RÁI CÁ
Đến cả tuần không bắn được con gì. Tối nào anh Nhương với T lé cũng xách đèn xách súng đi rồi lại về không. Bọn hay săn dưới các đại đội cũng chịu chung hoàn cảnh đó. Đang tháng ba tháng tư, mùa giao phối, mùa sinh sôi của núi rừng nhưng thú quanh chỗ đứng chân của đơn vị bỗng nhiên biến đi đâu sạch. Mọi đêm nằm vẫn nghe một vài tiếng con mễn tác gọi bạn “oác! oác” xa gần. Bây giờ thì lặng phắc. Đến cả thỏ rừng vốn nhiều như thế cũng còn không thấy nốt.
Dường như có điều gì bất thường đang xảy ra. Đến bữa đành lòng với những con cá suối kiếm được. Bình cò thương tình, bắn được con rái cá hiếm hoi trên eo suối đại đội 1 vất lên cho thông tin. Bọn tôi hí hửng vác ra suối làm lông. Con rái cá nặng khoảng 4 ký. Lông nó màu tro đen, khoảng ngực lại trắng như trẻ con đeo yếm dãi, đặc biệt mịn như nhung. Cái mõm ngắn, hàng ria bạc, chân trước có màng như chân vịt, đuôi dài và dẹp làm bánh lái khi lặn đuổi cá…đại loại trông nó như thế. Tôi muốn kể là về cái bộ lông của nó.
Chúng tôi dốt, có thằng nào làm thịt rái cá bao giờ đâu nên cứ thực hành làm lông nó như mọi con thú rừng bình thường. Nghĩa là nhúng nước lạnh cho ướt đều, dội nước sôi, sau đó cạo lông và đem thui. Thế nhưng lông con này đã được nhúng ướt đẫm hết rồi, dội nước sôi lên để cạo thì không đi một tý nào hết. Cứ như là chưa dội vậy. Hoá ra nó chỉ bị ướt ở phần ngoài thôi, bên trong vẫn khô nguyên. Giống như lớp lông tơ mịn trên mặt lá khoai, lá sen ...
Đã thế lại được tráng một lớp dầu trơn nữa. Nước chỉ có thể lăn tròn trên đó chứ không bao giờ thấm được. Đúng là nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt, nay thêm thành ngữ nước đổ lông rái cá nữa cũng không sai. Có vậy nên nó mới lặn giỏi như thế! Hì hục mãi đến gần năm nồi nước sôi mà vẫn chưa đâu vào đâu. Anh Nhương ngồi xổm, chừng đã tê chân, bấy giờ mới sốt ruột bảo thôi chúng mày lột mẹ da nó ra cho tao! Hoá ra đây là cách làm hữu hiệu nhất.
Khăn choàng cổ trên thế giới bằng da rái cá cực đắt. Chỉ có các ông hoàng bà chúa mới dám dùng cũng chính là bởi cái bộ lông mịn, không thấm nước và ấm đặc biệt này. Chúng tôi là lính, chúng tôi cần thịt rái cá hơn cái bộ da đẳng cấp đó. Cái đẹp là thực phẩm của con mắt. Thịt tươi là thực phẩm của cái dạ dày đang thèm pờ rô tít. Roạt một cái là da đi đằng da, thịt đi đằng thịt. Roạt thêm cái nữa, nó thành “thịt với xương tim óc dính liền” trong nồi rựa mận, lửa canh liu riu dậy mùi sả ớt. Thằng Sơn ba tai còn cẩn thận bóp cả tiết đọng vào thịt cho sánh và đậm nước. Tôi với anh Ky tiếc của, ngồi làm rốn nốt bộ lòng.
Trong phủ tạng con này, dưới hai lá thận có hai cục vôi cặn nặng trịch như đá, to bằng nửa bàn tay. Đầu tiên tôi cứ nghĩ nó có sỏi do chén lắm cua, cá, ốc… những thức ăn giàu canxi nên bị thế. Nhưng bây giờ nghĩ lại, có thể hai cục đá vôi hoá đó trong cơ thể của loài này làm nhiệm vụ giống như đối trọng hay quả nặng điều chỉnh trọng tâm cho nó khi hoạt động ngầm dưới nước. Không biết thế có đúng hay không?
Bọn cá lòng tong suối, cá đuôi vàng ăn nổi lao vào đớp chí chết những mẩu mỡ lòng, giành giật với nhau hết sức quyết liệt. Đang làm dở thì “oẵng” một tiếng - một con cá lớn cướp nửa bộ lòng ngay trên tay chúng tôi rồi biến mất tiêu. Bọn cá con hoảng sợ nhảy lên rào rào. Thôi thí cho mày! Rái ăn cá, bây giờ đến lượt cá ăn rái cho công bằng.
CỦA ĐỂ DÀNH CHO LÍNH - CỌP TRẮNG
Vâng ! Câu chuyện của chúng ta vẫn tiếp tục, dù đội Nga đã dừng bước ở tứ kết.
Năm 1981, lính ta bắt đầu được giải quyết phục viên hoặc ra quân. Đầu tiên là các thượng sĩ anh nuôi lính 74, 75. Kế đó là những anh em lính 76, 77 sức khoẻ yếu hoặc đã từng bị thương nhẹ. Mỗi lần có đợt ra quân là cả đơn vị nửa vui nửa buồn. Vui với người đi, những người ở lại gánh phần trách nhiệm thêm và cũng mong một ngày nào đó mình sẽ đến lượt như thế. Anh em đồng hương gom góp phụ cấp ít ỏi, dồn cho người lính may mắn được trở về.
Những ngày rỗi rãi, bên những ấm trà lãng xẹt, nhiều thằng xoè bàn tay bấm độn xem đợt này ai sẽ được giải quyết chính sách. Những thằng cảm thấy sắp đến lượt bao giờ cũng gom tiền ra dân mua một con con. Kích thước cân nặng con tuỳ thuộc vào thời gian sẽ phải chờ đợi lâu hay chóng. Nuôi để thịt liên hoan chia tay đồng đội khi ra quân.
