Hai năm tại trường Sư phạm Quy Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa
I, ngày 22- 4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi
là khóa Thường Xuyên 2 năm. Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải
có Tú Tài I . Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí sinh đều đã có
Tú Tài II, một số đã có một hoặc hai chứng chỉ Đại học.
Trong số 300 giáo sinh được chấm đậu đa phần đều là người
Huế, chiếm khoảng 60 phần trăm, 40 phần trăm còn lại rải
rác các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên tận các tỉnh
cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng, Pleiku, KonTum...
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo, hoặc học
hành dở dang hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn
hoặc ra Huế để vào Đại học. Cho nên cố thi vào Sư phạm
để chắc chắn trong hai năm sẽ có công ăn việc làm nuôi bản
thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ Giáo
Dục và Bộ Y Tế rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo
xong là được bổ nhiệm liền, lương lại tương đối cao.
Trong khi những ngành khác như Công chánh,Nông Lâm Súc tốt
nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển
dụng.
Trịnh công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn. Những
ngày mưa gió ủ ê,không đi ra ngoài được vì đất nhão,
chúng tôi nằm khoèo ở nhà, Sơn kể cho tôi nghe về cuộc đời
Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn. Chuyện gia đình Sơn là
một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm, gia đình khánh
kiệt, má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn
phải bỏ học, về lại Huế, phụ giúp mẹ. Sư phạm Quy
Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được
ý nguyện này. Đơn giản vậy thôi!
Hiệu trưởng trường là thầy Đinh thành Chương. Trường
Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Quy Nhơn được ngân sách Mỹ
tài trợ xây cất rất qui mô và tân kỳ, tọa lạc tại Khu
Sáu, sát bờ biển, khoảng giữa đường từ phố Quy Nhơn đến
Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ ngàn thu. Đến một
chút nữa là Quy Hòa, Trại Cùi, ở đó có nhiều bà Xơ tận
tụy một đời chăm sóc cho bệnh nhân mắc phải chứng nan
y, bệnh phong cùi. Lúc bấy giờ, thành phố Quy Nhơn hãy còn
tiêu điều, xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long chạy từ
Núi Một (ga xe lửa ) đến bến Cảng hãy còn nhiều ngôi
nhà đổ nát, vôi vữa hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn
dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển
còn rất nhiều nhà tranh, vách lá. Gợi lại một vài cảnh cũ
để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây hai
ngôi trường đại qui mô, đem về đây hơn một ngàn giáo
sinh và học sinh kỹ thuật mỗi năm là để vực dậy nền
kinh tế ở đây.
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết
tiếng về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc trường cho thành
lập Ban văn nghệ, sẽ trình diễn một chương trình độc đáo
chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh Công
Sơn được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng
quát, Thanh Hải phó ban thứ nhất chịu trách nhiệm về nhạc,
Võ văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách nhiệm một vở kịch
thơ nhan đề “Tiếng cười Bao Tự”. Tôi được chọn phụ
trách phần thổi sáo đệm thơ trong suốt vở kịch dài hơn
45 phút. Trong dịp này tôi mới biết và quen Trịnh Công Sơn.
Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm
đó (7/7/1962) chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như
Đinh Cường nói.
Trong thời gian này,Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca
" Tiếng hát Dã Tràng" hay gọi ngắn hơn là "Dã
Tràng ca" làm tiết mục mở màn mà cũng là tiết mục đặc
sắc nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh Công Sơn với
ban hợp xướng do anh tuyển chọn gần 50 người, khổ công
trong ba tháng trời tập luyện đã thành công tuyệt vời trước
sự ngac nhiên đầy thích thú của quan khách và khán giả.
Tôi không ở trong ban hợp xướng đó nên không thuộc bài
này chỉ nhớ lõm bõm câu được, câu mất xin ghi ra đây:
Tiếng Hát Dã TràngDã tràng...Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông, Dã tràng xe cát hoài công.
Trùng dương ơi...Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ ...
...Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu...Đời lên cơn đau...
Xuân , Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt...
Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những
nhạc phẩm khác như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng
Thủy tinh và một số nhạc thiếu nhi cho chúng tôi sử dụng
đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản nhạc ngắn, dễ
hát, dễ nhớ như Ông Tiên vui, Ông mặt trời. Tôi xin ghi lại
một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui.Ông Tiên vui,ông có cái râu dài.
Đêm ông về nằm yên trên đỉnh mây.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về,em buồn đến ngẩn ngơ.
Ông Tiên vui Ông có cái căn nhà,
trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Quy nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả
thành phố có mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa
bán cà phê thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm
trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Quy
Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối,
anh chị em nào có tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi
với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu chai
bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu
cái xe phở trước cửa quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những
anh chị nào "bô xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông.
Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở đó màu vàng xỉn
trông dơ dáy,không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển
là một hàng dương, chạy dài đến bệnh viện Nguyễn Huệ
là xóm chài. Tuyệt nhiên không có một lều quán hay kiosque
nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công Sơn và Tôn Nữ
Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ
để ngắm trăng vàng vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
BA NĂM TẠI BLAO, tức BẢO LỘC
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi
và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn thị Ngọc
Trinh (Huế), Nguyễn văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ thị
Nghiễn (Nha Trang) cùng được bổ nhiệm chung một Sự vụ lệnh
đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh
mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do ông Nguyễn hữu
Quyến, Xử lý thường vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm
Quy Nhơn ký ngày 4/8/1964.
