Dam Bo
(Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
Lời người dịch
Mùa
Xuân năm 1950, tạp chí Pháp Á đã ra một số đặc biệt dày dặn (số
49-50), giành riêng giới thiệu trọn công trình nghiên cứu về
Các dân tộc miền núi Nam Ðông Dương của một tác giả ký tên là Dam Bo.
Các dân tộc miền núi Nam Ðông Dương là cách Dam Bo dùng để nói về những con người mà ngày nay chúng ta gọi là các dân tộc Tây Nguyên
[1] .
Về
sau, người ta sẽ biết rằng Dam Bo chính là bút danh của một trong
những nhà Tây Nguyên học say mê nhất và nổi tiếng nhất: Jacques
Dournes. Ông sống ở Tây Nguyên gần suốt ba mươi năm, am hiểu sâu sắc
hàng chục dân tộc thiểu số ở đây, nói thành thạo ngôn ngữ của họ, và đã
viết hàng chục công trình có thể coi thuộc số những công trình nghiên
cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên cho đến ngày nay. Trong số đó có những
công trình được coi gần như là "kinh điển" trong khoa nghiên cứu về Tây
Nguyên, như các cuốn "
Potao, một lý thuyết về quyền lực ở người Giarai Ðông Dương"
, "
Men theo những lối mòn của con người trên cao nguyên Việt Nam"
, "
Nri, sưu tập luật tục của người Srê vùng Ðồng Nai Thượng"
, "
Tôn giáo của người miền núi vùng Ðồng Nai Thượng"..., và đặc biệt cuốn sách cuối cùng tuyệt vời của ông "
Rừng, Ðàn bà, Ðiên lọan, hành trình qua miền mơ tưởng Giarai".
Thấm
đượm trong các nghiên cứu của Dam Bo-Jacques Dournes là một tinh thần
khoa học nghiêm túc, trên cơ sở những quan sát chăm chú, tỉ mỉ, cẩn
trọng, những so sánh và luận giải chặt chẽ, thấu đáo, những phân tích
luôn cố gắng hết sức khách quan, đi đôi và hòa quyện với một tình yêu
sâu sắc và một sự kính trọng chân thành đối với đối tượng nghiên cứu của
mình: những con người Tây Nguyên, cái thế giới vừa vô cùng sâu xa,
thăm thẳm trong Truyền thống minh triết lâu đời của họ, vừa lại rất
mong manh, rất dễ bị đổ vỡ, bị xéo nát trước những thách thức hung bạo
của sự phát triển hôm nay.
*
Trong
khi đọc công trình nghiên cứu vừa nghiêm túc vừa say mê như một bút ký
dân tộc học, một kiểu tác phẩm văn học độc đáo này, chúng ta luôn nhớ
rằng nó đã được viết ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Từ đó đến nay, trên
vùng đất này đã diễn ra biết bao nhiêu biến động dữ dội, tác động mạnh
mẽ đến toàn bộ cuộc sống và con người ở đây. Nhiều sự kiện đã được soi
sáng dưới những góc nhìn mới, do đó có thể được nhìn nhận và giải thích
theo những cách mới, sáng rõ và chân xác hơn. Một số nhận định, ước
thuyết của tác giả đã bị vượt qua, hoặc được đính chính lại, một số
hiểu biết mới được bổ sung, do những nghiên cứu mới trong suốt thời
gian từ đó đến nay. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể nhận ra ở tác phẩm
của Dam Bo không chỉ những tư liệu vô giá ngày nay hầu như không còn có
khả năng tìm thấy được nữa, mà hơn thế rất nhiều, một số vấn đề cơ bản
tác giả đặt ra về sự phát triển của xã hội và về số phận con người ở
đây có thể nói vẫn còn nóng hổi tính cập nhật. Về một phương diện nào
đó, công trình nghiên cứu công phu và đầy nhiệt tâm này đã vượt qua
được sự thử thách của thời gian, và không hề lạc hậu.