Như nuôi lợn để dành lúc cưới vợ ở nhà. Thế thôi! Tiểu đoàn có đến hai chục con , lính nuôi như của để dành. Bọn nó tranh ăn, cắn nhau lộn bậy, sủa ầm ĩ nhức cả óc. tao cắn mày đôi khi thành chuyện mất đoàn kết. Nhưng thời gian này, cùng với sự biến mất của của thỏ, chồn, mễn… “ trung đội” mọi đêm vẫn sủa nhặng xị dạo này cũng bặt tiếng. Có những đêm, tự nhiên hai con trung đội vận tải của Bình vàng sát bờ suối chạy rúc vào gầm sạp bọn tôi, cụp đuôi cụp tai rên ư ử, đuổi mãi không chịu ra. Hình như có điều gì đó không ổn mà chỉ bọn mới cảm thấy. Lính tiểu đoàn vẫn sang lán nhau uống trà tán gẫu, nhưng không ai thấy điều gì khác thường.
Vào một đêm cuối tháng 4, cha Nhương và T lé lại xách súng xách đèn đi săn. Hai anh em vượt qua suối, vào đến phum nhà dài. Gọi là phum nhà dài vì ở đó có một cái nhà sàn lớn rất dài, chỉ còn khung nhà và mấy khoảng vách mục ngăn buồng. Nhiều khung nhà trơ trụi như thế cắm chân rải rác trên những mảnh vườn hoang, những hàng rào mục nát. Mọi khi vào đến rìa phum đã gặp thú. Nhưng đêm đấy tịnh không gặp một con nào. Đến cả gió cũng không buồn thổi. Không gian yên lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng rẽ cỏ lạt xạt của bốn bàn chân bước.
Lão Nhương cảm thấy hơi ớn, lầu bầu lia đèn giục thằng T lé bước dấn lên. Qua hai cây xoài trước mảnh sân trống, tới đầu hồi căn nhà lớn nhất phum, cả hai đứng lại há mồm chết lặng. Trên sàn nhà khuất phía sau tấm vách mục cách có dăm sáu mét, một con hổ lớn ngồi chồm chỗm trên khung nhà giật mình ngoảnh lại. Đôi mắt lớn như hai cái cốc, đỏ đòng đọc bắt đèn sáng rực. Lão Nhương tê cứng người, ngón tay quắp lại xiết cò khẩu AK. Một điểm xạ dài gần chục viên suýt tự bắn vào chân. Con thú trắng tinh cũng giật mình, phất đuôi vọt ào ngang ngọn cây chùm ruột rồi dông thẳng vào rừng. Hai thằng cha đi săn ngã ngửa, vọt đái ra ướt đẵm hết cả quần. Hoàn hồn lại mới dìu nhau chạy hộc cơm về đội hình.
Vừa chạy vừa bắn loạn xạ để tự trấn an bản thân. Mấy thằng lính mới đại đội 2 tưởng địch tập kích nhảy hết ra hào tương đạn ầm ầm về hướng súng nổ. Lão Nhương với T lé mới chịu dừng lại, bắn bắt liên lạc. Về đến nhà rồi mà mắt vẫn còn trắng dã, lạc hết cả hồn. Ai hỏi gì cũng không nói được. Anh Hoạch phải lôi ra hai bát rượu cho uống mới rời rạc kể lại câu chuyện vừa rồi. Từ đó, trung đoàn tôi có lệnh cấm đi săn đêm.
Bác Nhương bây giờ về nhà làm tài xế xe công nông chở vật liệu xây dựng ở Bắc giang. Lên chức ông nội, ông ngoại rồi. Bọn tôi về quê ăn cưới các cháu lần nào cũng nghe lão trợn mắt kể về con hổ trắng. Bác Nhương gái nghe mòn tai câu chuyện này, phát gắt lên rằng ông có im đi không? Ra kia bắt cho tôi con gà! Làm gì có hổ trắng? Lão ấy lại im tịt!
Anh ạ! Chẳng biết con hổ nào đáng sợ hơn con hổ nào? Ngày xưa gặp nó thì chạy. Bây giờ đụng nó thì cứ im đi là hơn!
Sau đó nửa tháng, thằng Mẫn khẩu đôi DK82 bấy được con báo hoa mai nặng khoảng 80 kg bằng bẫy cần. Cây tầm vông trong bụi nó vít xuống gài thòng lọng cáp lụa. Mồi bẫy là con thỏ què. Con báo dính bẫy, một chân bị treo lên. Không tháo được, nó đang tự cắn đứt chân trước mình thì thằng Mẫn lò dò đến. Con báo nghe động nằm im rình đúng tầm, phóng mình vọt tới quơ tay tính vả ngang mặt. May tầm nhảy của nó bị cái cần bẫy gìm lại.
Bàn tay trước đầy vuốt vả hụt, cách mặt nó có 20 cm. Tí thì tèo ! Thằng Mẫn cũng lỳ. không nhát như lão Nhương. Nó quỳ xuống, lựa vị trí trên thân con báo làm đúng một phát xuyên tim. Bọn DK bí mật khiêng ra ga Bâmnak bán được 500 Riel. Thằng Hùng lé cho tôi ba chục rịa tiền hóng hớt. Mãi sau tiểu đoàn mới biết, chửi rầm rĩ bọn DK ăn bẩn.
Thung lũng A3 (trong sử sư 341 trong trang mình lại viết là thung lũng A Ray) là một nơi rất nhiều hoang thú. Chẳng biết bây giờ còn được như ngày xưa không hay con người giải tán hết rồi?
