Hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn trong tôi nói riêng
và gia đình chúng tôi khởi đầu từ sự tâm giao của những người bạn thời
sinh viên.
Ở đó tấm lòng chân thành của bạn bè đã đưa chúng tôi lại gần với nhau tự
lúc nào không biết. Cho đến khi nhân ra điều này thì âm nhạc Trịnh
Công Sơn đã là một phần trong cuộc sống của chúng tôi rồi.
Đầu những năm 1960, tôi nghe một số tình ca là
lạ Ướt mi, Thương một người... của Trịnh Công Sơn (TCS) - một nhạc sĩ
trẻ chưa nổi tiếng lắm,
qua giọng hát liêu trai của Thanh Thúy làm mê hoặc không ít người trẻ.
Rồi Nhìn những mùa thu đi với giọng ca trong sáng rất dễ thương,
mượt mà, có người cho là “sang trọng” kiểu Huế của Hà Thanh, nhất là khi
song ca với giọng truyền cảm kiểu Bắc của Mai Hương, cũng một
thời làm người ta khó quên. Đặc biệt khi nghe Chiều một mình qua phố,
thì ở lứa tuổi học trò của chúng tôi thời ấy không ai mà không thuộc.
Dân Huế lại “ghiền” hơn, có người thích đạp xe lang thang dưới những
hàng me xanh Sài Gòn để tự ru dỗ mình cho đỡ nhớ nhà, tự thì thầm với
mình: ”Chiều một mình qua phố / Âm thầm nhớ đến tên em / Có khi nắng
khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím... Ngày nào mình thôi có nhau
xin người biết đau”. Có bạn kêu lên: ”Cha ni ‘ba lơn’ chi lạ, đau hay
không thì kệ người ta, mắc chi mình phải ‘xin’?”
Tôi lại nghĩ khác, TCS đã linh cảm được thân phận của
kẻ làm ‘người’, làm một ‘vết lăn trầm’ biết đau, cái nỗi đau trần thế
trước uy lực
cay nghiệt của tạo hóa. Ngay trong tình yêu mà TCS cũng đã bắt đầu trăn
trở về thân phận con người từ đây chăng, rồi Diễm xưa, Hạ trắng,
đến những Phôi pha, Mưa hồng, Tình nhớ, Tình xa... Rõ ràng tình có buồn
thật nhưng không ’sến’, vì những lời ca quá thánh thiện và đầy
triết lý: “Làm sao em biết bia đá không đau”... “Ngàn sau sỏi đá cũng
cần có nhau”. Đến loạt Ca khúc Da vàng sau này, TCS luôn xin con
người ‘biết đau’ trước nỗi đau của người khác trong chiến tranh.
Niên khóa 1964-65, tôi ở trong Ban đại diện Sinh viên
Đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn (đường Nguyễn Trung Trực, nay là Thư viện
Quốc gia).
Lần đầu tiên tôi gặp TCS đến trường tôi hát với ca sĩ Thái Thanh. TCS
giới thiệu và nhờ cô hát 2 bài mới sáng tác là Lời buồn thánh và
Tuổi đá buồn. Sơn người gầy, đeo kính cận rộng vành, dáng dấp thư sinh,
nói giọng Huế hơi nhỏ nhẹ. Ôm chiếc ghi ta thùng đệm cho
Thái Thanh hát giữa trời, trong sân cỏ của trường, không có sân khấu.
Hai người đứng trước một bức tường rêu của ngôi nhà tiền chế
bỏ hoang, nhìn ra đường Nguyễn Trung Trực. Khán giả hầu hết là những
sinh viên trường chúng tôi và bạn bè ngồi xổm xuống đất, lót
giấy báo hay guốc dép, không có ghế. Cứ như là mấy đêm hát lửa trại, vậy
mà vui. Khi Thái Thanh và mọi người ra về, Sơn ngồi lại với
nhóm sinh viên thân hữu của trường. Sơn hỏi ý kiến mọi người, ai cũng
khen giọng ca Thái Thanh còn phong độ, còn khỏe quá... Tôi cũng
công nhận giọng ca của cô còn tuyệt lắm và rất độc đáo, nhưng xin trả
Thái Thanh về cho ‘Hội trùng dương’ và ‘Danube bleu’ (Dòng sông
Danube xanh), vì bắt cô hát nhạc của TCS thì ‘hơi uổng’ cho cả hai...
Mọi người gật gù và Sơn chú ý đến lời nhận xét hơi ‘lạ’ của tôi
rồi bắt đầu làm quen.
Vài tuần sau, Sơn mời Lệ Thu đến hát một số tình ca,
quê hương và thân phận của Sơn nữa. Cũng hát trước bức tường rêu phong
đó. Khán giả
vổ tay tán thưởng, góp ý này nọ. Sơn hỏi riêng tôi: ”Chị thấy sao?” Tôi
nói thật: ”Giọng Lệ Thu hay, truyền cảm nhưng có vài bài như vẫn
còn thiếu cái gì đó của chất nhạc TCS”. Sơn gật gật...
Rồi bạn bè tổ chức cho TCS tự hát một đêm bên trong
căn nhà tiền chế sau này lấy làm phòng ấn loát cho sinh viên. Sơn đứng
ôm đàn hát một
mình, sinh viên chúng tôi lót giấy báo ngồi xuống đất vây quanh (như
trong bức hình tôi còn lưu giữ và đã tặng cho TCS, sau này in vào mặt
sau tập nhạc “Những bài ca không năm tháng”). Lần nào TCS cũng được sinh
viên hoan nghênh nhiệt liệt và bắt đầu làm quen với sinh viên học
sinh từ Đại học Văn khoa.
Tuy vậy, Sơn vẫn cứ muốn đi tìm một giọng ca thật
thích hợp cho nhạc của mình để cùng hát thì hay hơn. Sau này Sơn đã gặp
được Khánh Ly
đang hát cho một phòng trà ở Đà Lạt. Sơn đã mời cô về hát thử những ca
khúc mới của mình, cũng ở Đại học Văn khoa. Lần này thì ai cũng
phải công nhận giọng hát Khánh Ly trầm khàn, mà hát nhạc của Sơn thì như
là có chất ma túy, càng hát càng thu hút người nghe. Tôi chúc
mừng Sơn đã tìm được tri kỷ rồi nhé.
GIỌT NƯỚC MẮT
Theo yêu cầu của bạn bè, anh tổng thư ký NNB ban đại
diện Sinh viên đoàn Văn khoa đã ký tặng các bạn của TCS một căn nhà tiền
chế bỏ
hoang trong khuôn viên trường ở góc đường Lê Thánh Tôn - Công Lý (nay là
Nam Kỳ Khởi nghĩa) để làm Hội Họa sĩ Trẻ. Ở đó các họa sĩ như
Nguyễn Trung, Đinh Cường, Trịnh Cung, Nguyên Khai... và họa sĩ bạn đến
sinh hoạt thường xuyên. Và Sơn có thêm một chỗ an trú trong
những ngày trốn lính ở Sài Gòn, nếu cái gác xếp nhà xuất bản An Tiêm bị
lộ. Trong tình trạng này, Sơn luôn di chuyển khi thì ở nhà bạn bè,
như TVN, cứ mỗi chỗ vài hôm cho khỏi bị theo dõi. Và chỗ nào bị chú ý
thì Sơn phải biến ngay.
Dạo ấy, tôi thường liên lạc với thầy Nhất Hạnh và các
thầy ở nhà xuất bản Lá Bối rồi An tiêm để mang phổ biến những tác phẩm
hòa bình, đạo
pháp và dân tộc của thầy Nhất Hạnh: Tình người (Tâm Quán, bút hiệu đầu
tiên của Thầy), Nói với tuổi 20, Phật giáo hiện đại hoá, Hoa sen
trong biển lửa... và Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.
Đây là quyển thơ mang nội dung hòa bình bất bạo động
của thầy Nhất Hạnh mà một hôm tôi mang vào bán cho sinh viên Văn khoa.
Vừa vào lớp xin phép thầy CL (ở Pháp về), mới nhìn thấy tựa cuốn thơ là
thầy đã la lên:” Ồ! Hòa bình hả? Hòa bình là có lợi cho Việt Cộng,
không thể phổ biến ở đây được”. Thầy đuổi tôi ra khỏi lớp, cả bọn sinh
viên phân ban Pháp như một lũ con Tây xua tay: ”Sortez, sortez!...”
(đi ra, cút đi). Tôi ôm chồng thơ, chào thầy rồi chạy vội ra khỏi lớp
với tràng cười cợt đuổi xua theo sau lưng. Có một giọng tiếng Việt còn
ngọng nghịu: ”Ra ngoài Bắc mà kêu hòa bình đi!” Tôi nghẹn ngào, xấu hổ,
nước mắt bỗng tuôn rơi vì đời tôi từ nhỏ tới giờ chưa bị ai xua đuổi
nhục nhã như vậy. Đi ngang phòng thầy khoa trưởng Nguyễn Đăng Thục, thấy
cửa mở, thầy ngoắc tôi vào:” Đi đâu, mang sách gì mà khệ nệ
thế này?” Tôi vào, đóng vội cửa lại và kể hết cho thầy nghe. “Con xin
lỗi thầy là đã không xin phép thầy trước”. Thầy Thục cầm một quyển thơ
lên xem và khuyên tôi: ”Thôi cô mang về giả lại thầy Nhất Hạnh đi! Thưa
với thầy là ở đây khó khăn lắm. Tôi ngồi đây cũng không yên thân
nữa là. Vì cái vụ danh sách Hòa bình Tự quyết của các ông giáo sư TTDK
đấy. Ối dào, mấy cái anh Tây con này mà biết gì tới hòa bình, đạo
pháp và dân tộc kia chứ! Rõ khổ!”
Tôi mang chồng thơ về Đại học Vạn Hạnh (lúc đó còn ở
chùa Pháp Hội) gặp thầy Nhất Hạnh, kể hết sự tình ở Văn khoa: ”...Họ bảo
sách thầy có lợi
cho Việt Cộng, thầy Thục cũng không can thiệp được...” Thầy Nhất Hạnh
buồn bã khuyên tôi: ”Thầy khoa trưởng nói đúng đó, họ không còn là
người Việt Nam nữa rồi, không hiểu gì hết hay không cần hiểu nữa. Họ đã
vong thân chính trên quê hương của mình rồi! Thôi cô đem về An Tiêm
giao lại cho thầy Thanh Tuệ, đừng buồn nữa!”
Tôi lại mang chồng thơ hòa bình về An Tiêm trong con
hẻm đường Lý thái Tổ. Thầy Tuệ ngạc nhiên: ” Ủa, sao lại mang trở về?”