Sau hai năm tập sự chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng
bằng Nghị định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng lý Văn
Phòng, Phụ tá chuyên môn Phạm văn Thuật ký ngày 6/5/1966. Đến
năm1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị
định mang số 687/GD/NV/3BC/NĐ kể từ ngày 1/9/1966 do T.ỤN
Ủy Viên Giáo Dục Đổng lý văn phòng Huỳnh ngọc Anh ký
ngày 7/4/1967. Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc
đỏ vùng cao lúc bấy giờ,chúng tôi lĩnh được 5200 đồng,
tương đương 2 lượng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất
rẻ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia con
cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc lắc 4 người ăn giá 7
đồng. Tô phở 3 đồng, cà phê loại ngon 1 đồng. Cơm bữa
với ba món 6 đồng. Thời gian từ 64-67 chúng tôi sống sung sướng,
tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh.
Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha Trang - Đà Lạt - Bảo
Lộc. Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài
Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc. Không hẹn mà gặp lại nhau
trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Bõlao - Bảo Lộc
là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng
lặng, buồn hiu hắt. Trời lại mưa lâm râm, lành lạnh. Hai
chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang
thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng.
Lúc bấy giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng.
Tỉnh Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn hai quận: Blao (Bảo Lộc)
và Djiring (Di Linh). Trước năm 1960, Tòa hành chánh Tỉnh đặt
ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi chúng tôi
đến, nên trông nó như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt
đầu tạo dựng. Chúng tôi tìm được đến Ty thì trời đã
sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc lên từ mặt
đất, bay là đà dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa
cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn
bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến,
bác ân cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm
người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ
từ hai bốn đến hai sáu,cùng nhau trao đổi những câu chuyện
quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào
giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm,
chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã
đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật. Sư phạm Quy Nhơn đủ mặt:
Nguyễn thị Ngọc Trinh, Đỗ thị Nghiễn, Trương khắc Nhượng.
Sư phạm Sài Gòn: Nguyễn hảo Tâm, Nguyễn văn Ba, Nguyễn
văn Tâm, Trần văn Nghị. Nữ có các cô Nguyệt, Châu, Hải.
Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô thanh Bạch. Ty trưởng
đương thời là ông Trương cảnh Ngôn sắp về hưu. Tôi, Trương
khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn và Nguyễn hảo Tâm được bổ
về trường Tiểu học Tân Bùi, cách Bảo Lộc 5km. Nguyễn thị
Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố.
Nguyễn văn Ba ở tại Ty phụ tá kế toán. Riêng Trịnh Công
Sơn được biệt nhãn hơn, bổ về một trường Sơ cấp Thượng,
ở sát nách Ty chừng non cây số, với chức Trưởng Giáo. Nhắc
lại ở đây, theo qui chế của Bộ Giáo Dục, một trường
chỉ có bốn lớp trở xuống gọi là truờng Sơ cấp. Người
đứng đầu gọi là Trưởng Giáo, không có phụ cấp chức vụ
200 $, nhưng vẫn phải đứng lớp. Trường từ năm lớp trở
lên là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu trưởng.
Trường dưới chín lớp vẫn phải phụ trách một lớp, có
lãnh phụ cấp chức vụ. Từ 10 lớp trở lên, Hiệu trưởng
được miễn dạy. Ngạch chúng tôi là Giáo học bổ túc tập
sự. Chỉ số lương 320, do ngân sách Bộ Giáo dục đài thọ
như đã nói ở trên. Sau khi phân bổ xong, chúng tôi được
Ty cho phép một tuần ở nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở.
Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới. Khi về đến
nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng Giáo của
Sơn. Vì lần đầu mới được nghe cái chức này, ai cũng liên
tưởng tới các chức Trưởng lão hay Giáo chủ trong Ma giáo
của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi đểạ tìm
nhà trọ nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh
thì khiếp quá. Có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty công
chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà ngỏ ý muốn
cho thuê, nhưng hơi đắt. Tôi và Sơn đến ngay. Nhà rất đẹp,
tọa lạc trên một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chủ nhà
là một người đàn bà trạc ba mươi, người mảnh dẻ, hiện
là trưởng phòng kế toán của Ty công chánh Lâm Đồng. Sau
khi nói chuyện dăm phút chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn
nhà, trừ cho bà và đứa con gái một phòng để ở, với giá
1200 đồng một tháng. Trên đường về nhà Sơn lẩm bẩm:
“Đàn bà mà tên là Phi, lại lót thị. Thị Phi...Thị Phi
!". Sơn tủm tỉm cười một mình. Tôi biết Sơn đang
nghĩ về bà chủ nhà, trẻ, sống một mình.
Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia phòng, bớt
tiền. Anh Nguyễn hảo Tâm và Nguyễn văn Ba đến xem nhà và
đồng ý ngay. Tôi và Sơn có công tìm nhà nên được ưu tiên
ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm
và Ba căn phòng kế. Bà chủ cùng đứa con gái ở phòng trong
cùng. Những ngày chúng tôi sống trong ngôi "biệt thự"
của bà Trần thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn
phòng có khuôn cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ trước
mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc
phẩm: Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm
và Ca khúc da vàng.