LÊN BAN CHÍNH TRỊ
Định kể những câu chuyện khác về gà rừng, công đất; chuyện phục heo rừng dũi phá rẫy ngô; chuyện câu cá suối; chuyện về những trận tranh cúp bóng đá tiểu đoàn… Nhưng thôi! Hè hè! Không có các bác lại bảo lính lác quân chủ lực gì mà dạo này không thấy làm nhiệm vụ gì hết trọi. Suốt ngày săn bắn, câu kéo, nhậu nhẹt hoặc bóng banh…Nhưng cái thời gian ở Bâmnak nó như thế đấy! Quân số đơn vị vừa được bổ sung mấy đợt liền, đông như hồi mới đánh chiến dịch 1979. Vui lắm! Lính 77, 78 giờ cũng thành cựu binh đắp chiếu, khệnh khạng đùn việc cho anh em mới vào. Đúng lúc đó thì tôi được gọi đích danh lên Ban Chính trị (B2) trung đoàn.
Lý do vì tôi cũng biết chơi guitar phèng phèng, biết gõ xô thùng đùng đùng đúng điệu :”Giặt quần đùi! Giặt quần đùi!…” thật bốc cho chúng nó nhảy rã rượu khi nhậu. Ngoài ra, các anh em ở đại đội phẫu K.23 nằm ngay cạnh B2 mà tôi cũng có hân hạnh “phục vụ” trong thời gian dưỡng thương có quảng cáo ác liệt cho tôi nữa. Mừng rồi! Từ nay khỏi đi càn rã cẳng. Cùng lên B2 với tôi có thằng Hùng lé khẩu đội DK.82 với ngón đàn bầu ác chiến, thằng Chương đại đội 3 với giọng Téno thuốc lá đá thuốc lào nữa. Sau một trận nhậu có cờ, ba “nghệ sỹ” từ biệt tiểu đoàn Tư, khoác ba lô lên Ban Chính trị.
Ban Chính trị trung đoàn nằm tại hai cái nhà sàn lớn sát suối Đam rey – con suối đã chảy qua tiểu đoàn Tư của chúng tôi. Trên sàn nhà thì chính uỷ, các trợ lý chính trị ở. Ngoài ra còn là nơi chứa các loại hồ sơ, chứa ba lô, đồ đạc, kỷ vật của anh em liệt sỹ chưa chuyển về kịp cho gia đình họ. Dưới sàn, mấy thằng đội tuyên văn chúng tôi và hoạ sĩ chuyên cắt kẻ khẩu hiệu là thằng Bình mẩu ở. Sinh hoạt chính quy lắm! Mấy thằng lính dưới đơn vị như chúng tôi vốn quen sống phóng túng, ào ạt bây giờ lên đây, người cứ như bị cứng ra. Chuyện! Gần các thủ trưởng, nhất là thủ trưởng chính trị chẳng nhẽ ăn nói tùm lum tá la vô lối đâu có được? May mấy hôm sau, các anh em năng khiếu dưới các đơn vị trong trung đoàn được gọi cũng lên dần đủ. Cuối cùng đội tuyên văn quân số cũng bằng một trung đội cứng.
Chúng tôi được chỉ định một khoảng đất rìa suối để làm nhà ở riêng. Ngon quá rồi! Nhà cửa làm xong thì dựng chương trình tập để đi dự hội diễn nghệ thuật quần chúng của Quân đoàn. Phòng Chính trị Sư đoàn 9 tăng cường cho chúng tôi một tay guitar list lão luyện. Hắn tên là Dân – Mai Dân, nhà ở đường Hùng Vương thành phố Huế. Nhờ có hắn kèm riết nên tay đàn tôi cũng tiến bộ thấy rõ. Toàn đội tôi gồm có cây đàn bầu của thằng Hùng lé, đội ca có năm thằng, ba cây guitar là tôi, Dân với thằng Phúc Bến tre. Thêm cây mandoline của thằng Hợp nữa là hết vị.
Ngày chỉ có ăn, tập đàn tập hát, tối gom tiền ra dân mua rượu nhậu chui. Lúc đầu thì thích nhưng sau thấy chán dần. Ở tiểu đoàn có đám cải thiện, có đám nhậu nào cũng tự nhiên sà vào được. Lên đây toàn người lạ, muốn vui cũng phải dè chừng. Ăn uống đồ tươi, sinh hoạt kém hẳn dưới tiểu đoàn. Toàn cá khô Kampong Ch’nang sư đoàn diễn hoài! Bác Thọ đọc đến đây thì cười! Cứ mỗi kỳ các đơn vị ra trung đoàn bộ lĩnh gạo, thằng nào trước ở đơn vị nào thì bám theo mấy thằng quản lý của đơn vị ấy ngay từ khi chớm bước vào Ban Hậu cần để xin ít gạo gom về đội đổi thức ăn.
Đội tuyên văn mới thành lập, quân ô hợp tứ xứ chưa kịp hiểu nhau như dưới cái nôi ở đơn vị chiến đấu. Lại toàn những ông lười như hủi, ở bẩn và nói phét thôi rồi! Quan trọng gì? Phần hồn, phần tinh thần nghệ sỹ mới là căn bản(!) Lán trại, quần áo sạch sẽ quá lấy thời gian quái đâu mà sáng tác, mà tư duy nghệ thuật(?) Nuôi được 5 con gà mới chưa đầy tháng đã bàn nhau thịt sạch. Hết gà thì đi mò gà của bọn khác, chẳng thằng nào chịu nuôi nữa…Từ đó, các cơ quan trung đoàn bộ mất gà là nghi cho bọn Văn nghệ chúng tôi. Anh Bến phó CN CT gọi bọn tôi lên hỏi chúng mày có ăn cắp gà của chúng nó không? Liệu hồn! Bọn bên Ban Tác chiến bây giờ nó bắt đầu cắt gác rồi đấy!
Nhưng thời gian hội diễn Quân đoàn gần kề rồi! Văn nghệ dẫu có hơi bầy hầy trong sinh hoạt nhưng không vì thế mà giải tán đi được.
NHỮNG BÀI HÁT BAN NGÀY
Ăn sáng xong, bọn hát luyện thanh nà na ná ná na nà, ồ ô ố ố ô ồ, cẩn thận như Doãn Tần, Quang Lý... rồi cả đội lao vào tập. Các đồng chí tập cho tốt nhé! Không thì về đơn vị khoác súng khoác máy đi càn thì tuỳ! Bác Hoạt trợ lý Chính trị- đội trưởng cứ khéo đùa.
