Tim thông tin blog này:

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nam Bộ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nam Bộ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Miệt u minh

Xuân Bình:
(viết xong vào ngày khởi công thủy điện Xayaburi, 19-4-2011)

Có những khoảnh khắc miền Tây khiến ta chợt nhận thấy trần gian, thiên đường, địa ngục được nối liền với nhau không chỉ bởi những dòng sông?
Mấy chục năm qua, chỉ còn duy nhất một nơi tôi chưa đi: Đất Mũi. Tôi đã lặng lẽ lần theo dấu vết Mê Kong từ thượng nguồn Tây Tạng xuôi qua Myanmar, Trung Quốc, Lào, Campuchia thì hà cớ gì ngại đi tận cùng đất Việt? Hành trình khám phá dòng chảy vỹ đại góp phần tạo nên đồng bằng Nam bộ này rất cần một khoảng bỏ ngỏ, thiếu hụt, chưa tròn đầy, không khép kín. Cũng là để dành chỗ cho một ước mong, hy vọng dù rất mong manh.
Nhưng cuối cùng thì một run rủi cũng đưa đẩy tôi tới cực Nam. Đất Mũi đã mau mắn bê tông hóa một câu thơ ngổn ngang sự tô vẽ. Cà Mau xây đắp, công kênh một con thuyền không đủ năng lực tạo nên dù chỉ là ảo giác chuyển động. Chòi lên cao hơn rừng đước, rừng tràm là cái tháp canh rất xấu. Nó chỉ giúp người ta trèo cao. Không có nhiều chất liệu để gây men cảm xúc tự hào về Tổ Quốc. Thiếu hụt một vị thế để tạo nên tầm nhìn vượt xa hơn biên cương. Cụt hẫng, cứng đờ một góc hình hài đất nước.
Nếu ai từng tới Kudat, một điểm cực Đông của Malaysia cách Đất Mũi chừng 1300km về phía Đông Nam, khi so sánh, đối chiếu với Đất Mũi chỉ thấy nghẹn đắng thất vọng và tủi.
Ký ức mây trắng?