Tôi lại kể lể bị
xua đuổi ở Văn khoa. Vừa tức, vừa tủi thân, vừa thấm mệt, tôi bật khóc: ”
Cuốn thơ dễ thương như vậy mà họ bảo là thân Cộng đó...Thầy”. Trên
khung cửa nhỏ của cầu thang. TCS ló mặt xuống hỏi: ” Gì vậy?”, rồi ngoắc
tôi lên. Thầy Tuệ bảo chị lên uống trà với anh Sơn cho ấm, hết mưa rồi
về. Tôi leo lên thang gác gỗ nhỏ xíu. Cái gác xép vừa đủ cho một bộ xa
lông nhỏ cũ kỹ và một tấm màn xanh đen lớn che chắn nửa phòng. Bên
trong là giang sơn của các vị văn nghệ sĩ lang thang và trốn lính: Trịnh
Công Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Bửu Ý, Nguyễn Đức Sơn...
thường xuyên ghé một hai ngày rồi đi. Nhà xuất bản An Tiêm của thầy như
một bến sông nhỏ của những con thuyền độc mộc tài hoa một thời, cứ
tấp vào rồi lại ra đi. Tôi ngồi uống trà nhìn ra cửa sổ, mưa rỉ rả buồn
chi lạ. Sơn đã nghe hết chuyện, lên giọng kẻ cả la tôi:” Có chi mà khóc
như
con nít rứa?” Tôi ức quá kêu kên: ” Chớ tụi nó cũng là sinh viên mà đuổi
mình như cùi hủi, không tức hả? Ngày mai tụi nó sẽ kháo ầm lên, cái
con bé mặc áo tím đấy nay bày đặt đi bán sách hòa bình thân Cộng bị thầy
đuổi. Làm sao mà còn ngồi học được!”...
Sơn buồn buồn nhìn ra cửa sổ bảo tôi: ”Bạn nhìn ra
terrasse (sân thượng) xem, thấy gì không?” Tôi nói không thấy gì, mưa
vừa tạnh. Sơn bảo,
nhìn kỹ đi. Tôi đang tức mà hỏi chuyện vô duyên nên gắt lại: ”Nhìn
kỹ rồi, chỉ có một sợi giây thép phơi áo quần mà mưa nên thầy không
phơi.
Hết.” Sơn cười chọc quê làm tôi tức thêm: ”Rứa mà cũng học Triết, uổng
quá!” Rồi Sơn chỉ tay qua lại như người lên đồng và bảo: ”Bạn thấy
không?
Những giọt mưa đang chạy qua lại trên sợi dây kẻm ngoài kia, hễ gió thổi
qua thì nó chạy qua, gió thổi lại thì nó chạy lại, chúng nó dìu dắt
nhau
đi tìm sự ‘an trú’ mà không có...Rồi gió thổi mạnh thì chúng run rẩy...
và rơi xuống đất, tịch lặng...Tội nghiệp chưa? Mấy giọt mưa kia còn khổ
hơn mình nhiều. Tui với bạn ngồi đây được ‘an trú’ dưới mái tôn che chở
của An Tiêm, dù nhỏ bé và nghèo cũng còn hạnh phúc hơn những
giọt mưa ngoài kia... Đừng có ‘con nít’ nữa. Quan tâm làm gì những lời
lẽ vong thân mất gốc. Phải bỏ ngoài tai mới sống nỗi. Bạn mà cứ còn
suy nghĩ kiểu ‘công nương’ đó thì còn buồn khổ dài dài. Nhìn những giọt
mưa kia có giống những giọt nước mắt quê hương mình không?
Mình ở trong thành phố, cực mấy cũng còn sướng chán. Dân ở nông thôn mới
khổ dễ sợ. Đạn bom cày xới mỗi ngày, bạn bè đi lính thì cứ nghe
tin ngả xuống liên tục. Thật là đau đớn, nhức nhối!...”
Trên đường về tôi suy nghĩ mãi về những liên tưởng,
những cộng hưởng lương tri của TCS. Từ những giọt mưa đi tìm an trú trên
giây kẻm đến
những giọt nước mắt quê hương mình trong chiến tranh thì thật lạ và cũng
thật tuyệt diệu. Sơn đã đưa triết học vào âm nhạc rồi đó. Có phải từ
những liên tưởng này mà Sơn đã viết bài Giọt nước mắt quê hương chăng?
Hôm sau tôi vào trường thì bị ngay một dàn chào hí hố:”Bồ câu
xuất hiện rồi kìa... Ôi giời! Sao bồ câu không bay ra Bắc mà kêu gọi hòa
bình nhĩ? vv,,, và vv... Nhớ lời Sơn, tôi cứ mặc kệ phớt tĩnh vào học.
Và thỉnh thoảng vẫn lên Đại học Vạn Hạnh giúp thầy sửa chửa bản thảo
sách báo hòa bình và qua An Tiêm gặp lại Sơn và các bạn bè nghệ sĩ
lang thang. Họ bàn luận và bức xúc về chiến tranh cùng những hậu quả của
nó, và nhất là sự có mặt nghênh ngang của lính Mỹ trên đường phố
Sài Gòn...đến không chịu nỗi nữa. TCS luôn đốt thuốc lá ngồi nghe, trầm
tư và tích lũy bao ý tưởng bạn bè. Sau này, nhìn thấy trong những
ca khúc TCS, thỉnh thoảng có bóng dáng bạn bè, như “Còn hai con mắt, một
con khóc người...” thì rõ là cái kiểu Bùi giáng rồi.
THỂ NGHIỆM CA KHÚC DA VÀNGSau vụ Phật giáo bị đàn áp năm 1966, tình hình chiến sự ngày càng tăng nhanh. Báo chí đưa tin người chết hai bên quá nhiều. Khoảng năm 1967, nhóm sinh viên Phật tử vận động hòa bình chúng tôi bàn với TCS nên viết nhạc phản chiến, kêu gọi ngưng tiếng súng để nói chuyện giữa người Việt với nhau. Sơn nói muốn viết phải về Huế vì ở đó là địa đầu của những trận chiến đẫm máu nhất. Nhưng sau một tuần Sơn viết cho tôi một lá thư bảo là ngày nào cũng úp mặt lên đàn mà ý nhạc vẫn chưa tới. Rồi sau đó nghe bạn bè ngả xuống. Huế đúng là địa đầu của tải thương và nhận xác. Không lâu sau, Sơn đem tập bản thảo “Ca khúc da vàng” vào Sài Gòn hát thử cho bạn bè nghe ở nhà anh TVN. Ai cũng thấm thía đến sửng sờ, nhất là các bài Người con gái Việt Nam da vàng, Tình ca người mất trí, Gia tài của mẹ...
Chị bác sĩ Đổ Thị Văn và tôi đem về thể nghiệm ở trụ
sở Sinh viên Phật tử trong cư xá Thích Quảng Đức 294 Công lý (nay là Nam
Kỳ Khởi nghĩa).
Nhưng khi chúng tôi trương tấm biểu ngữ “Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da
vàng” lên trước cổng thì ai cũng ngại. Chị Văn thì thấp, tôi thì cao nên
cái biểu ngữ cứ xéo xẹo hoài. Sơn vừa đến, hỏi:”Chứ con trai đâu hết mà
để cho con gái leo lên thang vậy?” Tôi cười: ”Con trai mà ló ra đây để
cho cảnh sát hốt vô trại lính à!” Sơn kêu: ”Chị Văn nhích lên tí cho
bằng bên kia”. Chị cười ngặt nghẽo: ”Ta ráng hết sức rồi, ráng nữa té
sao?” Sơn quăng điếu thuốc, bảo: ”Chị xuống đi, để tôi”, rồi leo lên
cùng tôi căng thẳng biểu ngữ không nghiên lệch nữa.
Khi giới thiệu Sơn hát, anh đoàn trưởng nói: ”Chính tác giả đã cùng bạn
bè leo lên thang treo biểu ngữ đó”. Khán giả vổ tay nồng nhiệt. Sơn ôm
đàn hát Người già em bé, Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết lăn
trầm... Khi đến loạt Ca khúc da vàng thì khán giả đứng lên vổ tay vang
dội cả hội trường. Một số bạn phải chạy ra cổng canh chừng xe cảnh sát.
Sau đợt thể nghiệm đó, TCS rất thành công, bạn bè đưa Sơn về hát
ở Đại học Văn khoa.
“NỘI CHIẾN”
Một hôm, có một chị bạn của tôi và cũng là bạn TCS đã
đến nhà tôi phê bình: ”Sao TCS viết nhạc như vậy mà chị cho là tiến bộ?
Bài Gia tài
của mẹ có câu ‘Hai mươi năm nội chiến từng ngày’. Chữ ‘nội chiến’ không
đúng với chiến tranh Việt Nam. Đây là cuộc chiến chống Mỹ xâm lăng
giành độc lập thống nhất chứ không phải nội chiến như Trịnh - Nguyễn
ngày xưa”. Tôi nói nhưng rõ ràng là người Việt Nam hai miền Nam-Bắc
đang cầm súng giết nhau kia mà. Chị bảo thì do Mỹ đổ quân lên miền Nam
và chỉ đạo từ A đến Z. Rồi chị hạ nhỏ giọng như mệnh lệnh: ”Các anh
ở trong không bằng lòng hai chữ ‘nội chiến’, chị nói Sơn sửa lại đi!”.
Nói xong chị đi ngay.
Tôi nghe mà sợ quá vội chạy lên An Tiêm tìm gặp Sơn,
cầm theo cả tâp Ca khúc da vàng Sơn vừa đưa tôi hôm 18/7/1967 có kèm chữ
ký tặng.
Tôi kể cho Sơn nghe và đề nghị sửa hai chữ ‘nội chiến’ cho rồi, chứ tôi
ngán mấy chữ: “các anh ở trong không bằng lòng” quá! Sơn suy nghĩ một
hồi rồi nói có vẻ bực mình: ”Mệt quá, nhạc viết ra rồi còn bắt sửa đi
sửa lại...” Và Sơn thở dài: ”Thôi tùy bạn, muốn sửa gì cứ sửa!” Tôi đặt
bút xuống
gạch ngang chữ ‘nội chiến’ trong tập nhạc của tôi, viết lên trên đó chữ
‘giặc giã’. Rồi gạch bỏ luôn chữ đó, vì thấy: ”Dỡ quá phải không Sơn?.
Hay
là ‘chinh chiến’ vậy? ‘Chinh chiến’ nghe hơi nhẹ hơn tí, nhưng thôi,
cũng được nghen Sơn?” Sơn ậm ừ: ”Tùy bạn... thôi cũng được!”