1- Bài hát Trung đoàn, nhạc và lời -Mai Dân :
Mang tên đoàn Đồng xoài vẻ vang. Truyền thống vinh quang tô thắm lịch sử vàng son. “Thành đồng quyết thắng, trung dũng kiên cường, đánh giỏi thắng nhều”. Đoàn Đồng xoài, gian nguy đạp bằng. Mưu trí tiến công, vượt mọi gian khó. Đoàn kết son sắt bên nhau, đi là chiến thắng, đánh là dứt điểm.
Bao nhiêu năm trên chiến trường miền Đông. Đoàn ta lớn nhanh như Phù Đổng thiên vương. Vinh quang thay! Biết bao máu đào hy sinh của những chiến sỹ kiên trung, tô thắm thêm truyền thống Trung đoàn./.
2- Tốp ca nam - Tiếng đàn bên dòng sông biên giới - Nhạc và lời : Phạm Tuyên
Đàn theo ta ra tận chốt đây, ngày đêm cùng ta gắn bó. Với khúc hát thanh xuân toả ấm khắp bến bờ. Đàn mang theo bao niềm ước mơ ngay bên dòng sông biên giới. Ta vẫn hát vang chiến hào, chờ cuộc chiến đấu ngày mai………
3- Đơn ca nam – Xin hát mãi về anh, người chiến sỹ biên cương ! – Sáng tác của Thế Hiển. Người trình bày, Nguyễn Văn Chương (Phềnh – trong đội gọi nó như thế) - Chiến sỹ đại đội 3, tiểu đoàn Tư, trung đoàn 2. Bài này đến đoạn điệp khúc tôi vừa đàn, vừa phải gân cổ dựng bè cho nó.
4- Độc tấu đàn bầu (điện) – Hùng lé DK tiểu đoàn 4 thể hiện hai bài. “Ru con Nam bộ” và bài “La Habana xinh đẹp”. Tất nhiên khi đàn, nó nhắm nghiền mắt lại, hồn nhập trong tiếng nhạc nên không ai biết là nó lé. Ngón đàn của nó không có gì phải bàn. Nức nở ai oán lắm! Thủ trưởng Hai Hữu còn phải sụt sịt. Nhưng các cô gái K thì khoái “giật đùng đùng!” hơn. Nhờ cây độc huyền cầm của nó mà chúng tôi liên tục giật giải nhất. Sư đoàn lấy luôn đội VN trung đoàn tôi đại diện đi thi Quân đoàn.
5 – Múa lăm thon. Đây là cây đinh của chương trình. Đội nhạc chơi bài dân ca K “Oh! S’vai chăn ti, nịari on ơi!…”. Ba cây guitar- một cây solo, một cây sans, một cây bass. Tôi thủ cây đàn bass. Gọi là đàn bass cho oai chứ thực ra nó vẫn là đàn guitar thùng đủ cả 6 dây. Có điều cọc bô bin (mua ở Sài gòn) các dây trầm Mì, Là, Rề quấn sao đó để khi qua ampli ra loa đạt tiếng trầm tốt nhất. Không lên dây kiểu Sol rê la mi như đàn bass bình thường mà vẫn lên dây theo lối guitar thường, để đề phòng thằng Phúc giật sans máu quá đứt đây thì kịp thời ứng cứu. Đến đoạn 2 bài này, thằng Hợp vê mandoline rất mướt tiếng. Người nó to vật, cái đàn lại nhỏ treo trên cổ. Chúng tôi gọi nó là thằng trâu đeo mõ. Bọn múa bốn đứa. Hai thằng Minh bọ, thằng Tuất nhỏ người mặc sà rông giả gái K trông kháu phết. Cũng độn ngực, cũng phấn son loè loẹt lắc hông múa đôi với thằng Nghĩa, thằng Đại. Thỉnh thoảng cũng giả vờ đánh mắt giao lưu đĩ đời, trông chỉ muốn đạp cho một cái. Trống samphô thằng Thành vỗ. Trống này đầu tiên mượn của dân rồi để lâu cứt trâu hoá bùn, không trả nữa.
6, 7, 8 vvv............................................... .........................
Khi tập đã nhuyễn chương trình thì âm nhạc đã trở thành công cụ kiếm cơm, kiếm rượu cực đắc lực. Lúc đang chờ tàu về Ph’nom Penh đi hội diễn, chúng tôi thấy mấy cô xinh xinh đi buôn, hứng chí tấu toàn dân ca Campuchia. Dân bạn chờ tàu máu quá, xúm lại ròm (múa) luôn trên sân ga. Thàng Thành gật gật, vỗ trống như lên đồng. Thằng Hợp giả đò ngửa mũ cứng, đặt kẹp giữa hai cái ba lô. Những đồng 1, 2 ria bay vào tới tấp như mưa. Thuốc samit cũng được ném vào mũ ầm ầm, hút muốn chết sặc. Về sau anh Bến biết, gọi lên chửi ầm ĩ rồi cấm làm cái trò đó. Quân đội Cách mạng đi làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, đâu phải cái bọn đàn rong kiếm cơm? Không ra cái thể thống gì hết! Chỉ thiếu mỗi con Capi là đủ bộ. Hề hề!
Sửa bởi Mưa_Trường_Sa : 21-07-2010 lúc 08:30 AM
NHỮNG BÀI HÁT BAN ĐÊM
“…Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?…”.
Cũng là những bài hát về người lính, nhưng buổi ngày cương mãnh, hy sinh bao nhiêu thì buổi tối lại xa vắng, thân phận bấy nhiêu! Buổi tối, dội văn nghệ rất đông khách. Anh em trong trung đoàn bộ đến chơi người thì xách sang ấm trà, người thì bịch thuốc rê. Đàn treo trên vách, ai muốn thử, muốn chơi tuỳ thích. Khách đến văn nghệ mỗi người góp đôi bài hát. Đã hát nhiều cho cái chung, bây giờ hát cho cái riêng chút vậy!