Nhiều năm qua, với riêng tôi, không gian miền Tây là một tứ giác rộng lớn với bốn tọa độ: đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu, Cần Giờ và Đất Mũi. Cực Nam chỉ là một phần không thể thiếu, nơi ấy không có sông hồn, rừng linh, đất thiêng nhưng luôn cho ta một cảm nhận lạ lùng.
Trong những lần trở về miền Tây, có khi tôi khởi phát từ dấu vết của nền văn hóa Giồng Phệt, điểm tiếp nối giữa di sản của sông Đồng Nai và Cửu Long. Có đôi lúc trôi xuôi theo con nước ròng sông Hậu hay ngược lên biên giới Tây Nam cùng con nước nổi Đồng Tháp. Không dự định, không kế hoạch hay toan tính, cứ để cảm xúc xuôi dòng hay tan chảy về khắp miền đồng bằng đúng như cách mà các dòng chảy đã bền bỉ tạo hình châu thổ.
Trong những hành trình đó, tôi ký thác niềm tin vào những khảo sát kỹ lưỡng của Lê Quang Định viết trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806 ) hay ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia định thành thông chí (1820).
Quá đỗi yêu thương một khúc Dạ Cổ Hoài lang của Cao Văn Lầu. Phải mất thật nhiều thời gian và công phu để trở thành nhịp 8 và tình khúc này đã lan tỏa khắp mọi ngóc ngách vui buồn, sướng khổ của đồng bằng châu thổ.
Trân trọng biết bao những trầm tích sống được lắng đọng từ Hương rừng Cà Mau, Vạch một chân trời…và từ một thân phận Sơn Nam héo hon.
Tôi ước rằng mình cũng có một tấm lòng như Nguyễn Hiến Lê khi ông để lại cho cuộc đời hàng trăm công trình khoa học. Học giả đã dành hơn 40 năm để viết “Con đường thiên lý” một tiểu thuyết duy nhất. Phía sau tác phẩm văn học là cuộc truy tìm về gốc tích, căn nguyên của một thân phận Việt. Một Trần Trọng Khiêm vật vã trốn chạy khỏi Bắc Kỳ trong một số kiếp lang bạt kỳ hồ. Một Lê Kim dứt bỏ châu Âu hoa lệ, “thung lũng vàng” xứ Hoa Kỳ để trở về làm vị tiền hiền khai phá đất hoang, đặt nền móng cho làng Hòa An- Cao Lãnh.
Thực sự cảm phục Đoàn Giỏi khi ông vượt qua những xô bồ của hiện thực Hà Nội trong những năm đầu kết thúc chiến tranh để tái hiện Đất rừng phương Nam. Làm thế nào để suy tư khi mỗi ngày phải khắc khoải bên cạnh bãi bia Cổ Tân, một nỗ lực tiêu biểu cho sự nghiệp nhậu nhẹt vỹ đại. Làm cách gì để mạch văn vẫn mượt mà khi sống chung với tiếng thử phanh lộng óc của xe tải trước cửa Nhà hát lớn…? Trong sâu thẳm ký ức Đoàn Giỏi, thiên nhiên Nam bộ vẫn bén rễ và trỗi dậy, vươn lên. Khi thoát khỏi một con người tuyên huấn, khi dừng mô tả, phân tích tính cách cũng như xây dựng nhân vật chính diện hay sự nghiệp họ theo đuổi, nhà văn rạng rỡ, bay bổng, quyến rũ như tâm hồn trẻ thơ. Chẳng bạn đọc nào có thể quên những đêm câu rắn, những lần tìm kiếm mật ong rừng hay chuyến bắt cá sấu…
Nhưng tôi cũng hoài nghi và nhiều lần tự hỏi điều gì thôi thúc Xuân Diệu viết bài thơ Mũi Cà Mau hay Hoàng Hiệp sáng tác ca khúc Đất Mũi Cà Mau? Mau hay chậm một lối tiếp cận hiện thực đời sống, một quá trình hoài thai tác phẩm? Khẩu hiệu nhiều hơn thơ? Tụng ca lấn át tình ca? Tình người láng coóng và cảm xúc trơ truội? Nhàn nhạt?
Nhiều ngày trở về từ Đất Mũi, trong tôi vẫn chỉ ám ảnh một nụ cười Nguyễn Ngọc Tư. Một dư âm tưởng như hồn nhiên, trong sáng, không gì vướng bận nhưng đôi khi mơ hồ cảm thấy cái… “không thật” như tác giả “tự thú” trong ghi chép “Đất Mũi mù xa”. Nụ cười mỏng mảnh ấy như muốn lan tỏa lớn rộng để che, giấu đi những điều đau buồn bất tận của những cánh đồng, những kiếp người?

Đổi dòng!


Trước khi vào Đất Mũi, gia đình tôi có ghé qua Cổ Tân. Con phố rất nhỏ, rất ngắn, hơi méo và nằm đối diện với Nhà hát lớn Hà Nội. Phố chỉ có hai số nhà. Căn phòng rất chật hẹp ở số 4, nơi Đoàn Giỏi từng kê giấy lên một cái gường để viết Đất rừng phương Nam đã không còn tồn tại, đã biến mất. Con tôi chạy dọc đường Tràng Tiền, Cổ Tân, gặp ai nó cũng thử dò hỏi. Anh ơi, cho em hỏi đường đi đến Cổ Tân? Dạ thưa chị: nhà ông Đoàn Giỏi ở chỗ nào? Bác cho cháu hỏi: Tác giả Đất rừng phương Nam từng ở đâu? Nhiều cái lắc đầu ngơ ngơ và… không có một câu trả lời đúng. Có lẽ nhiều người Hà Nội không biết Cổ Tân cũng như một nhân vật khá nổi tiếng từng ngụ cư nơi này.
Ngay lúc đó, một suy nghĩ cứ ám ảnh tôi: Đất Mũi, miền Tây sẽ còn lại những gì như đã tái hiện trong văn học? Hà Nội còn nhốn nháo, suy kiệt. Đà Nẵng vẫn tiếp tục loay hoay. Sài Gòn quá xộc xệch, hỗn loạn. Trong cơ đày ấy, miền Tây liệu có như Tây Bắc, Tây Nguyên?
Khi đã trườn mình trên kênh rạch Đầm Dơi, Cái Nước, Đông Thới, Năm Căn, An Đông, Ngọc Hiển…nào đâu còn lưu hương rừng Cà Mau? Không còn nhiều cơ hội biết đến một miền Tây như những ghi chép của Sơn Nam:
“Sậy mọc khỏi đầu. Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u ? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.”
Bỗng thấy nhớ và thương đám bạn trẻ con ngày trước, đến bây giờ có đứa vẫn đọc cho con cháu nghe văn của Đoàn Giỏi:

“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối.”
Không nhiều hiện thực hôm nay dám bảo chứng cho những điều mà các nhà văn, nhà văn hóa đã ghi chép, để lại.
Thấy buồn hơn khi đọc những chia sẻ của Nguyễn Ngọc Tư: “Đất Mũi thiệt tình không có núi cao, không có biển xanh, cát trắng, không cung đình cổ kính lại càng không có phổ cổ đìu hiu. Đất Mũi chỉ có bùn sình, rừng thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục ngầu phù sa nhưng ở đây nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải, biển bên trái. Bình minh, mặt trời từ biển quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về, mặt trời chín đỏ già nua lại ngụp về biển sau một ngày tự cháy.”
Mấy chục năm qua, môi trường nhân văn đổi thay theo chiều hướng không thuận thiên đã kéo theo quá nhiều hệ lụy. Một thời gian dài, người ta dư thừa tự tin với ý thức cải tạo thiên nhiên, thay trời, ngăn sông, mở đất, dịch chuyển giang sơn. Tư duy…Trị… thủy sông Hồng rất hồn nhiên, ngang nhiên tạo nên sóng thần ở miền Tây. Thuật ngữ “Mùa nước nổi” được “phiên dịch”, “chuyển ngữ” thành mùa ngập lụt. Sự hình thành tự nhiên của kênh rạch được định nghĩa như một nguy cơ gây nhiễu loạn dòng chảy. Ơn cao dày của trời đất, cơ may của đồng bằng châu thổ lại được hiểu là “thảm họa”. Nhiều kênh đào hiện hình để kỳ vọng nắn nước, đổi hướng phù sa bồi đắp cho vịnh Thái Lan. Những dòng chảy cũ được khơi sâu. Đê bao vươn dài, bưng kín, khu biệt những đô thị mới. Các ốc đảo này gần như ngưng nhịp thở hài hòa với đồng bằng. Tất cả để cho nước Mekong rút tháo nhanh ra biển với mục tiêu thau chua, rửa phèn hay “giải phóng” tình trạng cô lập cho những vùng thấp dễ ngập lụt?!?!
Năm đầu tiên của thiên niên kỷ, chẳng hiểu sao rất nhiều người hoảng sợ và những tờ báo có ảnh hưởng lớn nhất cũng liên tục báo động vì tình trạng nước lên cao? Chỉ 10 năm sau, khi thủy điện lạ mọc lên dày đặc trên thượng nguồn, mọi cảnh báo đã phải đổi chiều. Nguồn nước dần suy kiệt. Hậu quả nhãn tiền là mất con nước nổi, cháy rừng tăng cao, hệ sinh thái thay đổi, nhịp sinh học tự nhiên bị biến dạng. Hàng loạt chương trình phát triển nông nghiệp, thủy sản đã và sẽ có nguy cơ phá sản…
Sau chiến tranh, tiếp theo những tham vọng ấu trĩ, tính toán may rủi cùng nhiều quyết định liều lĩnh, đen bạc thì sự hiện hình của những thủy điện Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn, Tiểu Loan, Cảnh Hồng của Trung Quốc, Xayaburi của Lào… thực sự là hiểm họa rất gần với miền Tây. (nơi cung cấp hơn 50% lượng lúa gạo, hơn 70% thủy sản và hơn 70% trái cây cho cả nước.) Thêm một lần nữa, khi nguồn nước bị chặn lại, đổi dòng từ những nơi rất xa thì người miền Tây có nhiều nguy cơ bơ vơ trên cánh đồng, lạc lối trong miệt vườn.