*
Dam
Bo viết: "Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có
thể hiểu". Bài toán về sự phát triển của các dân tộc Tây Nguyên trong
thời đại và trong thế giới ngày nay, như chúng ta đều biết, không hề là
một bài toán đơn giản, dễ dàng. Chắc hẳn chúng ta cần cả hai vế trong
mệnh đề trên của Dam Bo, nếu chúng ta thật sự tha thiết muốn góp phần
giải quyết bài toán khó ấy của Tây Nguyên hôm nay. Cần phải yêu, một
tình yêu đầy kính trọng và cả ưu tư như Dam Bo đã yêu đối với đất nước
và con người Tây Nguyên để có thể hiểu nó một cách thấu đáo, đặng có
thể xử lý những câu hỏi không hễ dễ dàng đặt ra vừa bức bách vừa lâu
dài, cơ bản ở đây. Và để có được một tình yêu như vậy, thì lại phải
chăm chú, tận tụy chăm chú hiểu nó, mảnh đất và con người ở nơi này,
trong tất cả các chiều sâu tinh tế của nó, như tác giả của cuốn sách
này, một con người không phải là người Việt Nam mà đã bỏ gần cả ba mươi
năm, và là những năm dồi dào sức lực, trí tuệ nhất, những năm quý giá
nhất của đời mình để cố tìm hiểu và yêu nó.
Ðưa công trình này
của Dam Bo đến với bạn đọc, người dịch mong mỏi góp một phần nhỏ vào
việc xây dựng sự hiểu biết và tình yêu đó.
Nguyên Ngọc
[1]Các
dân tộc miền núi Nam Ðông Dương: Populations montagnardes du
Sud-Indochinois, viết tắt là P.M.S.I., có thể thể đọc là Pemsi, do đó
Dam Bo gọi người Tây Nguyên là "les Pémsiens". Trong bản dịch này chúng
tôi xin thay thế từ Pémsien của Dam Bo bằng "người Tây Nguyên" theo
cách gọi đã thành rất quen thuộc của chúng ta.
Mào đầu
Con
người miền núi Nam Ðông Dương (Tây Nguyên) mà chúng ta sẽ nghiên cứu
đây đối với chúng ta có thể sẽ rất kỳ lạ, thậm chí không thể hiểu được,
như thuộc về một thế giới khác, một giống loài khác. Kỳ lạ và thuộc về
một thế giới khác, quả đúng như vậy, theo một cách nào đó; tuy nhiên
chúng ta có thể hiểu họ, bởi họ là một phần của chúng ta. Nhưng sau
cuộc nghiên cứu này rồi, chúng ta có hiểu họ hơn không? Không nhất
thiết đâu; bởi nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà
có thể hiểu. Phải yêu cuộc sống gian khó và bình dị, phải yêu thiên
nhiên trinh khôi và say mê vẻ đẹp của nó, phải yêu cái không khí đầm ấm
của căn nhà sàn và hơi nóng tỏa ra từ bếp lửa của nó, phải yêu khu rừng
ngo và đêm đầy trăng.
Từ buổi nguyên sơ, con người vốn giống
nhau; họ tiến hóa nhịp nhàng cùng nhau một thời gian, rồi tách nhau ra:
những người này thì theo khuynh hướng bảo thủ truyền thống và cố định
tôn giáo, những người khác thì ngả theo khoa học và nóng vội. Nhưng,
thời gian trôi qua, có phải đến bây giờ đã có một cái hố không thể vượt
qua chia cách họ với nhau?