Tập nhạc tôi còn lưu giữ đến nay với mấy dấu gạch sửa
đầy kỹ niệm đó. Cho dù Sơn đã đồng ý sửa lại bằng chữ ‘chinh chiến’, mà
khi hát người ta
vẫn cứ hát ‘nội chiến’, thế mới khổ. Khi tôi báo cho Sơn biết việc đó,
Sơn cười: ”Bạn thấy chưa? Đó là quyền của người hát, làm sao mình cản
nỗi!”
Giọng hát Khánh Ly đi vào Ca khúc da vàng của TCS như một “duyên kỳ ngộ”
của Ca và Nhạc. Từ đó dân Sài Gòn chỉ nghe TCS qua giọng hát
Khánh Ly mà thôi. Và Sơn về an trú ở Hội họa sĩ trẻ trong một góc vườn
Văn khoa. Thường khi không có giờ học, tôi băng qua đồi cỏ, xuống căn
nhà Họa sĩ trẻ nghe Sơn tập cho Khánh Ly hát. Một hôm, Mai (tên thật của
Khánh Ly) nhìn thấy tôi bổng kêu lên: ”Chị ơi, từ sáng giờ có mỗi
chữ ‘chết’ mà em ‘chết’ mãi không được, ảnh mắng em...kìa!”. Sơn đang
ngồi hút thuốc, nhìn ra cửa sổ có vẻ khó chịu. Thì ra chữ ‘chết’ trong
“chết trận Đồng Xoài...” trong bài Tình ca người mất trí mà Sơn cứ bắt
Khánh Ly phải láy xuống cho hơi Huế một tí. Mà cô này cứ ‘chết’ lên theo
giọng Bắc hoài nên Sơn bực. Khi tôi nghe và phát hiện ra như thế, Mai à
lên một tiếng. Tôi giải hòa, bảo Sơn đừng có “khó chi mà ác rứa!” Rồi
kéo Mai đi lên đồi cỏ chơi một vòng cho đỡ căng hãy tập tiếp.
Khi Quán Văn mọc lên ở Văn khoa thì ban đại diện cũ
của chúng tôi hết nhiệm kỳ nên tôi ít lui tới quán sinh viên đó, Chỉ
nghe sinh viên xầm xì
là do một nhóm sinh viên Văn khoa và bạn bè ở bên ngoài vô gầy lên. Quán
đơn sơ, nằm trước phòng ban đại diện cũ, để sinh viên có chỗ uống
nước, tán dóc và để cho Khánh Ly, TCS hát với sinh viên. Sân khấu là các
mặt bàn kê lại với nhau và đứng hát giữa trời.
Khoảng năm 1967, Ban Văn nghệ Tổng hội Sinh viên Sài
Gòn do anh Trương Thìn hướng dẫn có tổ chức một đêm hát cho sinh viên
học sinh
nghe ở trụ sở 4 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch). Sau phần trình bày sôi
nổi của Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng và các bạn sinh viên trong
phong trào tranh đấu Sài Gòn, Trịnh Công Sơn bước lên với chiếc ghi ta
thùng, tự hát những bản nhạc sâu lắng nói lên thân phận con người
và quê hương trong chiến tranh: Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết
lăn trầm... Một dòng nhạc trăn trở, tra vấn lương tri con người mà
một nhà báo đã viết lên một câu để đời về sự nghiệp âm nhạc TCS: ”...Và
từ đó nhạc Việt Nam không còn như cũ nữa!”.
Vậy mà hôm ấy khi Sơn vừa hát xong thì có một người
lên góp ý phê bình Phạm Duy xong lại mỉa mai TCS là giữa cảnh dầu sôi
lửa bỏng của
cuộc chiến, ở nông thôn người dân đội bom, đói khổ hàng ngày mà ở đây
người ta cứ ngồi “khóc” để than thân trách phận thì vận nước này có
hết điêu linh không?
Sơn ngồi bên, lặng đi một lát rồi hỏi tôi: ”Sao bạn
mời tôi đến đây cho người ta chửi vậy!” Tôi cũng ngạc nhiên và trả lời
Sơn là mục này không
có trong chương trình. Sao lạ vậy, tôi sẽ hỏi anh Thìn. Nhưng Sơn cũng
bỏ ra về. Tôi phải hẹn Sơn và Thìn cùng đến Đại học Văn khoa chiều
ngày hôm sau để thông cảm nhau. Từ đó, hai người lại trở thành bạn thân
thiết cho đến bây giờ.
ANH SINH VIÊN NHẬT EGOCHITôi không rõ nhạc của TCS có ma lực gì mà thu hút được người Nhật đến vậy. Trước Michico đã có Egochi sinh viên cao học Nhật đến Việt Nam làm luận án tiến sĩ về sử học và xã hội học năm 1966.
Anh đến Văn khoa gặp tôi, nhờ giới thiệu với TCS vì anh rất thích bài
Vết lăn trầm có câu: ” Đá lăn vết lăn buồn...” Sao đá mà cũng biết buồn?
Tôi
cười: ”Sao đúng ý tôi quá vậy? Tôi cũng thích nhất bài này trong số nhạc
Sơn, nhưng câu đó không phải đá buồn mà vết lăn của đá nó buồn vì
đá lăn đi để lại trên đất một vết xước cô đơn, trầm buồn! Mà trên đất
nước Việt Nam đang chiến tranh này, Egochi thử đếm xem có bao nhiêu vết
xước cô đơn như thế trên đất, trong lòng người? Cho nên TCS mới tha
thiết kêu lên ‘Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau’! Egochi thấy chưa?”
Anh cười, nói đùa: ”Tư tưởng lớn gặp nhau!”
Khi nghe Sơn ôm đàn nhắm mắt hát bài đó xong, Egochi ngây ngất nói:
”Hình như tôi đã gặp anh Sơn trước đây, gặp ở đâu đó trong tiền kiếp!”
Rồi anh nói thao thao về thuyết luân hồi của Phật giáo. Tôi nói: ”Có lẽ
hai người gặp nhau trong cùng một nỗi đau dân tộc. Egochi thì mang vết
thương của hai quả bom nguyên tử không bao giờ lành trong lòng người
Nhật. Còn TCS thì đang bị vết thương chiến tranh này hành hạ từng
ngày. Có đúng không?” Cả ba chúng tôi đều đồng ý.
Egochi nói muốn thử ra phố chợ xin ăn, thử sống một ngày lang thang của
“kiếp ăn mày” ở Việt Nam, một đất nước đang chiến tranh để hiểu hết ý
nghĩa của “nỗi đau cuộc sống”.
Một tuần sau, Egochi đến nhà tôi, trông giống như một người ăn xin thật
sự, áo quần xơ xác, mặt mày lem luốc bơ phờ... và đói thật. Egochi
nói: ”Mệt nhưng mà thích vì cùng đói với các bạn ăn mày ở vỉa hè mà
thương nhau lắm. Cùng chia xẻ nỗi đau và rất hạnh phúc!” Tôi đang
chuẩn bị cho Egochi ăn, một người bạn tôi chơi ác, đi mua trứng vịt lộn
về dấu, bảo nhắm mắt mới cho ăn. Mới ăn, anh nói: ”Ngon nhưng có
cảm giác đang ăn một sinh vật!” Các bạn cười ầm lên, đưa ra con vịt con
trong trứng lộn. Egochi òa lên khóc nức nở: ”Sao các bạn ác quá vậy!
Tôi đã sát sanh rồi!”
Sau đó tôi bị bắt ba tháng vì vụ tranh đấu Phật giáo miền Trung. Egochi
đến trước cổng nhà giam khóc và xin bảo lãnh tôi về, nhưng ai mà
cho. Ra tù nghe tin anh bị trục xuất khỏi Việt Nam, nhận được thư anh
nói mình đang đi châu Phi để cùng sống và nghiên cứu về vùng đất
còn lạc hậu nhất thế giới... Tôi kể hết chuyện cho Sơn nghe, Sơn bảo:
”Tay ni lạ thật, thánh thiện quá rồi cũng khó sống!” Tôi chỉ tiếc là
chưa
giới thiệu Egochi nghiên cứu về nhạc hòa bình của TCS. Nhưng sau này có
cô Yochoii Michiko đã đến Việt Nam gặp Sơn và làm luận
văn cao học về dòng nhạc phản chiến TCS tại đại học Paris vào năm 1985,
được công bố rộng rãi, nổi tiếng khắp thế giới.
HÃY SỐNG DÙM TÔI!
Tôi không thể nào quên được buổi sáng hôm ấy, vào 7.30g ngày 16/5/1967,
bạn Phan Đạm Hiệp đạp xe đến gọi tôi thảng thốt: ”Chị Hoa ơi!
Chị Mai tự thiêu trên chùa Từ Nghiêm rồi. Chị lên mau đi”. Tôi đạp xe
vội lên Từ Nghiêm, vừa đi vừa khóc. Chị Nhất Chi Mai học Sử ở Văn khoa,
tôi học Triết, và chị rất thương tôi, coi tôi như một người em tâm đắc,
thường gọi đi làm công tác xã hội cùng chị vào các xóm nghèo vùng
ngoại ô Sài Gòn. Một người chị nhu mì, hiền lành, một nữ tu Dòng Tiếp
hiện mà thầy Nhất Hạnh rất quý nễ trong công tác với tâm bồ đề chân
thành. Làm sao hiểu nỗi chị đã chuẩn bị cho cái hạnh Bồ tát này, từ khi
đọc báo nghe tin Morrison một giáo sư đại học Mỹ tự thiêu cho hòa
bình Việt Nam vào cuối năm 1965. Chị Mai đã khóc và kể lại cho tôi,
Morrison bế đứa con gái thân yêu nhất đời Emily một tuổi ra trước tòa
nhà Ngũ Giác Đài bộ quốc phòng Mỹ tự thiêu để thức tỉnh lương tri con
người, mong chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Emily đứng nhìn ngọn lửa
thiêu sống cha mình kêu khóc: ”Cha ơi!” Chị đã vô cùng xúc động và kính
phục Morrison, rồi âm thầm tự nguyện đem thân làm đuốc để đáp lại tấm
lòng Bồ tát bên kia bờ đại dương
trên xứ sở đang gây chiến ở Việt Nam...