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng
cái đã đến cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu
tiên,chúng tôi ai nấy đều háo hức đến Ty thật sớm để
ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay
mình làm ra, món tiền mà từ xưa tới nay cá nhân tôi chưa hề
cầm được trong tay. Hai năm trọ học ở Quy Nhơn, cha mẹ tôi
phải khó nhọc lắm mới dành dụm được 600$ hằng tháng để
gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà
tôi vẫn không dám viết thư dục, vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh
của tôi: con nhà nghèo.
Lãnh lương xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ.
Sơn vốn cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ tới tai Sơn, chân ngắn,
nên phải nhảy ba bước một, mới bắt kịp. Vừa thở, vừa
kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa
vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh
chàng làm cái trò gì đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ
nằm vật ngửa ra đi văng, tay rút trong túi quần ra cái phong
bì tiền lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết nắm tiền
5200$ gồm giấy 5$, 10$, 50$ tung lên trên trần nhà. Giấy bạc
mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ kho bạc ra, rơi
lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi văng. Sơn hốt lên,
tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng
cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi
Sơn chửi thề: " Đù mạ mi ! Đù mạ mi ! Tiền! Tiền!".
Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và cũng là lần
duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn
tự do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn xen vào để
quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế giới riêng tư của
mình. Tôi yên lặng đếm số tiền của mình một cách chậm
rải. Từng tờ, từng tờ. Tôi để mười ngón tay tôi cảm
nhận đầy đủ cái cảm giác sung sướng đang rung lên từng
chập với tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc mới chạm
vào nhau. Cái âm thanh sao mà dễ thương thế. Cái mùi giấy bạc
mới sao mà thơm thế! Đầu tôi phát họa mau lẹ một kế hoạch.
Hãy trích ra 3000$, ra bưu điện mua ngay một cái “măng-đa”
gửi về cho Má. Chắc Má mừng và vui lắm khi nhận được số
tiền này do thằng con gửi về. Thằng con do một tay bà nuôi
nấng chắt chiu, dành dụm từng đồng của gánh hàng đè nặng
trên vai bà hằng ngày, để ngày hôm nay bà sung sướng và
hãnh diện âm thầm không dám thổ lộ cùng ai. Con bà đã
thành ông giáo!
Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao một
chầu linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây
giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt đông
đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành tích: một
tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười
nói hả hê. Ra về lúc chín giờ,điện cúp. Bá vai nhau đi khệnh
khạng, xiên xẹo giữa phố vắng dày đặc sương mù. Đến
cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần,vừa đi vừa tè,
vẽ thành rồng, rắn loang lổ trên mặt đường nhựa. Ôi! một
thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên.
Một thầy, một cô, một chó cái
Tôi không hình dung được lúc ông Cao Bá Quát làm Giáo thụ
ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao mà ông tả oán bằng những
câu thê thảm:
Một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa
người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Nhưng cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy
học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng thì thật là vừa bi vừa
hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi dạy đã là buồn
cười rồi. Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao giờ
đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng
trên giường. Sơn phải dậy sớm lúc bảy giờ để đến
trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà
đi. Những ngày sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng
kèn lính chào cờ ở một đồn lính nào đó rất xa vọng lại
văng vẳng. Te te...Tò tí te...Tò tí te... Sơn xỏ vội chiếc
áo ka ki màu vàng cụt tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ
lúc còn ở trường Sư phạm), đôi giầy ba-ta màu nâu, nách
trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm ống vố,
chân sãi bương bã đến trường. Trường không xa lắm, non nửa
cây số, Sơn lội bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ,
càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì bụi đỏ mù trời,
ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ nào có
cây hay cục đá để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày
càng lúc càng nặng. (Ấy thế mà ông Trịnh Cung đã tưởng
tượng ra cảnh Trịnh Công Sơn gò lưng đạp xe đến trường,
xa năm, bảy cây số). Có hôm Sơn ngồi chờ mãi mà vẫn
không nghe thấy tiếng kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ
ngồi ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan hết, mặt
trời ló ra thì đã gần đứng bóng. Ba chân, bốn cẳng Sơn
vội vã như ngựa phi nước đại đến trường.
Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của
ông Trưởng giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi
trường hiện ra trên một khoảng đất trống, xung quanh trơ
trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi
thành hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo.
Trong lớp, một bàn vuông cho thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho
trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc thếch ở giữa.
Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ
bám khắp nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến
đó khoảng mười giờ. Học trò hầu hết là các em bé người
Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một
vài gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn
thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc chiếc quần xà lỏn.
Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ
ống quần trở lên nên không còn nhận ra được màu nguyên
thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang ngồi tư lự, miệng
ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc
cho đám học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên
bàn, méo mồm méo miệng nắn nót viết bài theo trên bảng. Một
túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp vài đứa
đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng: -Tới đây chi cha? - Tới
coi ông Trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết, tôi cười cười
- Còn ông già Thống đâu? - Ông Thống dạy buổi chiều. -
Có mấy lớp anh Sơn - Ba, tôi dạy lớp ba, ông già Thống dạy
lớp một và hai. - Học sinh đông không? - Thì ông thấy đó,
bữa nào không đi hái trà thì được hai chục, bữa nào cha
mẹ nó cần thêm nhân công thì mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt
nhìn. Sơn gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò
ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh thầy. Sơn nói: “Hôm nay thầy
có khách,cho các em về sớm”. Đám trẻ con mừng hớn hở
ra mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây
lát, tất cả trở về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm,
nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi
tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi.