Căn cứ vào nền văn minh của họ, đến
một giai đoạn nào đó đã đứng sững lại, con người Tây Nguyên hôm nay là
đương thời với những người Gaulois. Nhìn thấy họ bây giờ, tức là biết
được những gì đã từng có nhiều thế kỷ trước đây. Ðiều đó không chỉ cho
phép chúng ta có thể tiến hành một công việc phục dựng lịch sử dễ dàng,
nghiên cứu thật thuận lợi một dân tộc đã quá thời. Con người Tây
Nguyên hôm nay, là nhân chứng về quá khứ của nhân loại, chỉ cho chúng
ta biết ngày xưa chúng ta là như thế nào; chỉ riêng một điều đó thôi,
họ cũng đã đáng cho chúng ta chăm chú và yêu quý rồi. Quan sát họ,
chúng ta thấy hiện lên một bức tranh độc nhất và hấp dẫn về chính chúng
ta trong quá khứ, do đó chúng ta sẽ có ý thức về nó hơn, cũng giống
như những cử chỉ đầu tiên của một đứa bé khiến chúng ta hiểu chúng ta
thuở trước là như thế nào, và chẳng có cái khác gì có thể nhắc chúng ta
nhớ lại được cho bằng.
Nhưng đứa con của tự nhiên không chỉ là
một ký ức đối với những đứa con của ánh sáng, một nhân chứng hôm qua
cho cái ý thức bị tương lai che phủ của họ; nó còn có cái tội làm phát
lộ ra cái "nguyên thủy" đang còn hiện diện trong chúng ta, ít khi chúng
ta ý thức được (bởi chúng ta đinh ninh rằng chúng ta đã là những con
người tiến hóa và đã cắt đứt với cái "mê tín" dưới tất cả các hình
thức) nhưng vẫn còn nguyên si trong một tiềm thức bị cấm đoán. Trong
các nhân vật hợp nên cái
tôi của chúng ta, có và vẫn còn có một
kẻ biết nhìn ngắm và biết ngạc nhiên, một kẻ cả tin và mê tín, một kẻ
sợ hãi và chưa bị thuần hóa. Việc thừa nhận sự thật đó là một bước tiến
thêm trong việc tìm hiểu con người Tây Nguyên, người anh em của chúng
ta. Từ sự ý thức này có thể toát ra một minh triết: chúng ta biết một
hệ thống mặt trời và các điều kỳ diệu trong sự sắp đặt của nó; danh
vọng làm người của chúng ta là chúng ta gọi tên ra được mỗi một yếu tố
của nó; nhưng có phải vì chừng đó mà chúng ta đã trở thành các vị thần
rồi không? Và nếu chúng ta còn biết thêm nhiều hệ thống nữa, có mặt
trời hay không, và phân tích được cơ chế vận hành của chúng, thì chúng
ta có vì thế mà trở thành thần thánh hơn không? Rồi chúng ta sẽ nhận ra
sự nhỏ bé của mình nếu chúng ta được yêu cầu không phải hiểu biết mà
là tổ chức một vũ trụ vô cùng to lớn, cho đến tận trong những chi tiết
vô cùng nhỏ bé của nó. Thật là hiền minh khi tự nhận mình là thấp kém
và dốt nát, khi tin ở ưu thế của tinh thần đối với vật chất, và ở những
Trí tuệ cao hơn trí tuệ của chúng ta, mà ta phó thác sự điều hành vũ
trụ và số phận của chính chúng ta. Thực tại Tây Nguyên hiện tồn, mà
chúng ta sẽ phân tích, kỳ thực là một quá khứ còn sống sót cho đến ngày
hôm nay, nhưng nó không nhất thiết sẽ phải biến mất đi... với điều
kiện ta cứu vãn được những điều kiện tối thiểu để hoàn thiện được cuộc
thử nghiệm. Người Tây Nguyên sống giống như trong quá khứ và họ sống
bằng quá khứ. Họ không sống đúng thời của mình, trường hợp của họ là
một ca lỗi thời. Tuy nhiên Truyền thống, đã gìn giữ cho họ được đến vậy
cho tới hôm nay, chẳng phải là vô hiệu lực. Mà đấy là cả một bài thơ
và một cuộc sống; nằm ngoài thời gian, nó không chỉ chăm chăm vào quá
khứ; cho nên nó không nhất thiết là một cản trở đối với sự phát triển.