Tôi lên đến nơi thì ngọn lửa vừa tắt, Nhất Chi Mai
của tôi ngồi xếp bằng như một pho tượng đồng đen bất động, mùi thịt da
khét lẹt bốc khói. Tôi
đặt tay lên đùi chị, phải rụt lại ngay, suýt bỏng tay mình. Tôi gục
xuống nức nở đau đớn: ”Mai ơi! Sao phải như thế này? Không còn cách nào
khác sao, hỡ Mai?” Nhìn hai pho tượng nhỏ Đức Mẹ Maria và Quan Âm Bồ tát
đặt ngay ngắn trước mặt chị với 10 bức thư cho gia đình và cho
những người có thẩm quyền gây chiến ở Việt Nam.
Trong đó có bài thơ "Chắp tay tôi quỳ xuống" :Chắp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu
Sao thế giới biểu tình
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói hòa bình
Tôi thấy mình hèn yếu
Tôi nghe lòng đắng cay
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời
Hòa bình là có tội
Hòa bình là cộng sản
Tôi vì lòng nhân bản
Mà muốn nói hòa bình
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi!
Hai mươi năm nay rồi
Nhiều máu xương đã đổ
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống.
(Nhất Chi Mai, tự Nhất Chi, Kính cáo)
Tôi chép vội bài thơ và không dám ở lại với chị
lâu hơn, cũng không thể tiễn đưa chị được vì chùa sợ cảnh sát tới gây
khó dễ. Cô em nữ sinh
Phật tử H. đã vừa khóc vừa kể hết nỗi niềm của chị Mai cho tôi nghe, bởi
em đã gần gũi chị suốt những ngày cuối.
Tôi không về nhà mà đạp xe qua An Tiêm, gặp TCS ở đó
kể hết sự tình cho Sơn nghe và tôi khóc nhiều vì thương chị Mai quá
chừng. Sơn
hốt hoảng rơi người xuống ghế, sửng sốt chết lặng một lúc rồi kêu lên:
”Trời ơi, con gái mà cũng tự thiêu à? Dễ sợ ghê quá, sao không ai can
ngăn dùm?”
“Can ngăn gì nỗi Sơn ơi, chị ấy đã âm thầm chuẩn bị
rất kỷ ngay từ khi nghe tin Morrison tự thiêu bên Mỹ kìa”. Tôi vừa khóc
vừa đọc bài thơ
Chắp tay tôi quỳ xuống của chị Mai cho Sơn nghe: ”Sơn thấy không, cái
tâm Bồ đề của chị thanh cao vời vợi như vậy thì làm sao mà can
ngăn cho được. Chị thành Bồ tát rồi Sơn ơi!”
Sơn ngồi bất động, vẫn chưa hoàn hồn, trầm ngâm buồn
bả, ứa nước mắt: ” Ừ, đúng rồi chỉ có cái tâm Bồ tát mới làm được một
hạnh nguyện lớn
lao như vậy!”
Vài ngày sau, Sơn nhắn tôi lên An Tiêm và ôm đàn hát
miên man ca khúc vừa mới viết: ”Hãy sống dùm tôi, Hãy nói dùm tôi, hãy
thở
dùm tôi...” Sơn hát xong, tôi kêu lên: ”Tuyệt quá Sơn ơi”. Sơn nói: ”Hôm
đó bạn về rồi, suốt ngày mình không làm gì được, suốt đêm cũng
không ngủ được, cứ trằn trọc mãi với câu thơ của chị Mai ‘Sống mình
không thể nói, Chết mới được ra lời!’ Tại sao vậy? Mình đã tự hỏi bao
lần
như vậy. Tối qua vùng dậy viết... Cuối cùng đã trả lời được cho chị Mai,
cho bạn và cho chính mình bằng mấy nốt nhạc này đây. Được chưa?
” Sơn đưa tôi bản nhạc chép tay vừa ráo mực. Tôi mừng quá đến chảy nước
mắt: ”Được quá sơn ơi, bây giờ làm sao in ra cho sinh viên đây?
” Sơn bảo: ”Khoan đã, để từ từ mình sẽ in chung trong tập Ca khúc da
vàng với bài Ru con (nay đổi là Ngủ đi con).
Bạn bè sợ 2 bài này ý mạnh quá, kẹt cho Sơn nên chỉ
chuyền tay nhau trong sinh viên thôi. Sau đó, Sơn âm thầm mang đi Nhật
Bản và
được một hãng đĩa Nhật vinh danh là tiếng kêu hòa bình thống thiết nhất
từ Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng phổ biến khắp thế giới cùng
tên tuổi của TCS và Khánh Ly. Từ đó đến nay giọng ca Khánh Ly đã đưa Ca
khúc da vàng của TCS vào tận tim óc con người, nó lột trần
được nguyên hình cái Ác của người với người trong chiến tranh. Giọng ca
Khánh Ly đầy ma lực, đến nỗi khi hát cứ như nhập thần. Cho nên
Ca khúc da vàng bị cấm hát trên quê hương mình như thân phận nhức nhối,
đắng cay của nó...
SÚNG NỔ TRONG ĐÊM NHẠC TCS
Vào một đêm đầu năm 1968, sinh viên Văn khoa tổ chức
một buổi nhạc TCS-Khánh Ly hát tại trường Văn khoa mới trên đường Cường
Để. Lúc
đó, tôi bận thi tốt nghiệp nhưng cũng ráng đến nghe. Sinh viên học sinh
đông nghẹt giảng đường chính. Đến trễ, nên tôi được ngồi hàng ghế đầu,
bên phải sân khấu là bục giảng. TCS và Khánh Ly ngồi gần ban nhạc bên
cánh trái.
Chương trình sắp bắt đầu thì có hai anh chị
lên micro, cô gái mặc áo dài hoa cà, chấm trắng, anh kia đứng ngay phía
sau. Cô gái cất giọng
miền Nam rõ ràng: ”Kính thưa quý vị và các bạn. Hôm nay là ngày 20 tháng
12, kỹ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam...” Khán giả sinh viên la ó lên: ”Cái gì vậy? giởn hay
thiệt?...” Giáo sư Nguyễn Văn Trung ngồi cạnh tôi hỏi:” Ủa, tụi nó làm
cái
kịch gì vậy, Hoa? Sao bảo là Khánh Ly hát TCS mà?” Tôi cũng ngạc nhiên:
”Thưa thầy, con cũng không biết nữa vì hôm nay con không ở
trong ban tổ chức”. Rầm! Một cái ghế quăng lên phía micro và tiếng sinh
viên la ó: ”Vi xi! Vi xi cướp micro rồi!” Người trưởng ban tổ chức chạy
vội lên để lấy lại micro thì nghe ‘đùng’ một tiếng nổ, anh ta quỵ xuống,
sinh viên bắt đầu hổn loạn. Thầy Trung và tôi cũng chạy vội ra cửa. Ra
đến hành lang, tôi kịp nhìn thấy thanh niên áo sơ mi trắng đứng sau cô
gái vừa nói ở micro, lôi cô ta chạy vôi xuống bậc tam cấp và hai
người biến vào đám đông. Tôi bị kẹt lại ở hành lang đông nghẹt người mà
lan can cao quá không dám nhảy xuống. Một sinh viên Pháp
xốc cánh tôi thảy qua lan can rơi bịch xuống đất, may mà không gảy chân.
Anh ta cũng nhảy theo sau, tôi chỉ kịp nói vội “Merci” (cám ơn) rồi
chạy ra lấy xe Honda phóng về An Tiêm mà Sơn và Khánh Ly vẫn chưa về,
nhưng có báo tin về là không sao.
Hôm sau tôi lên gặp Sơn, cho biết người tổ chức chính là NVT bị bắn vào
bụng, đang nằm bệnh viện. Anh ta không phải sinh viên Văn khoa,
chỉ là bạn bè đến chơi, cùng sinh viên tổ chức Quán Văn ở trường cũ để
Khánh Ly và TCS hát. Từ đó không ai còn dám tổ chức hát TCS ở các
đại học nữa.
Sơn đang trốn lính nên cũng phải dời đổi chỗ ở liên tục, rồi bay ra Huế
mai danh ẩn tích một thời gian. Lúc này tôi ít gặp Sơn vì tốt nghiệp
xong
cử nhân còn bận làm cao học. Chỉ nghe Sơn vào lại Sài Gòn thường ngồi ở
phòng trà, bắt đầu uống rượu. Tôi trách Sơn sao lại cùng Khánh Ly
ra phòng trà hát uổng quá, nhạc của Sơn không phải hát ở chỗ này. Trong
khi trước đó Sơn đã trách Khánh Ly “Em theo đời cơm áo...”
Bùi Giáng phản đối tôi: ”Phải để hắn ra ngồi đó mới thấy hết cảnh ‘ta bà
thế giới’ này, nhìn thấy hết mọi thứ người từ ‘thượng vàng tới hạ cám’,
thì
nhạc hắn mới sâu, mới thấm thía, chứ cứ đóng khung trong ‘cửa Khổng sân
Trình’ thì chỉ có một giới nào đó nghe thôi sao. Hắn cũng phải ‘nghe’
thiên hạ nữa chứ...” Ban đầu, tôi nghĩ là Bùi Giáng điên rồi, nhưng sau
đó nghe hàng loạt ca khúc mang tính triết học, từ Cát bụi, Một cõi đi về
trước đó đến Đoá hoa vô thường... sau này, thì mới rõ là Bùi Giáng không
điên tí nào.
Sau Tết Mậu thân Sơn ở Huế vào, đem theo nhiều ca khúc dữ dội hơn. Vào
đầu những năm ’70, Sơn thường ra Huế hoạt động với Bửu Chỉ và
nhóm sinh viên tranh đấu Huế, nhất là sau cái chết của Ngô Kha, người mà
Sơn giới thiệu với tôi ở Hội họa sĩ trẻ, một nhà thơ nhiệt tình và tài
năng. Vào giai đoạn đó, Sơn chịu nhiều ảnh hưởng của Ngô Kha nên chuyển
hẳn sang nhạc tranh đấu đòi độc lập thống nhất với những tập
Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời... với những bài Không mất niềm
tin, Huế-Sài Gòn-Hà Nội, Nối vòng tay lớn...
NHÓM SÁNG TÁC MỚIĐến năm 1975 thì bạn bè nghe TCS hát Nối vòng tay lớn, bài hát đầu tiên phát đi trên đài phát thanh Sài Gòn vào ngày giải phóng 30/4/75, cùng anh em sinh viên và anh Nguyễn Hữu Thái chồng tôi, bố của Thái Hòa, anh là bạn học với Sơn thời trung học trường Providence (Thiên Hựu) ở Huế.
Thời gian trước đó, tôi ít khi liên lạc với Sơn vì đã có gia đình và 2
con nay được 5-6 tuổi, vẫn thường ru con bằng những bài Ca dao mẹ,
Gia tài của mẹ.... Nghe nói sau giải phóng Sơn về Huế một thời gian gặp
khó khăn nên trở lại Sài Gòn khoảng năm 1979.