Từ những mắt thuyền…

Dù ở thời đại hồng thủy của Noe hay trong bộ phim giả tưởng 2012 của Roland Emmerich thì phương tiện giải cứu con người vẫn là những chiếc thuyền.
Điều này càng đúng hơn với một miền đất có khoảng 55000 km sông rạch. Nhà chỉ là chỗ tạm dừng, có thể bỏ. Hoàn cảnh sống sẽ tiếp tục biến đổi cực kỳ phức tạp. Nhưng trong tương lai vài trăm năm nữa, trung tâm, đặc trưng không gian sống miền Tây không phải là ngôi nhà. Bản thiết kế hay triết lý cho mọi kiến trúc miền Tây phải được chiết xuất từ những thông điệp lớn của những con thuyền. Triết lý ấy là sống thuận với trời đất, lựa theo con nước, ưa sự dịch chuyển, luôn thay đổi. Sơn Nam từng nhận xét: những con thuyền và nghề thương hồ đã tạo ra miền Tây.
Từ xa xưa miệt sông nước này có thật nhiều loại tàu thuyền, ghe, xuồng, phà, chẹt, bè. Xuồng có loại ba, năm lá, xuồng máy. Ghe có loại bơi chèo, chống, ghe lườn, ghe chài, ghe hầu, ghe bầu, ghe tam bản mui ngắn, ghe tam bản mui dài … Ghe lườn còn gọi là ghe độc mộc, thon nhẹ, bụng nhỏ và dài, không cong ở mũi và lái. Ghe chài dùng cho người sống trên sông nước, buôn bán đường dài. Ghe hai tầng, chia làm hai phần chứa hàng hóa và sinh hoạt. Di chuyển nhanh, chở nhẹ có ghe lưới. Chở hàng có ghe bè, ghe lồng. Đánh bắt tôm có ghe cào tôm. Chở cá thì có ghe cá, ghe rổi. Ghe hầu là loại ghe lớn có trang trí rồng, sơn son thếp vàng dùng cho gia đình giàu sang. Ghe bầu được đưa từ miền Trung vào Nam bộ những năm giữa thế kỷ 18. Ghe có lườn rộng, cấu trúc vững chãi, chịu sóng gió, sức chứa lớn.
Ngày trước, vật liệu tốt nhất để đóng ghe bầu là gỗ sao ( Hopea Odorata). Gỗ sao chịu được thay đổi của thời tiết, chống được côn trùng, dễ làm, dễ uốn dẻo, dễ sơn, chịu va đập mạnh. Nguồn gỗ sao quý nhất là ở rừng Quang Hóa thuộc Gia Định(nay thuộc huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh). Thuyền đóng bằng gỗ sao có thể dùng trong 60 năm.
Từ cuối thế kỷ 18 khi nhu cầu buôn bán gạo của Việt Nam- Thái Lan và Trung Quốc tăng đột biến, từng đoàn ghe bầu tấp nập trên các kênh rạch góp phần tạo nên hình ảnh một thương cảng, đầu mối giao thông nhộn nhịp bậc nhất châu Á cho đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay, hình ảnh của những con tàu cũng xộc xệch đổi thay từ những điều rất nhỏ. Mắt thuyền là điếm nhìn ấn tượng nhất của mỗi con thuyền. Vị trí đầu mũi, trán thuyền là một không gian được thiêng hóa. Vẽ mắt thuyền là một hiện tượng văn hóa phổ biến. Ngày trước thuyền ngự Long Lân, Trân Châu… của vua nhà Nguyễn thường chạm, khắc, vẽ long, phụng, hổ phù. Thuyền của các cự phú thì sơn son thếp vàng mô típ hoa lá, chữ phúc lộc…. Ghe xuồng của dân đều vẽ mắt để trấn áp thủy quái. Nhiều ghe trang trí rồng hoặc mô típ rắn thần Naga ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Ấn Độ. Biểu tượng đó cũng đồng hiện với tín ngưỡng thờ sông, thờ nước.
Nhưng hôm nay trên rất nhiều vỏ lãi chế tạo từ nhựa tổng hợp đã mất dần đi biểu tượng linh thiêng đó. Ngay đầu mũi thuyền là hình con Cơ, con Nhép đỏ trong quân bài Tây. Du nhập đầu tiên vào Việt Nam ở vùng núi cực Bắc, poker mau chóng trở thành tú lơ khơ, ích xì những phương tiện không thể thiếu của những cuộc tá lả, xì lát, xì dách, xì tố, tiến lên, bài tấn, xập xám…Quân Nhép phiên trại âm từ trèfle vốn là tên gọi của một thứ cỏ ba lá. Quân Cơ là phiên âm từ coeur (gốc Latinh: cor) có nghĩa là trái tim.
Sau hơn 60 năm theo dòng người Bắc di cư, Nhép trở thành một định nghĩa mới về những may mắn, tài lộc, tài chính, tiền bạc. Cơ là biểu tượng mới cho may mắn, tình duyên, son đỏ, hên. Những lá bài may rủi đã trở thành những tín hiệu vật linh. Tiền và Tình trở thành tín ngưỡng, tôn giáo mới. Ở những chốn xa xôi, heo hút nhất, cái quá bình thường của văn hóa phương Tây lại được tôn vinh trên bề mặt những vật dụng thiết thân. Văn hóa vật chất lấn lướt văn hóa tâm linh. Cái thực dụng dẫn đầu, định hướng những giá trị tinh thần.
Từ một chi tiết nhỏ bé vẽ in trên vỏ thuyền lại có thể dự báo tương lai gần của Đất Mũi, miền Tây? Bao đời nay miền đất này vẫn chấp chới, nhập nhòa giữa đôi bờ hay hai lộ trình sáng- tối, phải- trái, động- tĩnh, dục- lý, nghĩa- lợi, hỷ- nộ, ai- lạc…Trôi dạt hay ngưng đọng…khi nước ngọt suy kiệt, thủy triều mặn dâng cao qua vùng biên giới Tây Nam?