“…Tôi về qua xóm nhỏ. Con đò nay đã già. Nghe tin anh gục ngã. Dừng chân quán năm xưa, uống nước dừa. Hay nước mắt quê hương?…”. Ngần ấy năm chiến tranh, nước mắt quê hương có chảy cũng phải thành sông lớn, thành biển mặn. Giờ vẫn cứ chiến tranh hoài…Bất kể do ai viết ra, hàn lâm hay sến táu, những bài hát về thân phận thằng lính chiến luôn ám ảnh tôi. Nhất là khi mình đang ở trong hoàn cảnh đó. Cũng gió mưa như thế!
Cũng xa nhà như thế! Khi xung phong cũng chẳng bao giờ lùi. Ấy thế mà đêm về không hát về điệp trùng đội ngũ; về nhân dân vĩ đại, lại đi hát về một tình đầu đã mất; một bà già một nắng hai sương; một quê hương khói lửa dạ mòn…Hay đấy cũng là đất nước, là nhân dân ở dạng đơn giản nhất mà tôi chưa nhận thức được? Có điều các anh sỹ quan Ban tác chiến, Ban chính trị sang ngồi chơi cũng chẳng ai có ý kiến gì. Trà ca inox, thuốc nặng Tây ninh, phận người phận mình trong cuộc chiến mỏng và lơ đãng như khói thuốc.
Một điều thật giản dị: chết trận thì là hy sinh! Sống sót về thì lấy…đuôi trâu làm thước ngắm. Kệ nó vảy bùn đầy mặt. Càng sướng! Còn ở khoảng giữa, chưa chết hoặc chưa về được thì tối nay ngồi đây, nhổ râu cằm nghe giọt gianh mái lá. Hát, hoặc nghe hát về một phần cuộc đời mình trong đồng cảm.
Chiến tranh đã lùi xa. Trong phòng Karaoke sau chiều nhậu sương sương, chúng ta hát thật trầm hùng với tất cả tình cảm từ trái tim những :’Năm anh em trên một chiếc xe tăng”, những :” Bước chân trên dải Trường Sơn”, rồi “Chiều dài biên giới”… Nhưng tin tôi đi! Khi ngồi trong cái hầm âm như liệt sỹ Trần Duy Chiến, (có nhật ký trong trang này), như thằng Tuý thằng Khoát thằng Phụng thằng Năm vvv……trong tiểu đoàn tôi, chúng nó chỉ hát về mẹ hiền, về em yêu với những giao thừa xa vắng thôi!
“…Trả lại em yêu tình đầu vời vợi.
Ngôi trường thân quen bạn bè cũ mới.
Đường buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau còn buồn, nỗi đau cao vời…!”
Tất cả các bài hát về người lính, ban ngày cũng như ban đêm, dẫu ở cung bậc tình cảm nào cũng đều rất hay !
HỘI DIỄN NGHỆ THUẬT QUÂN ĐOÀN VÀ NHỮNG CHUYỆN XẢY RA
Lại nói về cái đám ròm (múa) xa- ma- khi tự phát trên sân ga Bâmnak, tàu đến là giải tán liền. Vũ công lẫn nhạc công tranh nhau leo tót lên toa. Đoàn tàu già nua xập xệ, toàn các toa đen tiếp tục lăn bánh. Cuối chiều thì đến ga Ph’nom Penh. Sân ga đầy lá chuối gói bánh, ruồi bay vù vù. Chúng tôi len ra lối cổng lớn, đi bộ một quãng rồi ngồi phệt cả một đám ngoài đường. Nghỉ đã! Cả bọn vừa hút thuốc, vừa thộn mặt ra ngắm đèn nê ông, đèn đường sáng trưng trên con phố vắng vẻ.
Lão Hoạt đội trưởng (thượng sỹ- trợ lý Chính trị) nói từ ga về Phòng Chính trị Quân đoàn phải hơn 3km nữa. Tôi bảo vẫy xe lôi mà đi cho nó đỡ mệt. Đói lắm rồi! Leo U Răng cao ngất trời còn được, nhưng về thủ đô chẳng hiểu vì sao cái chân nó sinh hư, không muốn cuốc bộ. Thằng Hợp cà cộ đứng dậy, tay cầm cái đàn mandoline huơ huơ vẫy xe. Nhưng mấy chiếc xe lôi thấy thế, chạy né sang bên kia đường rồi vọt qua thật nhanh không thèm ngoái lại. Mấy lần đều như thế cả. Kiểu này thì không xong rồi! Phải chuyên chính thôi! Tôi bảo nó vất mẹ cái “mõ” của mày đi, xách súng ra đây với tao.
Lại một chiếc xe lôi nữa trờ đến. Hai thằng giơ súng lên vẫy rất tử tế. Y như rằng xe từ từ chạy lại, đỗ sát chân êm như taxi máy lạnh, kèm theo nụ cười thật tươi của bác tài. Thấy chưa? Quân sự, trong những tình huống cấp bách bao giờ cũng có tác dụng hơn văn hoá. Chúng tôi yêu cầu gọi thêm một xe nữa vì 11 người, ba lô, ba khẩu súng, đàn địch…một xe không chở hết.
Tất nhiên là bác tài đồng ý ngay lập tức. Chẳng ai nỡ đi từ chối những quý khách mang súng bao giờ cả! Không tin các bạn cứ thử mà xem! Thằng Hợp khoác súng nhảy lên xe đi theo vì sợ bác tài lịch sự này quên mất đường quay lại đón. Mười phút sau, chúng tôi đã chễm chệ trên hai cái xe, trực chỉ ban tiếp đón của Quân đoàn bộ (Chỉ huy sở Quân đoàn lúc đó đã rời về Ô Đôngk). Đi hơn 120km xe lửa không mất tiền, nhưng về thủ đô, tư cách con người nó hoành tráng lên hẳn. Chúng tôi trả tiền sau khi dịch mãi cái từ “ph’rẻm rịa, ph’rẻm rịa!” (5 riel) khó nghe của bác tài. Hẳn bác ấy là người KP Chàm nên nói nặng như thế!