Trong thâm tâm có lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ
khác nhau. Sơn nghĩ gì? Tôi thì nghĩ "May cho ông thi sĩ họ
Cao ngày xưa, ngồi dạy học ở nơi khỉ ho, cò gáy còn có một
cô, một chó cái để an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh
cũng ngồi dạy một nơi y như vậy mà không có gì bầu bạn
ngoài một nỗi buồn cô quạnh". Trên đường về, tôi gợi
ý với Sơn nên nhập hai buổi lại thành một, để có thêm
ông già Thống cho vui .Sơn đồng ý là ý kiến hay.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương cảnh
Ngôn về hưu, ông Lê cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp
ở Mỹ một thời gian, được Bộ đề cử chức Ty Trưởng
thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh Công Sơn.
Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ,
nhạc, nên đối với một người như Sơn ông dành cho nhiều
dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng thì giờ dạy
học làm việc riêng của mình. Việc này khiến một vài
giáo viên già, lâu năm trong nghề so bì.
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu.
Những tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết
đi đâu, làm gì để hết thì giờ vì chỉ phải dạy có một
buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết
"những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường
Nông Lâm Súc im lìm vắng vẻ với những tàn cây sao, cây
gõ, cây gụ cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn đường
quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán ăn dọc
đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến
khi chiều xuống hẳn, sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt
hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần, cho đến lúc che khuất một
chòm cây khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với
những cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa khoảng trời
mây. Đến lúc đó ai cũng cảm thấy mỏi chân và muốn vào
quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ tối
để về nhà tìm giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian
đó Trịnh Công Sơn cảm hứng sáng tác nhạc phẩm Chiều một
mình qua phố. Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc
tại Bảo Lộc, những bản Chiều một mình qua phố, Lời buồn
thánh, Vết lăn trầm và tập Ca khúc da vàng, mặc dù đã có
tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn (hay Sơn không
muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ thị Nghiễn.
Cây đàn này đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn
thai nghén trong những lúc đi dạy hoặc lang thang với chúng
tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc ngủ thì Sơn
ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn
hiện trong đầu Sơn. Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc
hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ giấy bản dùng để
quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện
trong đầu rồi chợt biến, vo tròn, ném, lại dò tìm. Sơn sợ
làm ồn giấc ngủ của tôi, nên phải chận phím để tạo
những âm thanh câm.
Nhạc phẩm đầu tiên được ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm
rất hay như "Ướt mi", "Thương một người",
"Biển nhớ", "Nhìn những mùa thu đi"...
nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn bè, không có
điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn không thể xuất
bản để phổ biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi
hoàn chỉnh nhạc phẩm "Chiều một mình qua phố", Sơn
quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn tìm nhà xuất
bản. Sơn ở rịt tại Sài gòn gần ba tuần lễ .
Ông giáo già Thống chạy chiếc xe gắn máy Sach cũ kỹ, già
nua không thua gì tuổi đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ,
tìm Trịnh Công Sơn .
- Thầy ơi, thầy có biết ông Sơn ở đâu không ?, ông hỏi
tôi.- Ông ấy về Sài gòn rồi, ông ta không nói gì với ông sao?, tôi đáp.
- ối giời ơi, tôi chết mất, một mình tôi phải ôm ba lớp suốt ba tuần nay, ông rền rỉ.
- Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
- Không thể nào biết được.
- Thế thì tôi chết mất.
Nói xong ông thất thểu dắt xe ra ngõ. Tôi nhìn theo mà ái
ngại cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu nên
ông cố đeo cái nghề này trong chốn đèo heo hút gió để
mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. Tình trạng
này còn dài dài đến với ông và ông vẫn phải ôm ba lớp
và ông vẫn rền rĩ như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng,
ông là " Con ngựa già của...Trưởng Giáo Trịnh", nhại
lại nhan đề một truyện ngắn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm
miền Bắc.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện
ông già Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn
ngủ vùi suốt ngày hôm đó. Ngày hôm sau Sơn kể cho tôi nghe
mọi việc về nhạc phẩm "Chiều một mình qua phố".
Sơn nói: "Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba
ngàn đồng bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là
đắt nhứt mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc
sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc lưỡi nói
tiếp : "Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả
làm hư bài hát của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu
có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư là hư làm
sao?". Sơn nói: "Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả
nỗi buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu
hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống lên như bò rống. Sơn giả
giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt ,miệng
rống lên "Chiều một mình qua phố...ố...ố...ố".
Tôi không sao nín cười được. Từ đó Sơn giải nghĩa cho tôi
nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, đại lý, gom tiền...
rất là nhiều giai đoạn nhiêu khê, tác giả một nhạc phẩm
hay một tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các
việc đó, nên bị các nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải
bán bản quyền cho họ. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra. Bấy
lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc
được in ra, đem bán khắp nơi chắc là giàu lắm.