1, 0994, 0996: không ảnh sông nước Nam bộ
8662- Ghe bầu Nam Bộ. Tranh do J.B. Piétri vẽ trong sách Contrôleur des Pêches de l’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương).
8695- Nam bộ trong tranh khắc người Pháp TK18
8699- tàu thuyền của vua Tự Đức 1862
8700- một cảng sông 1883

*****

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Bà Chúa Xứ - vía Bà, tượng Ông


Tượng Bà Chúa Xứ

Kỳ bí miếu Bà Chúa Xứ

Tỉnh Cà Mau có thể biến mất trong vài thập kỷ tới

"Tỉnh Cà Mau có thể biến mất hoàn toàn trong vài thập kỷ tới nếu không dừng bơm nước ngầm" là cảnh báo của Viện Địa kỹ thuật Hoàng gia Na Uy (NGI) nêu lên tại hội thảo “Kết quả dự án nghiên cứu giai đoạn 1-sự sụt lún đất ở bán đảo Cà Mau” diễn ra tại thành phố Cần Thơ, ngày 17/6.
Hội thảo do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Viện Địa kỹ thuật Hoàng gia Na Uy tổ chức.
Dự án nghiên cứu giai đoạn 1-sự sụt lún đất ở bán đảo Cà Mau do Viện Địa kỹ thuật Hoàng gia Na Uy triển khai thực hiện từ tháng 5/2012 theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với Bộ Ngoại giao Na Uy.
Qua nghiên cứu, từ những dữ liệu thu thập được từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và những chuyến đi thực địa, Viện Địa kỹ thuật Hoàng gia Na Uy đã đưa ra kết luận miền Nam có thể bị sụt lún nghiêm trọng trên bề mặt do hoạt động bơm nước mặt liên tục. Riêng tại tỉnh Cà Mau, vì bề mặt của hầu hết tỉnh chỉ cao hơn mực nước biển 1 mét, nên sụt lún được xem là nguyên nhân dẫn đến mất đất liên tục, sự hư hại của rừng ngậm mặn ven biển, sự xâm thực mạnh của nước biển vào hệ thống sông ngòi...
Tỉnh Cà Mau có thể biến mất trong vài thập kỷ tới
Rừng ngập mặn mũi Cà Mau