................
Chia sẻ với Ha anh! B.41 hồi đó chỉ có một tay cầm như B.40. Lọai 2 tay cầm ít thấy.
B.40 bắn khói đen kịt. Còn B.41 bắn ít lộ hơn. Vậy nên trước khi bắn, thằng xạ thủ B.40 có kinh nghiệm phải tính chỗ lăn vào gấp sau khi bắn nếu không muốn nó phản hoả lực lại. Sau này mình toàn đuổi nó nên chắc đỡ hơn! Từ đó có tư thế bắn cầu vồng ứng dụng như các bác nói. Kiểu bắn đó chỉ có thể thực hiện khi đứng bắn, có góc an toàn đảm bảo cho luồng khí phản lực phụt ra sau khi bắn. Cần nói rõ chỉ B.40 mới bắn cầu vồng được thôi! Còn nếu bắn B.41 cầu vồng (?). Đạn nó sẽ bay thẳng và tự nổ cách vị trí bắn chừng 800m. Ví dụ như tư thế bắn của bác Tuâns pót lên trong hình thì xạ thủ B.41 hoặc đang tiêu diệt mục tiêu trên núi. Hoặc đang săn máy bay lên thẳng.
Nhìn đạn B.40 cuối tầm nó tương cầu vồng vào đầu mình thì thấy rất rõ, không như đạn cối. Quả đạn B.40 bay chậm, chênh chếch, cái đuôi đạn ngoáy ngoáy như con quay sắp hết đà. Rồi chạy toé ra. Rồi Oành! Không sao!.... B.41 mới kinh! Bục một cái là tung cả súng lẫn người. Chỉ thấy hơi, không nghe tiếng nổ.
Em chỉ "xem" ta bắn, địch bắn B.40, B.41 là chủ yếu. Còn duy nhất một lần thử bắn B.41 là ở cái nhà gác ghi ga Bâmnak. Bắn chơi thôi! Quả đạn tự nổ trên trời. Khói đen trùm chớp lửa màu cam gọn ghẽ. Tiếng nổ vọng đến sau.
....................
Trước khi lên đường, chúng tôi có chạy chương trình cho Ban chính trị duyệt. Chính uỷ trung đoàn ngồi xem khoái lắm! Thấy bọn tôi quần áo cà tàng quá, mới điện cho Hậu cần chọn cấp cho một bộ quân phục mới tinh. Lại ưu tiên cho lĩnh tiếp suất quân trang trước kỳ hạn nữa nên trông đội hình cũng khá tươm. Gì thì cũng là bộ mặt đại diện cho một sư đoàn chủ lực giàu truyền thống, không thể nhôm nhoam được! Anh em trích tiền thù lao hát rong, ra chợ Tức Tha- la gần nơi đóng quân mua một thỏi son, một hộp phấn Thái với cặp soutien độn ngực cho hai thằng giả gái.
Không phụ lòng mong mỏi của đơn vị, công sức chúng tôi bỏ ra đã được đền đáp xứng đáng. Chúng tôi giành giải nhất toàn đoàn. Thứ nhì là trung đoàn 165 của sư đoàn 7… Tiết mục đàn bầu và lăm thon giật luôn giải suất sắc. Đêm hôm sau công diễn cho lính quân đoàn bộ xem. Niềm hứng khởi thành công cộng một chút men sau bữa liên hoan chiêu đãi ban chiều khiến chúng tôi chơi như lên đồng. Tiết mục đàn bầu tha thiết sâu lắng bao nhiêu thì màn múa lăm thon lại hừng hực rộn ràng bấy nhiêu. Bộ đội ngồi dưới vỗ tay đập ghế ầm ầm.
Không khí chan hoà, nồng hậu, không giống hôm thi chấm điểm. Lính hát lính nghe nó khác hẳn! Đoàn nhà báo Cu Ba, nhà báo Nhật bản bị không khí nồng nhiệt cuốn theo. Chân họ cũng nhịp nhịp, đầu gật gật theo tiết tấu mỗi lúc một hoạt, mồm thì tắc tắc như gọi , thỉnh thoảng hứng chí lại cho tay lên miệng huýt sáo lanh lảnh. Thằng Tuất, thằng Minh bọ, được sự giúp đỡ của đồ “hoá trang” loại xịn nổi bật trong ánh đèn sân khấu.
Tóc dài đen nhánh, khuôn ngực gợi cảm, da dẻ trắng mịn, chân dài đến…cạp sà rông. Bọn đang vỗ tay khoái trá ở dưới có biết đâu rằng bọn tôi ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa? Phải tốn cả tá lưỡi lam, hết tiệt hộp phấn trắng không ít tiền để cải tạo cặp chân vốn đen sì và đầy mao ít như chân nhện của chúng nó, thành cặp chân vũ nữ Apsara dưới mờ ảo ánh đèn. Thế mới biết nước mắt có thể đổi được nụ cười. Mua được niềm vui quả là tốn kém!
Kết thúc tiết mục này, đoàn phóng viên chiến trường ngoại quốc ào lên sân khấu phỏng vấn. Họ thắc mắc sao quân đội Việt Nam có cả lính nữ tham chiến? Hay đây là con gái Campuchia? Anh Hoạt nói qua phiên dịch, bảo đấy là chúng tôi đóng giả. Họ ồ lên thán phục! Máy ảnh chớp nhoang nhoáng, máy ghi âm sè sè, bút ngoáy lia ngoáy lịa…Chừng như vẫn còn hồ nghi, một tay nhà báo nam Nhật Bản thò tay bóp ngực thằng Minh bọ. Chuyện xảy ra quá nhanh trước mắt bàn dân thiên hạ. Lính Quân đoàn vẫn tưởng là lính nữ ta thật, mới đứng cả dậy rào rào, muốn ăn tươi nuốt sống thằng cha này. Hoạt đang luống cuống không biết xử trí thế nào?