Dịp này, Sơn kể cho tôi nghe về hai người bạn ở Sài
gòn mà Sơn thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy với nhau.
Đó là Đinh Cường và Trịnh Cung. Đến giờ phút ngồi viết
những dòng này, tôi vẫn chưa gặp và biết mặt Đinh Cường
(trừ vài tấm hình trên Internet). Trịnh Cung thì tôi có thấy
mặt một lần khi ông ta ghé Blao thăm Sơn, tại phòng chúng
tôi đang ở, khoảng đầu năm 1965 thì phải. Hai hình ảnh của
hai ông Trịnh thật tương phản. Ông họ Trịnh Công Sơn thì
xuề xòa, giản dị trong áo kaki vàng bỏ vô quần tergal, với
đôi giầy bata màu nâu muôn thuở (sau này có may thêm hai áo
sơ mi, một nâu, một trắng bằng vải Nylfrance). Dạo ấy, Sơn
có thêm một biệt danh do chúng tôi đặt là "Chàng nghệ
sĩ nhứt y nhứt qưởn”. Có lẽ một năm Sơn mới hớt tóc
một lần, tôi nghĩ vậy, vì không bao giờ tôi thấy Sơn có
đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm chạy dài xuống gáy.
Hàng râu mép hung hung nâu, không phải râu, cũng không phải
lông. Khi dài thì Sơn lấy kéo cắt bớt. Hàng râu cằm lại
càng khiêm nhường. Từ sợi nọ sang sợi kia có thể mắc
võng được, tôi hay đùa với Sơn như vậy. Còn ông họa sĩ
họ Trịnh kia (thựa ra Trịnh Cung tên thật là Nguyễn văn Liễu)
thì đỏm đáng trong bộ veston thời trang lúc bấy giờ, cà vạt
hẳn hoi, giầy da láng bóng.
Trở lại câu chuyện "Chiều một mình qua phố". Sơn
hỏi tôi "Ông Lợi có nói gì không?" - "Không biết".
- "Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đã đến tai ông ta rồi”,
tôi đáp. “Làm sao bây giờ?”, Sơn hơi lo. Tôi trấn an “Không
sao đâu. Chiều nay ông lên Ty cười cầu tài một phát, nói
vài lời xin lỗi rồi tặng ổng bản nhạc là xong ngay".
Sơn thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai bản, ký
tặng ông Trưởng Ty một bản, tôi một bản. Bản đặc biệt
in trên giấy láng, hai lớp. Ngoài bìa màu nâu,vẽ chàng nghệ
sĩ tay trái xách đàn, tay phải vắt áo trên vai đang lầm
lũi xuống con đường dốc. Hình vẽ này chắc chắn không phải
của Đinh Cường hoặc Trịnh Cung, tôi nhớ vậy, vì nét vẽ
chân phương không lập dị thường thấy có khuôn mặt nhọn,
người dài ngoẵng và hai tay thì thường kẹp vào đùi của
hai ông. Sơn ký tên đủ cả họ và tên dài theo hết bản nhạc
theo chiều đứng. Cái gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài
che hết cả ba chữ Trịnh Công Sơn (không có hình con cá như
ông Đinh Cường nói).
Chiều hôm đó, ở Ty về, Sơn hớn hở khoe với tôi:
"Lúc vô Ty, mấy nhân viên văn phòng ái ngại cho tôi, chắc
thế nào cũng bị ông Trưởng ty Lợi quạt một trận tơi bời
vì tội bỏ nhiệm sở. Tôi cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp ổng
trong văn phòng riêng, tôi chìa bản nhạc ra trước và nói mấy
lời phân bua lý do vắng mặt cùng lời xin lỗi. ổng cầm bản
nhạc chăm chú xem, không nói gì. Lúc đó hơi yên tâm. Cuối
cùng ông ta nói "Cám ơn anh bản nhạc, nhưng từ rày về
sau đừng bỏ trường nữa, tội nghiệp ông Thống. Và tôi cũng
sẽ khó đối xử với các giáo viên khác. Về âm nhạc mong
anh thành công nhiều hơn".
Cô nữ sinh tên Ngà, tiếng kèn đồng và lời buồn thánh
Khoảng đầu tháng tư năm 1965 chúng tôi đau buồn tiễn biệt
người bạn trẻ Nguyễn văn Ba về bên kia thế giới. Ba là
người ngoan đạo. Mỗi buổi sáng, đúng 5 giờ, dứt hồi
chuông, là anh đã ra khỏi nhà để đến nhà thờ dự lễ nhứt,
trong khi chúng tôi còn quấn kỹ trong chăn. Rất chăm chỉ, không
sót một ngày. Hôm đó, anh về Sài Gòn để thăm gia đình,Việt
cọng đắp mô ở đèo Madagui. Chưa có quân đội đến gỡ,
anh tình nguyện xuống gỡ, thì mìn nổ giết anh chết ngay tại
chỗ.