Miền Tây của Sơn Nam, của bây giờ và mai sau

(TBKTSG) - Lời của Lục cụ chùa Sóc Ven ám ảnh tôi suốt từ chuyến đi lần theo Hương Rừng Cà Mau: “Mình có lỗi với đất với nước. Đất và nước cho mình tất cả cuộc sống, mà mình lại làm nhiều điều không phải với đất, với nước”. Những thí dụ Lục cụ đưa ra đơn giản như “đái ỉa” xuống nước, là một trong nhiều hình thức gây ô nhiễm môi trường. Hay xẻ những con kênh ngang dọc mặt đất, khiến đất bị xì phèn, nhiễm mặn, rồi cày cấy liên tục ba bốn mùa không cho đất nghỉ ngơi. Hay đắp đường, bờ bao cản dòng chảy của nước... Đất hiện nay đối với nhiều người là tài sản, tư hữu, thậm chí tư bản. Nước đương nhiên là tài nguyên, trong tương lai gần sẽ là hàng hóa giá cao.
Nhưng Lục cụ coi đất và nước như những sinh thể có thần phách, giận dữ vì những lỗi dại dột của con người, nhưng lại rất bao dung tha thứ con người, chẳng khác gì lòng người cha người mẹ. Sự bao dung, hào phóng của nước đã giúp con người tiếp tục sinh sống nhiều trăm năm trên mảnh đất phương Nam này, và... tái phạm lỗi lầm.
Hai chuyến đi về vùng U Minh của tôi cách nhau một phần tư thế kỷ cho tôi cảm giác mình đi qua hai vùng đất hoàn toàn khác nhau. Giữa thập niên 1980 hầu như chỉ có thể đi lại bằng đường thủy, bến đò ở Rạch Giá là đầu mối giao thông, nơi tôi đứng nhìn những chiếc đò cũ kỹ mang những chữ Thứ Bảy, Thứ Mười Một... mà nao nao trong lòng, tưởng tượng những phong cảnh mịt mờ ở cõi hồng hoang. Tháng 10-2008 thì chuyến đi của tôi hầu như được thực hiện trên những chiếc xe hơi đời mới chạy bon bon trên những con đường nhựa mới khánh thành.

‘Đất của Việt Nam’

BBC Cập nhật: 08:39 GMT - thứ năm, 29 tháng 8, 2013
Mekong Delta
Người Việt đã khai khẩn vùng đồng bằng sông Cửu Long khoảng 400 năm nay
Trong một cuộc phỏng vấ́n mới đây với BBC, ông Sam Rainsy, lãnh đạo đối lập Campuchia, cáo buộc Việt Nam đã sát nhập vào lãnh thổ của mình những vùng đất của người Khmer. BBC đã liên hệ với ông Nguyễn Đình Đầu, một nhà nghiên cứu lâu năm về địa bạ cũng như lịch sử khai khẩn miền Nam, Việt Nam, để tìm hiểu về vấn đề này.
BBC: Thưa ông Nguyễn Đình Đầu, gần đây trong một cuộc phỏng vấn với BBC, ông Sam Rainsy, lãnh đạo đối lập Campuchia có tố cáo Việt Nam ‘chiếm đất của người Khmer’. Ông nghĩ thế nào về điều này?

Những cư dân đầu tiên khai phá vùng đất Miền Nam VN

NHỮNG HIỂU BIẾT MỚI VỀ NAM BỘ
Nguyễn Văn Huy (Pháp)

Những nhóm dân cư đầu tiên tại miền Nam

Những nhóm Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của người Khmer trên lãnh thổ miền Nam. Sự tiếp cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Người Khmer chưa hề làm chủ vùng đất này. Đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, cũng chưa bao giờ làm chủ vùng đất này vì một lý do giản dị : người Khmer không có mặt trên đồng bằng sông Cửu Long. Cho đến nay khoa khảo cổ học không tìm thấy đền đài nào của thời Angkor trên đồng bằng sông Cửu Long. Cũng nên biết nền văn minh chói sáng của các thời đại Angkor thể hiện qua các công trình kiến trúc bằng đá, tất cả đều tập trung quanh khu vực Siem Reap và Battambang. Thời kỳ sau đó, từ thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ 17, lãnh thổ của vương quốc Chân Lạp chỉ quanh quẩn từ khu vực phía nam hồ Tonle Sap đến khu Mỏ Vẹt phía đông, và từ Stung Treng phía bắc đến Tàkeo về phía nam, mỗi khu vực do một tiểu vương chiếm giữ và đánh phá lẫn nhau. Những danh xưng như Moat Chruk (Châu Đốc), Phsar Dek (Sa Đéc), Toek Khmau (Cà Mau), v.v. chỉ xuất hiện sau này khi người Khmer theo chân người Việt và người Minh Hương đến khai phá đồng bằng sông Cửu Long, từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Di tích xưa nhất của người Khmer : các chùa chiền có cùng niên đại với sự xuất hiện của người Hoa và người Việt, nghĩa là cách đây khoảng 300 năm.