Tôi giật vội micro, thông báo với anh em về giới tính “tạm thời”, anh em hãy bình tĩnh, để các nhà báo tự do “tác nghiệp” tìm hiểu sự thật (!). Mọi người lại cười ồ lên. Phải nể luôn cái ý thức tìm hiểu, tôn trọng sự thật của mấy thằng nhà báo tư bản.(Các nhà báo của ta tất nhiên cũng tôn trọng sự thât) Có điều, khi đã chạm được đến cái “sự thật” mềm mại đó, cây bút tuyệt đẹp, có gắn cả đèn pin nhỏ xíu chỉ sản xuất dành cho các phóng viên chiến trường của nó không cánh mà bay. Chú thuỗn mặt ra xin lại nhưng nào ai biết? Cái gì chẳng có cái giá của nó, kể cả là đồ giả. Không biết đồ "thật" thì đắt đến đâu?
CHÚNG BAY NGỒI XUỐNG MÀ HÚT THUỐC RÊ ĐI !
Từ Ph’nom Penh về trung đoàn bộ được ba hôm thì chúng tôi được điều xuống phục vụ tiểu đoàn 6. Tiểu đoàn tổ chức lễ nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND lần thứ 2. Trung đoàn cấp cho 4 con bò, còn lại các đại đội dưới tiểu đoàn tuỳ sự tháo vát của mình cải thiện thêm. Buổi lễ diễn ra tại cái nhà dài lợp ngói của phum Chùa, nơi tiểu đoàn bộ đóng quân. Cái phum này sát phum Th’may, cách đây hai năm còn là nơi trú ngụ của bầy dơi quạ khổng lồ.
Giờ thì chẳng còn con dơi nào sống nổi với lính mình. Chúng nó đã rình bắn thịt sạch. Cả đội mất đến một ngày lăn vào cùng các trợ lý chính trị căng màn, cắt khẩu hiệu, dựng cổng chào…Đêm làm chưa xong, phải thắp đèn măng-sông lên làm tiếp cho kịp sáng hôm sau tổ chức.
Buổi lễ diễn ra trang nghiêm và long trọng. Ngôi sao vàng năm cánh lấp lánh trên tấm phông nền đỏ thắm.
“Nghiêm…! Quốc kỳ….Chào!”
Lần đầu tiên sau ba năm chiến đấu, những thằng lính chúng tôi sát vai nhau hát Quốc ca không phải trên đất Việt. Giọng hát lúc vào còn ngập ngừng, chưa đều. Nhưng một tình cảm lớn ẩn chứa đâu đó trong tiềm thức những người lính chiến, sau phút đầu bối rối, bỗng tìm thấy hoà thanh đồng vọng, bắt đầu tràn ra từ lồng ngực. Nhiều thằng vừa hát, vừa lúng túng cài lại khuy áo. Khúc quân hành bi tráng cất lên chậm rãi.
Những nẻo đường gập ghềnh xa nào đã đưa chúng tôi đến đây? Đến đất nước xa xôi này? Vai sát vai chung một đoạn chiến hào, chung một nắm cơm vắt thiu, một tấm áo trận chưa khô vết máu của thằng mặc trước. Đường Vinh quang nào chỉ được xây bằng xác quân thù? Còn phải được xây bằng cả xương, cả máu của anh em đồng đội chúng tôi nữa! Hơn hai trăm tay súng của Tiểu đoàn anh hùng, gương mặt sạm đen vì cháy nắng, hoặc xanh bủng vì sốt rét, hát Quốc ca như hát về cuộc chiến đời mình.
Bóng cờ chung dẫu chưa được phất lên trong cuộc chiến vị nghĩa ấy, nhưng những gian khổ, những nỗi niềm riêng chia sẻ đã kịp liên kết, hoà chung dòng máu đồng đội đồng bào…Hành khúc vút lên cao trào rồi kết thúc. Khối vuông tiểu đoàn đứng lặng phăng phắc. Chính uỷ trung đoàn Hai Hữu, dường như vẫn còn cảm động, ho khan mãi mới sửa được giọng. Năm đó, ông đã gần năm mươi, tóc đã lốm đốm bạc. Bài diễn văn hào hùng Ban Chính trị đã chuẩn bị công phu từ trước cho ông, hôm qua anh Bến còn thức đêm để soát lại, hoá ra có đoạn đầu như thế này :
- Kính thưa…! Cám ơn các…đồng chí!…Thôi…chúng bay ngồi xuống mà hút thuốc rê đi !
Các anh hùng cười ồ lên và ngồi xuống trong không khí đầm ấm “phụ tử chi binh”.
Đấy là cuối mùa mưa năm 1981 ạ!
Tháng 12 năm 1981, sư đoàn 9 em rục rịch chuyển vị trí đứng chân sang tỉnh Kampong Thom – Siêm Riệp bên kia biển Hồ. Trước khi rời cứ, khoảng đầu tháng 11 năm đó, chúng em trải qua một trận lũ rất lớn. Nước suối Đamrey tràn bờ, ngập gần hết đội hình trung đoàn bộ. Riêng tiểu đoàn 4 ở trong núi, địa hình cao nên không bị ngập. Ban đêm hôm trước, nước mới mấp mé gầm cầu sắt ga xe lửa, sáng hôm sau đã chảy ồ ồ trên đường sắt. Nước dần lên sát mép sạp nằm của lán văn nghệ. Cây đổ, thân gỗ trôi từ trong nguồn núi U Răng ra, phi vun vút.
Chúng em phải tháo vách cho nước lọt qua dưới gầm, sợ sức nước, củi vụn bị chặn dồn đống sẽ kéo sập nhà. Mọi sinh hoạt ăn ở đều diễn ra trên hai cái mặt mặt sạp lán rộng chừng 12 m2. Vách tháo toang bốn góc. Ba lô, bồng bị, đàn địch làm giá treo lên xà ngang. Lính văn nghệ ngồi bó gối trên giường, buộc cước vào tay câu cá ngựa. Giống cá này từ biển Hồ ngược lên. Nó trông giống cá chép nhưng nhỏ hơn, con to cũng chỉ tầm 300gr và không có đôi râu.