Tôi sinh hoạt ở Hội Trí thức Yêu nước, đa số là trí thức Sài Gòn cũ,
nhiều người đi học tập cải tạo về. Thành phố đang nổi lên phong trào
‘Ca khúc chính trị’, Hội trí thức cũng tổ chức một đêm văn nghệ với các
ca khúc mới. TCS có tham dự và nhờ Miên Đức Thắng hát 2 bài mình
mới sáng tác ở Huế: Gánh rau ra chợ, Máy kéo nông trường.
Sau đêm diễn, nhóm văn nghệ sĩ và thân hữu ngồi lại
giải lao, bàn bạc về tình hình văn nghệ sau 5 năm giải phóng. Nhận thấy
khán thính giả,
nhất là giới trẻ đã ngán ngẩm loại nhạc chiến đấu. Dù là chiến thắng anh
dũng, nhưng hát hoài rồi cũng ngán, giờ muốn nghe những làn điệu tình
cảm quê hương dân tộc nhẹ nhàng hơn trong xây dựng hòa bình. Đã có tình
trạng nghe lén nhạc vàng trước kia ở nông thôn, vùng ngoại ô
hay đây đó trong Thành phố. Thanh niên cũng bắt đầu ngán những bài ‘Đoàn
ca’ rồi, họ đòi hỏi cái mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
văn nghệ sĩ phải có trách nhiệm đáp ứng.
Tôi góp ý riêng với Sơn về hai bài vừa rồi: ”Nói thiệt Sơn đừng buồn
nghen, mới nghe thấy lạ, tuy cũng hay nhưng không bằng mấy sáng
tác cũ của Sơn đâu! Hãy để những chủ đề xây dựng lao động sản xuất và xã
hội chủ nghĩa cho người khác viết, vì họ có kinh nghiệm về các
vấn đề này lâu hơn Sơn...Bạn cứ viết tình ca đi”. Sơn cười
gằn: ”Thời buổi ni mà bạn biểu tui viết tình ca à?” Tôi bàn: “Đâu
phải hễ nói tới tình ca
là chỉ có tình yêu trai gái thôi sao? Thiếu gì ‘tình’ mà xã hội, lớp trẻ
hôm nay đang cần, đang đói. Tình yêu quê hương, đất nước đang hồi
sinh sau chiến tranh, tình cỏ cây, hoa lá, núi rừng, biển sông, tình
bạn, tình người... ‘Người với người’, sống sao cho tử tế. Chính vào thời
buổi
này, tâm lý con người, nhất là lớp trẻ trong một xã hội đang thay da đổi
thịt rất cần ‘tình người’, cần đem hoa để làm đẹp cho đời. Cần lắm chứ,
Sơn thấy không?” Sơn trầm ngâm một hồi rồi cười cười: ”Chà, bạn cho tôi
cái ‘thème’ (đề tài) này khó đấy” - ”Khó mà làm được mới là TCS chứ!
Thôi về suy nghĩ tiếp đi, đừng có lười!”
Vài tuần sau tôi được mời đến dự một buổi nghe thử trong nội bộ một số
‘sáng tác mới’ của các nhạc sĩ thân hữu. Anh tổng thư ký Hội trí thức
Huỳnh Kim Báu nhờ tôi mời cả TCS nữa. Hôm ấy có người ở Mặt trận Tổ quốc
Thành phố sang tham dự. Bác sĩ Trương Thìn giới thiệu các nhạc sĩ
lần lượt tự trình bày sáng tác mới của mình: Hoàng Hiệp với Sao anh
không kể; Phạm Trọng Cầu: Quê hương, phổ thơ Giang Nam, và Từng giọt
yêu thương; Trần Long Ẩn: Những cơn mưa đầu mùa; Miên Đức Thắng cũng phổ
nhạc bài thơ Quê hương và Một sớm con về; Trương Thìn: Một
ngày của tôi và Tôi còn nợ, phổ thơ bác sĩ Đổ Hồng Ngọc. Rồi Trịnh Công
Sơn với Như một hòn bi xanh, Ở trọ, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui...
Sơn vừa hát xong, mọi người vổ tay tán thưởng tất cả các nhạc sĩ.
Bỗng ông bạn bên Mặt trận đứng lên phê bình bài Như một hòn bi xanh
không có ‘lập trường’, kêu gọi con người thương yêu chung chung,
không phân biệt bạn-thù: nếu trái đất bé nhỏ như hòn bi thì giữa người
với người không còn biên giới, đứng ở đâu cũng là quê hương mình.
Vậy nếu anh qua Mỹ, anh cũng nhận Mỹ là quê hương anh sao?... Sơn quay
qua hỏi tôi: ”Cũng bạn nữa! Sao bạn mời tôi tới đây cho người ta
chửi tui vậy?” Tôi chưa kịp hiểu sao thì Sơn đã đứng dậy: ”Thưa quý vị,
Tôi nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Tôi muốn nói tới
hòa bình cho nhân loại, giữa người với người trên hành tinh này và tấm
lòng nhân bản, độ lượng của người Việt Nam. Không ngờ hôm nay
lại được đến đây để học bài ‘morale élémentaire’ (đạo đức sơ đẳng) này!
Tôi xin phép được về”. Anh Phạm Trọng Cầu đứng lên: ”Sơn bình tĩnh,
đợi tao tí về luôn với mầy. Còn anh kia, có biết là thính giả bây giờ đã
ngán những ‘bài ca chính trị’ thô thiển lắm rồi không? Các anh về viết
xã luận chính trị rồi phổ nhạc rồi hát với nhau đi. Đừng kêu tụi tui
nữa. Về mầy Sơn”. Sơn và anh Cầu dợm đứng lên thì anh Báu vội ngăn lại:
”Xin hai anh bình tĩnh, ngồi lại cho tôi nói tí đã. Tôi Huỳnh Kim Báu,
đảng viên, là Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước xin chịu trách nhiệm
trước Thành ủy về việc này. Anh bạn bên Mặt trận đừng lo. Xin tất cả các
anh chị yên tâm tiếp tục...” Nhưng mọi người mất hứng đứng dậy ra về.
Khi tôi dắt xe ra cổng Hội thì bị hai ông bên Mặt trận chận lại hỏi:
”Chị có bảo đảm TCS không vượt biên không mà dám lăng xê anh ta lên
vậy?” Tôi cười hỏi lại: ”Các anh đi rao giảng học thuyết Mác-Lê mà nói
chuyện sao ‘phi Mác xít’ quá vậy? Mác nói: ‘Con người thay đổi theo
sự bảo hòa của xã hội xung quanh’, đúng không? Thì tôi làm sao bảo đảm
TCS không đi được? Ngay cả tôi, tôi còn không bảo đảm được tôi
ngày mai sẽ ra sao. Và cả các anh nữa, bây giờ các anh nói vậy, chứ ngày
mai tôi cũng không dám bảo đảm các anh có đi hay không. Vì
Hoàng Văn Hoan ở Bộ chính trị còn vượt biên qua Trung Quốc; Trương Như
Tảng, bộ trưởng tư pháp còn đi nữa là, thì làm sao tôi dám bảo
đảm ai được?” Tôi nhận được ở họ những tia nhìn không vui vẻ tí nào. Tôi
mặc kệ, bỏ về.
THÂN PHẬN NÀNG KIỀU TCS
Nhóm sáng tác mới vẫn cứ tiếp tục đến hát chơi với
nhau ở Hội, chưa biểu diễn chính thức, theo yêu cầu của anh tổng thư ký
đợi xin phép Thành
ủy. TCS cũng đến hát với bạn bè, có nhờ các ca sĩ như HM, SC, TL đến hát
thử. Sơn lắng nghe và hỏi riêng tôi thấy sao. Tôi cũng ậm ừ: ”Giọng
HM, SC quá ‘trong và trẻ’. Hãy trả SC về cho sinh viên trường Luật, và
trả TL về với mấy bài hát Tây nhí nhảnh. Các giọng ca trẻ này hát khá
hay, dễ thương nhưng sợ khó hợp với nhạc của Sơn”. Sơn gật gù: ”Cái tai
bạn ni khó quá!” Tôi cười: ”Ai biểu hỏi, thì người ta phải nói thiệt.
Làm
sao biểu ta nói láo cho được!”
Một đêm khác, chúng tôi trình diễn thể nghiệm cho một nhóm bạn trí thức
Việt kiều về tham dự, không đông lắm nhưng cũng khá thành công, vì
đa số họ đều là sinh viên học sinh Sài Gòn cũ, đã từng mê Ca khúc da
vàng và tình ca của TCS trước kia. Hôm đó, tôi làm MC (người dẫn
chương trình) giới thiệu TCS như một nàng Kiều vì sau 15 năm, kể từ năm
1965, nhạc TCS đã bị chế độ cũ cấm phổ biến do nội dung phản chiến,
ru ngủ quân đội, nhất là loạt Ca khúc da vàng. Sinh viên học sinh phải
chuyền tay nhau và trình diễn nội bộ ở các đại học. Cho đến bây giờ,
từ 1975-80, một số nhạc của Sơn vẫn còn bị cấm... Sơn lao đao vào những
năm đầu sau giải phóng, giống như nàng Kiều 15 năm ấy phong
trần đa đoan. Từ đây, hy vọng TCS sẽ được thoải mái trãi lòng trên chiếc
ghi ta thùng cũ kỹ thân thương của anh để ‘rút ruột tằm ra mà nhả
tơ’ cho đời thưởng thức, mà ru dỗ những nỗi đau trần thế. Đêm ấy, mấy
bạn Việt kiều ùa lên ôm Sơn rơm rớm mừng Sơn đã vượt qua muôn
vàn khó khăn, đứng vững bằng chính đôi chân mình trên quê hương thân yêu
mà Sơn không thể bỏ đi đâu được.
TCS hôm đó rất vui, trước khi ra về còn ‘lườm’ tôi một cái đích đáng:
”Sao lại ví người ta với nàng Kiều?” Tôi gặng lại: ”Chứ còn gì nữa? Thì
chính ông đã nói trong văn học Việt Nam không có chân ai đẹp như chân
Thúy Kiều. Đúng không? Sướng rồi còn làm bộ hỏi! Đêm nay
thành công quá rồi, đừng có trách tui nữa nghen”. Anh Phạm Trọng Cầu lại
nói đùa: ”Còn cái thằng Ẩn này nữa. Sao lại ví những ngày đầu
cách mạng như những cơn ‘mưa đầu mùa’ làm ướt áo quần em...Kỳ vậy mậy?”
rồi anh cười ha hả.