Clip Vòi rồng hút nước chưa từng thấy ở Việt Nam



Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam (PI)

Hồ Đình Vũ
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó...riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy? 
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình. 
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.


Tên do địa hình, địa thế 
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre: 
"Gió đưa gió đẩy, 
về rẫy ăn còng, 
về bưng ăn cá, 
về giồng ăn dưa..."
 
Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam (PII)


ĐỊA DANH SAIGON - CHỢLỚN 
(TRÍCH SÔNG NÚI MIỀN NAM)

Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ,người Tây Phương khi đặt chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16 , 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.

Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai ( đồng có nhiều nai),Lộc Dã,Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại,là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm 1623.Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635),đã gả Công chúa Ngọc Vạn,lệnh ái thứ 2,cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong.Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ.Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài(gò trồng xoài),gần Bà Rịa đúng vào năm 1623( Theo Claude Madrolle -Indochine du Sud,Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon.Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659),em vua trước,vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.

Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào,là vì muốn cậy thế lực của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm.Như vậy chúng ta đã đến sinh cơ,lập nghiệp,khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của đôi bên,chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập.Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của mình.

Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp tình,hợp lý và hợp pháp.Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam (PIII)

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam (PIV)

Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ

GS.TSKH Vũ Minh Giang

Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu (mà không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vung hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer[1]. Trong một hội thảo về Bảo tồn di sản văn hoá tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản), báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm “dạng thức đặc biệt của nhóm Khmer”[2]. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.

1. Vấn đề nước Phù Nam

Sông nước miền Tây: Luật chim trời cá nước

Ảnh Trần Chí Kông
Nam Bộ là vùng đất mới khẩn hoang, đất rộng người thưa, thiên nhiên ưu đãi nhưng cũng không thiếu thử thách khắc nghiệt. Trong điều kiện cần sống cộng cư giữa nhiều cộng đồng dân tộc, hợp sức chống lại thiên nhiên, đã hình thành lên tính cách con người và những sinh hoạt tập quán riêng. Thực tế, người Nam Bộ đã hình thành nhiều luật lệ, tập tục bất thành văn nhưng ai cũng biết, tuân thủ một cách tự nhiên, rất nhân ái, rất hài hòa giữa cá nhân với cộng đồng.


Chim trời cá nước là một trong những “luật” ấy. Xem tuồng Tiếng Hỏ Sông Hậu, mỗi lần nghệ sĩ Diệp Lang đóng vai ông Hội Đồng lên giọng “cái gì trên đất của ông Hội là của ông Hội, con chim bay ngang vườn ông Hội là của ông Hội”, khán giả Nam Bộ bất giác cười ổ lên nhưng người vủng miền khác không hiểu vì sao lại cười như vậy. Theo luật lệ dân sự hiện nay và theo các quy định chung của nhiều nơi thì điều này đúng. Người chủ sử dụng đất có toàn quyền sử dụng phần không gian, lòng đất trong diện tích của mình. Nhà này trồng cây để tàn lá lấn qua nhà người khác là có chuyện. Thậm chí nước mưa trên mái nhà này đổ sang nhà khác cũng gây rắc rối… Thế nhưng với người Nam Bộ, câu nói của ông Hội lại phạm vào luật chim trời cá nước mà ai cũng biết, cũng thi hành dù không nói ra thành lời. Quan niệm ke re cắc rắc kiểu ông Hội bị xem là keo bẩn, nhỏ mọn, bị xem thường.

Tìm kiếm Blog này