Đuôi cũng đỏ như thế và rất phàm ăn, đặc biệt là…thức ăn có mùi phân huỷ. Tưởng nó thích gì chứ loại “thính” thơm đó mấy thằng em đâu có thiếu. Mưa thối trời thối đất ra như thế, chỉ có mỗi việc ăn, nằm và thả “thính” câu cá chứ còn biết làm cái gì? Chẳng cần năng động lắm! Lật một tấm ván giường lên thành cái cầu tõm, thằng chuẩn bị thả “thính” thoát y vào vị trí cấp một. Ba bốn tay câu vừa quăng mồi tùm tũm, vừa… đăm chiêu nhăn mặt. Nhưng chắc chắn không phải nhăn vì đang nghiền ngẫm nhân tình thế thái hay đau đáu sự đời.
Cái thú tiêu dao mùa thu của cụ Nguyễn Khuyến, được lính thực thi rõ ràng không phong nhã cho lắm! Nhưng không thế thì lấy cái gì mà làm thức ăn giữa trời nước này? Nước chảy re ré qua khe cột. Tiếng cá đớp mồi ũng oẵng dưới chân giường. Mỗi ca như thế cũng có ba bốn con dính câu. Đôi khi may mắn còn giật được cả cá bò vàng hươm hoặc vài chú rô mề. Giống cá đó cũng thích mồi tanh thối. Giờ thì lội nước đi vặt mấy quả me, vớt những đọt lục bình dài nghêu, tước vỏ ra cắt khúc…Sờ soạng mò thêm mấy quả ớt chỉ thiên trong vườn đang bị ngập dưới nước là có một nồi canh chua xài tạm trong buổi ngặt nghèo.
Tất nhiên nước nấu cơm canh cũng được múc ngay dưới chân giường ấy nhưng có đánh phèn cho trong. Đến bữa, chẳng thằng nào chê cả! Cứ sì sụp chan, sì sụp húp rất ngon lành...
Chính sách của bọn em lúc đó đành buộc phải phù hợp với hoàn cảnh. Em mà to hơn, em sẽ ra lệnh cho trời đừng có mà mưa nữa. Dứt cơn ngay !
CHUYỂN CỨ
Bộ phận tiền trạm sang địa bàn mới bên kia biển Hồ báo về tại đó không có lá thốt nốt. Toàn rừng thưa nên vật liệu lợp nhà phải chuẩn bị trước từ bên này. Lại những ngày vào rừng, tìm đến những phum hoang chặt lá. Thốt nốt quanh ga dân bạn đã xí hết để lấy nước bán cho cánh đi xe lửa. Kể cả những cây mọc ngay cạnh nhà chúng tôi. Đất của bạn, tất nhiên cây cũng là của bạn. Có cho không bọn tôi cũng không biết làm gì với cái cây này. Có điều mỗi sáng trèo lấy nước thốt nốt, cũng nên để lại vài ống cho bộ đội nếu không muốn mất sạch trong đêm. Thốt nốt mất nhiều quá! Họ đành để trống đoạn cây tre làm thang ở đoạn sát gốc.
Làm một đoạn thang di động, đến cây nào áp vào cây ấy. Các chú lính nhà mình từ đó tịt luôn. Mỗi sáng ra đánh răng ngoài suối, nhìn bác nông dân đen trũi loay hoay buộc cái đoạn thang cuối vào mấy cây cạnh lán Văn nghệ, chúng tôi cũng thấy áy náy ra phết. Nhưng bác ấy dường như còn ngượng ngập hơn. Chào chúng tôi lí nhí rồi xách ống biến đi thật nhanh. Kẻ nhỡ đánh cái búm giữa đám đông với kẻ nhỡ nghe phải cái tiếng đó không biết ai nên xấu hổ hơn?
Dáng cây thốt nốt phù hợp đặc biệt với các kiến trúc đền đài, chùa tháp. Nhớ lại hồi mới đánh sang Niék Luong, toàn phải hành quân đêm. Chúng tôi đi trên ruộng, trên đồng bằng giữa điệp trùng thốt nốt. Những hàng cây cao lớn và bí hiểm, đứng lặng phăng phắc trong đêm. Đến nỗi tôi có cảm giác như trên đất nước này gió không tồn tại. Giữa bóng tối tịch lặng, tự nhiên nghe tiếng rơi cái bịch. Đội hình chạy toá ra nằm xuống, tưởng chúng nó phục, rục lựu đạn. Trong đêm sâu bỗng thoảng mùi khóm chin (dứa, thơm). Trái thốt nốt chín rụng đấy! Mùi trái chin không khác mùi dứa chín. Trái thốt nốt chín màu đen tím.
Lớp ruột xơ chứa một thứ bột màu vàng có vị ngọt, hơi ngăm đắng và thơm hơi gắt. Nạo bột quả ra, quết với bột nếp ngâm nước tro, gói lá chuối rồi đem hấp lên là thành thứ bánh thốt nốt đặc sản. Tôi không ưa ngọt nên không thích loại bánh này lắm! Ăn cho biết thôi!
Rồi cũng đến ngày lên đường. Trung đoàn chia quân làm hai cánh. Một cánh gồm các tiểu đoàn bộ binh hành quân ra K’ra ko, từ đó vượt biển Hồ bằng thuyền. Cánh thứ 2 gồm các ban bệ trung đoàn bộ, đi cùng bộ phận hậu cứ các tiểu đoàn đem theo vật liệu xây dựng lán trại. Cánh này hành quân bằng xe lửa về ga Rô Viêng.
Từ đó đi xe D29 vượt phà P’reck Đam, rẽ theo lộ 6 về hợp quân với đơn vị tại S’tung. Thị trấn này nằm trên lộ 6, cách Siêm Riệp khoảng gần 50 km. Tôi đi với cánh thứ 2. Tuy hành quân cơ giới nhưng khi đến vị trí đóng quân mới đã thấy anh em hành quân bộ đã có mặt trước rồi.
Nguồn: Vnmilitaryhistory