Cái chết của Nguyễn văn Ba, ấy thế mà lại giúp Sơn hoàn
thành một bản nhạc bất hủ khác: Lời buồn thành. Số là
trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi bãi học, Sơn đi thẳng
ra bến xe, lấy vé về Sài gòn. Xe nhỏ Minh Tâm, chỉ bốn tiếng
đồng hồ là Sơn đã tiếu ngạo ở thành phố hoa lệ. Mười
hai giờ trưa chúa nhật, Sơn lại leo lên xe đò, đánh một
giấc. Năm giờ chiều đã có mặt tại bàn bi da Cà phê Ngọc
Trang. Sau cái chết của Nguyễn văn Ba, Sơn rét, không dám về
Sài Gòn hằng tuần nữa. Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn
thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả
hai soạn bài dạy, nhìn ra con đường đất đỏ. Mùa này,
bông lau nở trắng xóa khắp nơi, dọc theo con đường dốc
chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước
nhà chúng tôi. Buổi chiều, những cơn gió nồm thổi nhẹ tới
từng cơn, lướt qua rừng bông lau, xô chúng ngã nghiêng xuống,
rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè
nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần, những vạc
nắng cuối cùng chiếu xiên trên ngọn bông lau, lấp lánh
sáng ngời. Gió lắng dần, không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch.
Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất thật
hiu hắt buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng
giờ đi lễ. Chuông nhà thờ đang dồn dập từng hồi thúc
giục con chiên đến giáo đường. Thật đúng như tên đặt,
da cô trắng ngà, người mảnh mai với mái tóc thề chấm
ngang vai, khuôn mặt phảng phất như Đức mẹ Maria. Rất dịu
dàng trong dáng đi, mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi
ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Kinh Thánh trước ngực,
đầu hơi cúi xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu
rồi, cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái mầu áo dài trắng nổi
bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám
lau trắng, đã đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà
chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí! Chẳng là, cứ
ba giờ chiều là chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn
bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò
về, thì làm sao có thì giờ để biết bên hàng xóm có người
đẹp. Cái tên Ngà mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa
em cô gọi mới biết. Từ ngày Nguyễn văn Ba chết chúng tôi
buồn vì thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng
thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt một tuần
nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba
: Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không
thành công. Lý do: tuổi trẻ ham chơi nên không bỏ hết thì
giờ để đeo đuổi, thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông
xuống người ta trông vào, thầy giáo mà đi chọc gái thì ê
càng quá. Tuy nhiên với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ
sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ
của ngàn lau,của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ
cùng dáng yểu điệu của cô Ngà hòa nhập với gió chiều
nhè nhẹ để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc
phẩm "Lời buồn Thánh".
XUẤT XỨ VÀI NHẠC PHẨM - NHỮNG MỐI TÌNH MỘT THOÁNG
MÂY BAY
Ngoài những nhạc phẩm như "Biển nhớ"," Nhìn
những mùa thu đi","Dã tràng ca"...Sơn sáng tác
ở Quy Nhơn năm 62-64, "Chiều một mình qua phố"."Lời
buồn Thánh","Vết lăn trầm"...Sơn làm tại Bảo
Lộc thì tôi biết rõ xuất xứ và thời gian như đã lượt
qua ở trên, tôi còn biết thêm một vài nhạc phẩm khá hay
liên quan đến những mối tình, mà anh gọi là "một
thoáng mây bay" do anh kể lại, nay một chuyện, mai một
chuyện. Thường thường những chuyện này được kể trong
những chiều trời mây u ám, mưa rả rích, dai dẳng. Hai anh
em chúng tôi đem đàn, sáo ra hòa điệu. Rồi cũng chán. Lại
cà phê. Khói thuốc mịt mù, mờ khuôn cửa kính. Anh kể chuyện
hấp dẫn, có duyên. Bất cứ chuyện gì anh kể tôi cũng đều
thấy hay. Có khi khôi hài cũng rất dí dỏm. Vừa nói, vừa
ra điệu bộ, làm cho câu chuyện rất sống động, lôi cuốn
người nghe từ đầu đến cuối.
Diễm của "Diễm xưa"
Hai chị em, người chị là Bích Diễm, người em là Dao ánh,
Sơn kể, hai chị em đều đẹp và quí phái, nhưng tôi theo
cô chị. Mối tình học trò kéo dài từ khi tôi còn ở Huế
cho đến lúc tôi vào Sài gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và
không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của
Diễm và Diễm cũng chưa tỏ vẻ gì xa lánh tôi. Năm đó tôi
thi trượt Bac IỊ Diễm thi đậu, vào Sài Gòn để vào đại
học Văn khoa. Còn tôi thì lại về Huế, bỏ ngang việc học
vì gia cảnh. Phần buồn, phần tự ái tôi không còn liên lạc
với Diễm nữa và Diễm có lẽ thấy tôi lâu quá không thư
từ, thăm hỏi, nghĩ rằng tôi đã quên, nên Diễm cũng lơ luôn.
Đâu biết rằng đó thời gian tôi đau khổ nhất. Tôi đã
nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự đau khổ và nổi nhớ
nhung dày vò tôi từng đêm,tôi đã viết nên bài "Diễm
xưa" để trút bớt nỗi đau khổ trong lòng. Nhưng lạ một
điều là khi tôi viết xong nhạc phẩm này, lòng tôi lại
thanh thản,nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi
nhớ và tình yêu trong lòng tôi bây giờ chỉ còn một chút
mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn,mãnh liệt
như trước. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá Diễm
đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ
niệm một thời thơ mộng của tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng
không gặp, tôi nhờ mấy người bạn gái đang đứng ở cổng
trao lại giùm cho Diễm. Khi tôi đi được một quãng thì nghe
tiếng Diễm từ trên ban công gọi theo “Anh Sơn! Anh Sơn ơi!