Ở ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Sau đó, thừa thắng xông lên, nhóm sáng tác mới đi lưu
diễn tại Đại học Cần Thơ và anh Báu bảo rằng chính bí thư Tỉnh ủy ông
Vũ Đình Liệu
(nguyên chủ tịch UBND Tp.HCM) muốn nghe. Thế là chúng tôi lên đường do
giáo sư Lý Chánh Trung làm trưởng đoàn và bác sĩ Trương
Thìn làm phó, lần này có thêm nhà thơ Lê Thị Kim đọc bài thơ rất độc đáo
của chị Ra khỏi quán cà phê. Anh Thìn còn bắt tôi đọc bài thơ
khá nổi tiếng của Đổ Trung Quân Những bông hoa trên tuyến lửa, nhằm cân
bằng với nhạc TCS trên vùng đất cách mạng đó. Tôi phải ‘chộ’
Sơn một câu cho bỏ ghét: ”Thấy chưa, vì mấy bài tình ca mới này của ông
mà tui phải ‘hy sinh’ lên sân khấu làm ‘bông hoa trên tuyến
lửa’ đó nghen. Còn trách tui nữa thôi? Với tại cái ‘Cơn mưa đầu mùa’ của
Trần Long Ẩn nữa đó, nên tui phải đem lửa sưởi ấm ‘áo quần em’
đấy”. Ẩn cười;”Tội nghiệp chị tui quá!”
Đêm trình diễn ở Đại học Cần Thơ, phòng chứa 500 chỗ mà không đủ cho tất
cả người nghe, sinh viên la ó om sòm, phải bắt màn ảnh truyền
hình ra ngoài sân cho cả ngàn người xem trực tiếp. Lại thành công ngoài
sức tưởng tượng. Ông bí thư mời chúng tôi ăn sáng, rồi nhờ TCS
và Trương Thìn hát lại những bài của họ trước 1975 cho ông nghe. Ông gật
gù thích thú khen rất là nhân bản, rất con người – người Việt Nam...
Rồi ông yêu cầu chúng tôi diễn thêm một đêm chủ nhật nữa vì nhiều người
muốn nghe mà đêm qua không đủ chỗ. Chúng tôi phải ở lại diễn thêm
để 3 giờ sáng thứ hai lên đường về. Ông bí thư cho một chiếc phà đặc
biệt chở đoàn chúng tôi qua sông Cữu Long để kịp về Thành phố đi làm.
Khuya chủ nhật hát xong, mọi người kéo nhau đi vòng quanh Đại học Cần
Thơ vừa hát nghêu ngao, vui sướng như điên. Trần Long Ẩn đấm
thình thình lên lưng tôi: ” Đã quá, bạn ơi!” TCS và Trương Thìn say sưa
hát. Miên Đức Thắng la toán lên:”...Gọi quê hương mà nhớ, gọi
quê hương mà thương”. Tôi, Lê Thị Kim và chị Hà (vợ anh Thìn) lẻo đẻo đi
sau. Tôi cười: ”Thắng này vô duyên thật. Đang đi trên quê
hương mình mà còn gọi nhớ, gọi thương”. Sơn nghe, quay lại cà khịa tôi
ngay: ”Bộ bạn tưởng dễ gì đi trên quê hương mình mà được gọi
nhớ gọi thương, la lớn lên giữa trời giữa đường như đêm nay đâu?”
Tôi giật mình thấy đúng với tình hình hồi đó... Cho nên anh Thìn đã
chẳng gào lên mà hát: ”Dễ gì tôi mời anh điếu thuốc...Anh phải hút...
Anh TCS, anh phải hút... Cho dù sau này có ung thư phổi, anh cũng phải
hút !”.
Sau các đợt trình diễn trên, một vài bài báo ở trung ương phê bình:-Ca khúc Đi qua vùng cỏ non của Trần Long Ẩn có câu ’Buồn phiền quanh vách núi, như gương không người soi’ – TLA muốn nói gì? Muốn ám chỉ ai?
-TCS thì trong Em còn nhớ hay em đă quên có câu: ‘Em ra đi nơi này vẫn thế...’, có nghĩa là sau 5 năm giải phóng, Sài Gòn vẫn không tiến lên được, vẫn dậm chân tại chỗ à?...
Tôi đến Hội trí thức, mọi người đưa báo cho xem và tiu ngỉu. Ai đó thốt lên buồn bả: ”Thôi rồi, đứa con ‘sáng tác mới’ chưa được mấy tháng tuổi!”
Chúng tôi họp lại, bàn kỷ xem có gì sai sót không? Hoàn toàn không. Anh
tổng thư ký ức quá, dẫn các nhạc sĩ vào hát lại cho ông bí thư
Thành phố nghe, giống như đã hát ở Cần Thơ. Ông bí thư Võ Văn Kiệt nghe
TCS hát xong liền bảo: Không có vấn đề gì, anh em cứ tiếp tục.
Chúng tôi nghe kể lại như mở cờ trong bụng.
TIẾNG HÁT THANH HẢI
Rồi một chiều, tôi vừa bước vô Hội Trí thức thì Sơn
chạy ra kêu: ”Bạn vô nghe tay ni hát ác lắm”. Và Sơn giới thiệu: Thanh
Hải, chuyên viên
IBM, ngoại đạo cầm ca, chỉ hát chơi thôi. Trong phòng ăn của Hội, Thanh
Hải ôm đàn, cất lên tiếng hát bài Chiều trên quê hương tôi, thì
tôi nói ngay: ” Sơn ơi, được rồi. Đây mới là giọng hát Sơn cần tìm”.
Giọng Thanh Hải Đà Nẵng hơi lai Huế và rất hợp nhạc Trịnh.
Sơn lại rủ sáng mai đến câu lạc bộ Hội Văn nghệ nghe Thanh Hải hát nữa.
Tôi rất thích giọng Thanh Hải hát bài Cánh chim cô đơn và Đời
gọi em biết bao lần. Sơn nói: ”Hải nó ‘cảm’ và ‘diễn’ đúng ý mình nhất”.
Tôi rất đồng ý, vì có lẽ cùng là nam giới, dễ cảm hơn phụ nữ. Bỗng
tôi chợt nhớ đến Khánh Ly và hỏi thẳng thừng: ”Còn Khánh Ly thì sao, vì
Sơn vừa nói ‘đúng ý mình nhất’?” Sơn hơi giật mình và đăm
chiêu: ”Khánh Ly là của Ca khúc da vàng và một số tình ca thời đó...”
Tôi cười khẩy: ”Và Thanh Hải là của bây giờ phải không? Đừng có
mới nới cũ đó nghe! Mà tui cũng công nhận đúng là Thanh Hải hát nhạc của
Sơn ‘tuyệt chiêu’ rồi. Thôi, đừng cất công đi tìm nữa hí!” Sơn
lườm tôi một cái đích đáng: ”Cái tai bạn sao mà ác liệt thiệt!” Tôi cười
lại: ”Rứa mới trị nỗi TCS!” Sơn cười ruồi:”Huề!”.
Sau đó không lâu, Hội Trí thức lại cho tổ chức một đêm văn nghệ trình
diễn giới thiệu những sáng tác mới của các nghệ sĩ trên, lần này có
sự đồng ý của cấp trên nên không còn ai cà khịa nữa. Vé bán giá tượng
trưng lấy tiền giúp nạn nhân bảo lụt Đồng bằng sông Cữu Long. Sân
khấu ngoài trời 500 chỗ mà khán giả tràn đến cả ngàn người. Mấy em gác
cổng chạy vào kêu cứu tôi: ”Chị ơi, toàn sinh viên học sinh không
hà, chỉ xin vô đứng sát bờ thành không gây mất trật tự đâu”. Tôi hỏi ý
kiến ban tổ chức: cho vào. Cả ngàn người đứng ngồi đầy cứng sân Hội
mà im lặng theo dõi như ‘đói khát’ lâu ngày nay được món ăn tinh thần.
Trước khi Thanh Hải hát TCS trịnh trọng giới thiệu: giọng ca mới
mà Sơn vừa bắt gặp được trong nhóm bạn làm khoa học kỹ thuật, giọng rất
‘ăn’ với nhạc của Sơn. Lần này, Thanh Hải hát cùng Sơn rất nhiều
bài, làm mọi người ngạc nhiên theo dõi và luôn trầm trồ thích thú.
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ kể lại: Hôm đó, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát (ở Hà Nội
vào) ghé tai nói nhỏ với tôi: ”Mỹ ơi, bài Như một hòn bi xanh
tuyệt quá! Sơn nó đặt vấn đề nhân loại chứ không còn trong vòng quốc gia
nữa. Lớn quá! Tuyệt quá! Anh ta sáng tác dễ dàng như lấy từ
trong túi ra vậy!”.
Trên sân khấu Sơn say sưa hát Như một hòn bi xanh, Ở trọ, và Thanh Hải
với Chiều trên quê hương tôi, Cánh chim cô đơn, Đời gọi em
biết bao lần... Khi Thanh Hải hát xong, mọi người đứng lên vổ tay nhiệt
liệt. Thành công ngoài sức tưởng tượng. Có đại diện nhiều cơ quan
cấp trên tham dự và thấy không có vấn đề gì đáng phê bình! Mọi người ra
về, nhóm tổ chức chúng tôi ngồi lại. Anh Thìn khoái chí ôm lấy
Sơn mà ‘sướng’! Anh Cầu khề khà cụng ly với Sơn: ”Đã quá mày ơi. Bây giờ
cứ yên tâm mà sáng tác”. Và chúng tôi đặt tên cho nhóm
là “Nhóm sáng tác mới” do bác sĩ Trương Thìn hướng dẫn.
Thấy khán giả còn thòm thèm, anh Báu và anh Thìn bàn nên làm một buổi ở
trường Taberd cũ (nay là trường sư phạm) có cả ngàn chỗ
mới đủ cho khán giả của mình. Đêm nay Thanh Hải xuất hiện gần như là cái
đinh của chương trình. Hải hát một loạt ca khúc TCS, đặc biệt bài
Em còn nhớ hay em đã quên kỳ này Hải hát rất đạt. Chương trình kết thúc
rồi mà khán giả cứ đứng lên hoan nghênh đòi bis bis mãi.
