.wordpress.com/2013/01/27/quyen-binh-van-de-muon-thuo-trong-lich-su-viet-nam-hien-dai/#more-877
Theo: Danhnhanviet