Anh Sơn !”. Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng.
Tiếng gọi Anh Sơn, anh Sơn vẫn còn nghe văng vẳng sau lưng.
Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng sẽ không bao giờ gặp lại.
Tôn Nữ Bích Khê và Biển nhớ
Nhóm học sinh Nha Trang khăn gói ra Quy Nhơn học Sư phạm có mười
một người, bảy nam và bốn nữ. Các nữ giáo sinh gồm có
Mân thị Dưỡng (em gái kề của Mân Thiệu tức nhạc sĩ
Thanh Châu,tác giả nhạc phẩm “ Thư gửi người lính chiến”);
Nguyễn thị Tảo, Tảo học chung lớp Đệ nhất B3, Võ Tánh
với tôi; cô Kiều thị Đợi và Tôn Nữ Bích Khê. Bích Khê
có hai người em gái cũng tên Khê, đó là Thuần Khê và Cẩm
Khê. Bích Khê dáng người nhỏ, tròn lẳn, nước da ngăm đen
như Trịnh Công Sơn, thường đánh tóc rối thành một búi lớn
ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót, nhọn, hiệu
Đakao, đi chân sáo. Đứng xa nhìn Bích Khê đi trông giống như
con sáo nhỏ đang ngảy nhót trong sân. Cái búi tóc nhảy tưng
tưng theo nhịp bước, người ta có cảm tưởng có lúc nó sẽ
kéo người chủ nó té ngửa ra sau. Bích Khê không đẹp
nhưng rất có duyên, quyến rũ. Bích Khê cũng ở trong ban hợp
xướng. Người lĩnh xướng là Nguyễn thị Ngọc Trinh... Tôi
không biết rõ chuyện tình của Sơn và Khê bằng ông Đinh
Cường, mặc dù học chung hai năm với nhau. Bởi vì hầu như
ngày nào cũng có nhiều cô đến nhà trọ của Sơn. Sau khi bản
Biển nhớ được sáng tác và tập dượt để ra mắt buổi
văn nghệ thì giáo sinh sư phạm mới lưu ý tới Bích Khê và
bàn tán, vì tình cờ hay cố ý, Sơn đã viết "trời cao
níu bước sơn khê" trong lời nhạc. Về sau, 1970, tôi
được thuyên chuyển về Nha Trang, gặp lại Bích Khê nay đã
yên bề gia thất, chồng nàng tên Chương, thợ sửa máy lạnh,
có cửa hàng mua, bán - sửa chữa tại đường Quang Trung, đối
diện với hiệu ảnh Photo Vỹ. Sau 1975, hai vợ chồng trở nên
giàu có hơn xưa. ở Blao tôi có hỏi Sơn về sự liên quan giữa
nhạc và người. Sơn nói chỉ là bạn như những người bạn
khác. Chữ sơn khê chỉ là tình cờ.
Nhìn những mùa thu đi
Bản "Nhìn những mùa Thu đi” cũng trong trường hợp
tương tự. Trong lớp tôi đã có ba cô Thu rồi. Các lớp
khác cũng hai hay ba Thu, nên không biết Thu nào đã đến với
Sơn hay Sơn đã yêu Thu nào. Mỗi khi có cô Thu nào đi ngang, bọn
chúng tôi hát ghẹo "Nhìn những lần thu đi, anh nghe hồn
anh đau đớn...”. Mãn khóa, chia tay. Không ai có thì giờ để
ý đến chuyện của ai. Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ
nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy số phận mình đến phương
trời nào.
Ca khúc da vàng
Sau vụ bị rao tìm trên đài phát thanh Đà lạt và bị quở
trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn.
Sơn ít đi lại Sài Gòn - Đà Lạt. Thỉnh thoảng có đi thì
cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này
Sơn nhận được rất nhiều thư. Phong nào cũng dày cộm. Sơn
dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu
điện tôi biết thư được gửi đi từ Huế. Đấy là thư bạn
của Sơn... Từ lúc đọc những lá thư dày cộm đó, Sơn bỗng
nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn,
lo lắng. ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi
trước bàn, thẫn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng
giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc
châm đến lúc tàn chỉ rít một hai hơi. Chiếc gạt tàn đầy
ứ, tràn ra bên ngoài. Sơn mua khóa về khóa chặt va li để cất
những thư ấy. Có cái Sơn đem ra sân đốt ngay sau khi đọc.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Khi hai,
khi ba ngày Sơn kể tôi nghe về một trang trại ở Phim Nôm, gần
Đức Trọng, một quận của Tuyên Đức. Sơn ở đó với
vài người bạn (Sơn không kể tên) bàn chuyện làm ăn. Có lần
Sơn rủ tôi làm chung, mỗi tháng lương là mười ngàn.
Hết hè, tôi vẫn còn luyến tiếc thời gian ba tháng trôi
qua quá mau. Trở lại căn phòng trên Bảo Lộc, tôi hết đổi
ngạc nhiên, khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng
bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc. Bao thuốc Bastos
xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu
gối. Sơn nằm dài trên đi văng, mùng vẫn buông, ám khói
vàng khè. Dưới gầm bàn, giỏ rác đầy ứ, toàn là giấy
quay rô nê ô xỉn vàng, vo tròn, vất đầy mặt đất. Xác
cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vương vãi chổ này một
nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn.