Tôi ngồi bên bà cụ thân mẫu anh Thìn, nhìn thấy cụ cứ quẹt nước mắt:
”Chao ôi, tui già ri mà nghe anh nớ hát bắt chảy nước mắt đây nì. Chao!
cái giọng chi mà dễ thương và tội rứa...không biết nữa!” Đúng, hôm nay
Thanh Hải ra chiêu hết ý, tuyệt thật. Và điều rất bất ngờ đối với tôi là
bắt đầu từ hôm đó, bé Thái Hòa của tôi vừa mười tuổi cũng xuýt xoa theo
bà cụ: ”Chú đó hát hay quá há má, con cũng muốn khóc nữa!”
Từ ngày TCS về hát ở Hội Trí thức, lần nào tôi đi sinh hoạt cũng chở hai
đứa con theo. Em gái Thái Hòa còn nhỏ chưa biết gì, nhưng Thái Hòa
đã bắt đầu nghe và có ý kiến, những ý trẻ rất ngây ngô và dễ thương. Lạ
một điều là Thái Hòa rất mê chú Thanh Hải, nhất là khi nghe chú Hải
hát bài Chiều trên quê hương tôi và Cánh chim cô đơn. Khi nghe Thanh Hải
khắc khoải trên sân khấu: ”Đêm từng đêm bay về, quê hương là
nỗi nhớ... Giấu nỗi buồn trong cánh...Hẹn hò nơi chốn xa”. Thái Hòa hỏi
tôi: ”Con chim làm sao giấu được nỗi buồn trong cánh hả má? Tội nghiệp
nó quá!” Tôi giật mình: ”Trời ơi! Con trai tôi mới mười tuổi đã biết cảm
TCS rồi!”. Tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu đây là con chim sắt, tức
chiếc
máy bay, mà người phi công khi lái máy bay xa nhà... muốn giấu nỗi buồn
trong cánh máy bay. Thái Hòa thường đi theo nghe TCS
với chúng tôi cho đến năm 1990.
THÁI HÒA
Gia đình tôi đi đoàn tụ, định cư tại Canađa năm 1990.
Năm sau, Thái Hòa dự thi và đoạt giải nhất “Giọng ca Vàng’ của cộng
đồng người Việt
ở Montréal. Em gái là Thiên Nga đã có căn bản nhạc truyền thống Việt Nam
và nay theo học nhạc phương Tây ở đây. Hai anh em thành lập
Đoàn Văn nghệ Lạc Việt gần 80 người, hầu hết là sinh viên học sinh Việt
Nam và Canađa, với Nga làm trưởng đoàn. Hòa đi học xa ở Toronto
nhưng vẫn liên lạc sinh hoạt văn nghệ với nhóm và là giọng ca nam chính
của đoàn. Lạc Việt đã từng gây tiếng vang lớn trong cộng đồng
người Việt và người Canađa. Lạc Việt được chấm đậu 20/120 đoàn trong
cuộc thi âm nhạc đa văn hóa của Canađa, là đoàn Việt Nam
đầu tiên được chọn biểu diễn báo cáo trong Nhà hát lớn nhất Montréal và
đài truyền hình Canađa tới nhà phỏng vấn. Đoàn thường đi lưu
diễn ở đại học, chùa, nhà thờ và các ngày lễ Tết Việt Nam, Canađa. Cứ
mỗi lần đến Canađa giảng dạy, giáo sư Trần Văn Khê đều ghé lại sinh
hoạt, khich lệ và cố vấn cho Lạc Việt.
Ở Toronto, Thái Hòa thường gặp gỡ bạn bè Việt Nam và nhạc TCS là cái hồn
quê hương đất nước ru dỗ Thái Hòa những năm tháng sống
xa gia đình. Tuy còn đi học mà năm 1993 Hòa đã ra được CD đầu tay ‘Tiếng
hát Thái Hòa’, phát hành cả ngàn bản ở Bắc Mỹ.
Đến 1992, TCS qua thăm gia đình ở Canađa có gặp Khánh Ly từ Mỹ sang, và
kêu hai đứa con tôi lại nhà đàn hát chơi với Sơn. Sơn bắt
hai đứa gọi bằng ‘Cậu’, không cho kêu chú như những người khác: ”Vì cậu
với má con hồi ở Đại học Văn khoa ngày xưa thân nhau lắm, cả
cậu Tịnh nữa”. Rồi Thiên Nga phối nhạc cho Sơn và Khánh Ly hát, vì Nga
đang học nhạc cổ điển phương Tây tại Đại học McGill ở Montréal.
Thái Hòa thì hát chơi với cậu Sơn, nghe cậu kể về sự tích các ca khúc.
Hòa rất thích thú và mê cậu Sơn lắm. Từ đó, các đứa cháu của
TCS theo học piano, đàn tranh với Thiên Nga và thường cùng đi lưu diễn
với Lạc Việt.
Trước khi Thái Hòa về lại Tornto đi học lại, gia đình tôi có mời Sơn đến
nhà chơi một bửa, nhưng Sơn không dám đến vì đang bị một số
người Việt chống Cộng ở Montréal chống đối và hăm dọa. Cuối cùng Sơn đã
đến họp mặt chung vui với bạn bè du học trước 1975 tại nhà
anh chị LCP. Tôi gặp lại Sơn và chúng tôi cũng kể về những giai đoạn
sinh hoạt nhạc Trịnh gian nan nhưng đầy kỹ niệm trước và sau
1975. Có bạn hỏi tại sao Sơn không qua Canađa định cư vì cả gia đình các
em Sơn đã ổn định ở đây rồi? Sơn cười: “Qua đây thì tôi
viết được gì bây giờ?...” Rồi quay sang hỏi tôi: “Bạn đã qua đây ở mấy
năm rồi, thấy sao?” Tôi cười: “Mệt, buồn và nhớ nhà khôn nguôi”.
Sơn nói tiếp: “Cảnh sống ở đây văn minh thật. Montréal đặc biệt có vẻ
giống Paris mà mình rất thích nhưng sao vẫn không lay động
được trái tim mình thì làm sao viết đây?” Tôi đáp: “ Có lẽ vì trái tim
Sơn đã lỡ gắn chặt với Việt Nam rồi. Mà tụi tui cũng vậy. Qua đây vài
năm cho con cái học hành xong rồi cũng quay về thôi. Chứ ở đây như tụi
mình đến già làm sao sống nỗi! Cứ nhìn cảnh mấy người già
Canađa ngồi trong nhà dưỡng lão nhìn lá thu phong đổi màu theo mùa,
những sáu màu từ vàng tới đỏ, đẹp lắm, mà cũng buồn lắm Sơn
ơi! Đến mùa tyuết rơi thì cũng đẹp chi lạ, mà buồn chết được. Làm sao
bằng những hàng me xanh và phượng đỏ của quê nhà, phải không?
Vì bọn mình đã lỡ gởi gắm tuổi thơ trên quê hương thân yêu sâu đậm quá
rồi. Bây giờ dù quê mình chưa kịp bằng người thì cũng phải về
thôi. Ở đây, ai giàu kệ họ!” Sơn cười: “ Chí lý!”
Năm 1995, Thái Hòa tốt nghiệp đại học cùng Nga về Việt Nam làm thực tập,
lại có dịp đến cậu Sơn chơi và đàn hát. Hòa giới thiệu với cậu
Sơn CD đầu tay ở Canađa trong đó có nhiều bài của cậu làm cho Sơn xúc
động, vui thích. Sơn khoe với tôi: ”Cái giọng thằng Thái Hòa
giống Thanh Hải chi lạ, chỉ hơi non một tí, nhưng mình rất thích. Để
mình luyện dần cho cháu. Bạn cho hắn đến ở đây luôn với mình đi,
mình còn một căn phòng bỏ trống trên lầu. Nói hắn đến đây mình tập
thường xuyên cho”. Nhưng Thái Hòa còn bận nhiều công việc không
đến ở với Sơn được.
Cuối năm 1996 hai đứa con tôi phải quay về Canađa. Mỗi lần gặp tôi, là
Sơn tíu tít hỏi: ”Sao bạn ‘dú’ hai đứa nhỏ ở đâu mà không cho lại
chơi với tui. Tụi nó có nhiều triển vọng và dễ thương quá”. Tôi bảo:
”Tụi nó phải về Canađa làm việc chứ rảnh đâu mà cứ ở đó tới chơi với ông
hoài”.
Vào năm sau, Thái Hòa quay về lại Việt Nam làm việc với một công ty Pháp
ở Bình Dương nên có nhiều dịp tới lui với cậu Sơn cho thỏa
thích cả hai. Không ngờ đó là những năm cuối đời của Sơn. Lúc đó Hòa gặp
cô bạn Mỹ Jennifer Thomas sang Việt Nam làm từ thiện và
thích hát TCS. Thế là Sơn lại tập cho Thái Hòa và Jennifer hát loạt sáng
tác mới họ tâm đắc. Chỉ những ngày cuối tuần Thái Hòa mới đến
tập hát với Sơn và Jennifer. Có hôm cùng ra hát ở quán Những người bạn
(sau này đổi là Câu lạc bộ Nhạc sĩ) được hoan nghênh nhiệt liệt.
Sơn rất vui và khen giọng Jennifer thánh thiện lắm. Dù là dân thanh nhạc
và ca đoàn nhà thờ, nhưng Sơn đã luyện cho hát chung với
Thái Hòa rất ‘ăn’ với nhạc Trịnh.
Vài năm trước khi Sơn mất, Thái Hòa cùng các bạn giảng dạy ở nhạc viện
Thành phố như Hoàng Công Luận (piano và hòa âm), Thanh Huy
(ghi ta), Anh Tú (violon) thường đến đàn hát, đàm đạo với Sơn.
BẢY CÁI THẤT TCS
Ngày Sơn mất, Hòa, Luận và Huy đã ngồi đàn hát nghêu
ngao suốt mấy ngày đêm bên quan tài TCS để tiễn đưa Sơn ‘về nơi cuối
trời’. Sáng
hôm đưa tang Sơn, tôi cùng bạn bè đến tiễn Sơn lần cuối. Thái Hòa gầy
rạc, thút thít khóc Sơn như một người cậu ruột. Tôi thầm cám ơn Sơn
đã gieo vào tâm hồn con tôi một dòng nhạc hiền hòa, nhân hậu, một dòng
nước ngọt của quê hương làm dịu mát tâm hồn trẻ thơ, từ khi mới
lớn lên mười cho đến tuổi ba mươi ngày hôm nay. Và sau đó, gia đình
chúng tôi tham gia tổ chức suốt bảy cái Thất của TCS tại Hội quán Hội
ngộ ở làng du lịch Bình Qưới do anh bạn Cao Lập làm giám đốc. Lập cũng
là một người mê nhạc Trịnh từ thời sinh viên.
Hôm Thất đầu tiên của TCS nặng về tưởng niệm, và không kịp mời nhiều ca
sĩ, ngoài chị Lan Ngọc, nên chỉ có bạn bè ‘cây nhà lá vườn’ lên
đọc thơ, kể chuyện và hát tưởng niệm TCS. Các em Sơn đều có mặt, cả
giọng ca Vĩnh Trinh. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng lên kể vài kỹ niệm
sống với Sơn. Họa sĩ Trịnh Cung vừa ở Mỹ về đến, lên kể chuyện tưởng
niệm TCS ở California do anh và bạn bè bên đó tổ chức. Đổ Trung Quân
ngâm thơ và Thái Hòa hát. Tôi cũng kể câu chuyện tôi cùng chị bác sĩ Đổ
Thị Văn lần đầu tiên tổ chức thể nghiệm Ca khúc da vàng tại trụ sở
Sinh viên Phật tử Sài Gòn năm 1967. TCS đã rất xúc động cùng tôi leo lên
thang giăng biểu ngữ giới thiệu ca khúc phản chiến vừa sáng
tác đó.
Mọi người còn bắt tôi phải hát một bài TCS. Tôi có chuẩn bị trước gì
đâu, đành phải hát đại bài Ru con (tức là Ngủ đi con) vừa run vừa xúc
động đến chảy nước mắt. Vậy mà bà chị nhà thơ Hỷ Khương khi ra về ôm tôi
nói nhỏ: ”Bị bắt cóc thình lình mà kể chuyện hay quá, hát cũng
hay. Giứt (nhất) rồi đó!” làm tôi ‘hơi bị sướng’! Thiên hạ về hết, hai
má con tôi còn phải ngồi lại với ban tổ chức chuẩn bị cho cái Thất thứ
hai, chứ
chơi kiểu ‘bắt cóc bỏ dĩa’ như vầy dễ bể lắm.
Cái Thất thứ hai đến ngay sau đó mấy ngày, tụi
tôi kê vội một cái bàn trưng bày một số nhạc cũ của Sơn, nhà ai còn giữ
xin mang tới cho mượn,
ai muốn tặng luôn cho Hội quán càng tốt. Và dựng ngay cái bàn thờ Sơn ở
dưới gốc đa, bên trái phía trước ngôi nhà. Với một cái tượng tạc nửa
người TCS do anh Lánh (một nhà điêu khắc gốc Non Nước, Đà Nẵng hâm mộ
Sơn) vừa khắc xong, và một bàn để hoa quả trà nước. Thế là
Thất thứ hai đã có bàn thờ để bà con khán thính giả đến thắp hương nghi
ngút tưởng niệm TCS. Có Kim Ngọc (nguyên là ca sĩ trong ban
‘Giây leo xanh’ của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu) đến mở đầu chương trình với
Thái Hòa bài Cát bụi. Ca khúc này trở thành thông lệ mở đầu cho
các buổi tưởng niệm về sau.
Hôm đó mời được vài người bạn hát ở các ca đoàn. Cây saxô Trần Mạnh Tuấn
và nhạc sĩ Bảo Phúc thường xuyên có mặt. Chị Bích Ngà,
giám đốc một công ty xây dựng mà giọng hát cũng khá hay thì luôn có mặt.
Lần này tôi cũng bị ‘bắt cóc’ lên hát Ca dao mẹ với vài bạn
khán giả... Lần nào mọi người cùng vổ tay hát chung bài Nối vòng tay lớn
để kết thúc buổi sinh hoạt văn nghệ tưởng niệm TCS.
Sang cái Thất thứ ba, có thêm Kim Lan, chị em họ của Kim Ngọc có giọng
ca đặc biệt giống Khánh Ly làm mọi người sửng sốt cứ tưởng
Khánh Ly về Việt Nam hát cho Sơn. Và tôi có lên kể về sự tích ca khúc
Hãy sống dùm tôi do Sơn đã lấy ý từ bài thơ ‘Chấp tay tôi quỳ
xuống’ của chị Nhất Chi Mai tự thiêu cho hòa bình Việt Nam năm 1967. Tôi
phải kể câu chuyện này để trả lời cho một bài báo phê bình
TCS ‘yếu đuối’ đến độ phải nhờ người khác “sống dùm, nói dùm, thở dùm”
cho mình. Họ không hiểu đó là ý câu thơ “Sống mình không thể
nói, chết mới được ra lời” của Nhất Chi Mai.
Đến cái Thất thứ tư, nhân ngày kỹ niệm giải phóng Sài Gòn, đặc biệt có
mặt những người bạn sinh viên đã cùng TCS hát bài Nối vòng tay
lớn trên đài phát thanh Sài Gòn vào trưa 30/4/75. Như các anh Hà Thúc
Huy (giảng viên đại học Tp.HCM), Huỳnh Ngọc Chênh (ban biên
tập báo Thanh Niên), Nguyễn Tân (giám đốc công ty xây dựng Thành
Đoàn)... và Nguyễn Hữu Thái (bạn học thời trung học với Sơn và là
bố Thái Hòa). Anh Thái kể lại câu chuyện đó, cùng các bạn và khán giả vổ
tay đồng ca, hát lại bài Nối vòng tay lớn trong niềm thương tiếc
Sơn.
Cái Thất thứ năm, ngoài các ca sĩ thường xuyên có mặt ở Hội quán với Lan
Ngọc, Kim Ngọc, Kim Lan, Thái Hòa... nay có thêm Phi Huệ
và Tự, hai ca sĩ ‘nhí’ hâm mộ nhạc Trịnh từ thời học sinh trước ’75. Họ
lên song ca Nhìn những mùa thu đi, rất gợi cảm, sưởi ấm lòng chúng
tôi giới ‘sồn sồn’ bây giờ. Ai cũng ngậm ngùi nhớ lại cái thời đi học
của Sơn và của chính mình...
Cái Thất thứ sáu, sau một số ca khúc do các ca sĩ bạn Hội quán trình bày
xong thì trời bỗng đổ mưa như trút nước. Tuy vậy khán giả vẫn
không chịu giải tán đi trú mưa hoặc ra về, mà vẫn nhất định đội áo mưa
che dù ngồi lại chờ chương trình tiếp tục. Mưa quá, các ca sĩ đã
mời báo không đến được. Ban tổ chức hoảng quá, ‘cây nhà lá vườn’ phải
lên thôi. Thái Hòa gọi tôi kêu cứu: ”Má phải lên chửa cháy ‘temps
mort’ (lấp khoảng trống) để bọn con nghỉ tí, còn gồng tiếp phần sau
chương trình, mưa quá chắc ca sĩ không tới đâu!”
Tôi lại lên micro hát trong mưa bài Ngủ đi con. Dù bị ướt sủng khá lạnh
cũng không đành lòng để người nghe ngồi trong mưa mà nhìn lên
sân khấu trống vắng.
Đến Thất thứ bảy tức 49 ngày, rồi lễ 100 ngày, chương trình được chuẩn
bị khá chu đáo, có mặt đầy đủ gia đình TCS và ca sĩ bạn bè nổi tiếng
của Sơn như Lan Ngọc, Cẩm vân, Hồng Nhung, Bích Hồng..., các nhạc sĩ Bảo
Phúc, Trần Mạnh Tuấn, đạo diễn Đoàn Khoa...
Các đêm trình diễn sau tổ chức theo chủ đề mà Cao Lập, Thái Hòa và các
bạn đã dày công thực hiện, như Đêm Văn Cao và Trịnh Công Sơn,
đêm Mãi mãi là tình yêu của Phan Huỳnh Điểu...
Cũng may là trong thời gian này gia đình tôi, đặc biệt là Thái Hòa, còn
về ở Việt Nam làm việc, nên đã thường xuyên góp tay với Hội quán
lo chu đáo mấy cái Thất của Sơn. Chắc TCS cũng vui lòng ở cõi bên kia.
NIỀM TIN YÊU VÀ HY VỌNG CỦA RIÊNG TÔI
Thái Hòa từ năm 2002 đã chuyển công tác và gia đình
sang Pháp, nhưng cũng ráng tìm dịp quay về Hội quán Hội ngộ hát cho cậu
Sơn
một hai buổi. Tuy ở nước ngoài Thái Hòa vẫn hoạt động tích cực đem nhạc
TCS phổ biến cho Việt kiều và bạn bè nước ngoài ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ,
Canađa...
Vào giữa năm 2003, vợ chồng tôi cũng đi Pháp với Thái Hòa. Chúng tôi
thường đi Ý sinh hoạt ở Nhà Việt Nam của chị Sandra Scagliotti và
chồng chị là nhạc sĩ Jazz Fulvio Albano tại thành phố Torino, nơi có đặt
thư viện TCS do Hòa và bạn bè thành lập. Vào một dịp tổ chức trình
diễn TCS tại Torino, tôi lên múa kiếm Taichi (Thái cực dưỡng sinh) cho
Thái Hòa hát Bốn mùa thay lá, làm một số phụ nữ Ý đòi tôi ở lại lập hội
dạy Taichi với nhạc nền TCS cho họ. Tiếc rằng sáng hôm sau, tôi và Thái
Hòa phải trở về Pháp cùng gia đình. Một lần khác ở thành phố Verona
tôi cũng đã lên hát cùng Thái Hòa bản Hãy sống dùm tôi sau khi kể câu
chuyện về Nhất Chi Mai tự thiêu cho hòa bình Việt Nam là nguyên
do thúc đẩy TCS viết lên bản nhạc, làm người nghe đa số là Việt kiều xúc
động, ngậm ngùi.
Vào năm 2005, Thái Hòa được anh chị Việt kiều ở châu Âu mời qua Thụy Sĩ
hát chung với Khánh Ly trong một chương trình TCS. Đây
là một điều bất ngờ đối với chị, và chị đã tâm tình với khán giả rằng
không ngờ có ngày hôm nay cùng đứng hát chung trên một sân
khấu với con trai người bạn thân của TCS và chị từ 40 năm trước. Và Thái
Hòa tuy là người ngoại đạo cầm ca, nhưng chị rất tin tưởng
trao lại cái ‘nghiệp’ hát TCS cho cháu...
Tôi rất vui mừng và ấm lòng khi nghe Khánh Ly nói thế, vì trong lòng tôi
đang có một bông hoa đẹp và mãi mãi dễ thương luôn nở ra
với đời những nụ cười ru dỗ, mong xoa dịu phần nào những nỗi đau trần
thế, như TCS hằng mong muốn.
Đó là bông hoa Nguyễn Hữu Thái Hòa, con trai và là niềm tin yêu, hy vọng của riêng tôi.Trần Tuyết Hoa
Tháng 4 năm 2006
Nguồn: www.tcs-home.org