Khuôn mặt hốc hác. Người đã ốm lại càng gầy thêm. Gầy
rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, đen xỉn, nhàu
nát. Có lẽ ba tháng nay không giặt! Nhưng nét mặt lại lộ
vẻ vui. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa
trò chuyện với Sơn. " Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây
đến ba tháng lận? Không buồn à?". Sơn phấn khích chìa
tập nhạc ra khoe với tôi : "Công trình ba tháng đó”.
Tôi cầm xấp bản thảo liếc qua trang đầu có nhan đề “Ca
khúc da vàng", lật thêm mấy tờ bên dưới lại thấy những
tựa rất lạ: Gia tài của mẹ, Đàn bò vào thành phố, Người
già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng v.v... với những lời
ca lạ lẫm, khác hẳn những lời trong tình ca đến 180 độ.
Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người của
Sơn nhưng chưa xác định được rõ ràng nó là cái gì.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong
tập "Ca khúc da vàng". Đến những đoạn như “gia tài
của Mẹ, một bọn lai căng. Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình"
hay như "đại bác đêm đêm dội về thành phố, người
phu quét đường dừng chổi lắng nghe" hoặc như "tôi
có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ",
tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động, nó xoáy sâu
vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm
can, tỏa lan dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai ai cũng biết Sơn vừa sáng
tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu
đã có từ “phản chiến” để chỉ loại nhạc này. Chúng
tôi ngâm nga hát mỗi bài vài ba câu. Phe thích thì cứ "Một
ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc
Tây,hai mươi năm nội chiến từng ngày", ca cẩm suốt
ngày. Phe chê thì bảo " Xì...nhạc Việt cộng, cha nội Sơn
theo Việt cộng rồi". Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng
đi. Chúng tôi lại vẫn bù khú bi da, cà phê, xập xám, vui vẻ
ồn ào như xưa.
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về Sài Gòn
- Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường hơn trước,
nhưng thời gian không lâu. Có khi hai, có khi ba ngày. Ông già
Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm,
há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm
bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập
"Ca khúc da vàng" và hé cho tôi biết thêm là giới
sinh viên thích lắm, họ đang yêu cầu có những buổi hát
ngoài trời gọi là "du ca". Và Sơn cũng nói đến một
vài cái tên sinh viên ... sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những
buổi trình diễn ấy. Những điều Sơn kể cùng những cái
tên xa lạ không ăn nhập gì với đời sống đang tươi đẹp
của tôi, nên từ tai này qua tai kia, chốc lát tôi quên hết.
Khi Sơn đi, tôi còn khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào
Đạo, Bạch, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Thao, Hiện, Rầm,
Nhượng ...Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông hiệu trưởng
Ngọc, hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn, hai bên
đường vào ấp, trồng toàn hoa đào, nên còn có cái tên thơ
mộng là Đào Hoa thôn, đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Lại
có lúc, cùng các cô, chúng tôi dạo suối Đại Bình, cách
Blao chừng vài cây số. Cứ thế tuổi trẻ của tôi,ngoài việc
dạy dỗ các học sinh, đã trải qua những ngày tháng tươi
vui, đáng sống ở cái quận lÿ bé nhỏ, mà mới ngày nào
tôi gặp Sơn ở bến xe một buổi chiều cuối tuần đìu hiu
có mưa rã rích,buồn thúi ruột.
CHIA TAY
Hè 1967, chúng tôi đang mỗi người một nơi nghỉ hè, bỗng
đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp
để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới còn bị chú hàng chữ
: Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường hạ sĩ
quan Đồng Đế. Thế là chúng tôi không hẹn mà gặp nhau một
ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh Tổng động viên, tay phải
nhận phong bì ứng trước một tháng lương để có tiền ăn
đi đường, lên đường nhập ngũ. Không thấy Sơn đâu. Hỏi
anh Thành phát ngân viên, anh cho biết Sơn đến hôm qua lãnh lương
đi rôì. Tối hôm đó chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị,
Nhượng, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét, Thao què giò
được miễn) và tôi, uống một bữa thật say. Ai cũng ví
mình là Kinh Kha đang ở bên bờ sông Dịch một đi không trở
lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc
sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài
"Những ngày xưa thân ái" của Phạm thế Mỹ, cứ lập
đi, lặp lại điệp khúc “Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng
sâu giết thù, những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho
nhau" rồi cùng nhau khóc, khóc như trẻ thơ, khóc tự
nhiên không một chút xấu hổ. Sáng hôm sau tỉnh dậy chỉ
còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi, còn bao nhiêu thì
đã đi rồi. Tôi ra bến xe, nhìn lại quang cảnh, vẫn y như
cũ, không có gì thay đổi, nhưng hôm nay sao thấy buồn quá
đỗi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang
bờ hồ, tôi thì thầm "Giả từ Bảo Lộc mến yêu, biết
bao giờ gặp lại nhau!". Xe khuất dần, tôi cố ngoái lại
lần chót , chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước
mắt tôi lại ứa ra.
Nguyễn Thanh Ty(tháng 9/2001)
Nguồn: Trinh-cong-son