Nếu sự phát triển đó vượt quá Truyền thống sống động, thì sự phát triển
đó đã gồm trước trong chính Truyền thống và được vượt quá bằng chính
tinh thần của Truyền thống. Toàn bộ vấn đề là làm thế nào cho vận động
đang diễn ra có được những điều kiện một mặt vẫn giữ được một diện mạo
truyền thống và mặt khác, ứng dụng vào một ngày mai mới mẻ, tìm thấy
được sự tiến bộ làm cho Truyền thống ấy nảy nở.
... Ðêm bên bếp
lửa đã tàn. Ai nấy đều im lặng; câu chyện của cụ Già làng đã hòa tan
vào cái lặng thinh sâu thẳm của đêm. Trong bếp lửa ủ, ngọn lửa không
còn bốc lên; đến lượt khói cũng tan dần và lẫn vào các đồ vật trong căn
nhà. Chẳng mấy chốc bình minh đã dát bạc bầu trời còn mờ tái và khiến
các đỉnh núi long lanh ngũ sắc. Một buổi sáng mới đang bắt đầu.
Buổi
hoàng hôn của một thời đại đã đi qua; bình minh của một thời đại mới
đang thoát ra khỏi đám sương mù ban mai. Nhưng cái ngày hôm sau này
không chỉ là đơn thuần là một sự thức giấc và bắt đầu trở lại cái ngày
hôm qua. Quá khứ, cố sức kéo dài mãi, đang chết dần, đã quá già cỗi,
không được đổi mới, suy thoái, giống như một gia đình xưa đang suy
biến. Ngày hôm qua, người Tây Nguyên đau khổ vì mệt mỏi, vì đói, luôn sợ
tất cả những gì không phải là chính mình. Nỗi sợ đó, sự rã rời đó,
khiến họ trở thành một kẻ nô lệ cho những niềm tín ngưỡng truyền lại từ
tổ tiên, một nô lệ cho kẻ mạnh hơn mình và khiến họ có khuynh hướng bi
quan. Cách nhìn thế giới của họ là một sự phóng chiếu trạng thái tinh
thần của họ: một sự kỳ vĩ nào đó trong quan niệm và, trong toàn bộ, một
lối ghi nhận chẳng mấy cởi mở về cái chu trình khép kín quỷ quái trong
đó con người là một món đồ chơi của những thế lực khắc nghiệt, như một
con sóc trong chiếc lồng của nó. Ðấy là mặt trái, phương diện không hay
trong chủ nghĩa truyền thống của họ, đòi hỏi một sự giải phóng vật
chất và tinh thần: để làm được việc đó, phải nuôi sống họ và làm cho họ
cao lớn lên trong chính con mắt của họ.
Ngày hôm nay, người ta
đem đến cho họ những gì cần có để xây dựng một ngày mai mới mẻ, và đấy
là một nghĩa vụ mặc dầu nó hàm chứa những mạo hiểm có thể lường trước.
Nếu họ không cầm lấy những công cụ người ta đưa cho họ, ấy là hoặc vì
người ta đã đưa cho họ không phải cách, hoặc là vì họ bị mê hoặc bởi
một quá khứ co cụm, nó sẽ làm cho họ trở thành một kẻ cùng khổ của nhân
loại, họ sẽ là một người
Mọi, không có ngày mai. Nhưng bên
trong họ có một tiếng gọi hướng tới sự hồi sinh, trong mọi lĩnh vực.
Truyền thống của họ không làm tắc nghẽn con đường giải phóng; nó chịu
đựng được sự mở rộng, bừng nở, cho đến tan vỡ những hình thức xưa cũ;
và tự nó sẽ mở ra từ chính nó, nếu tránh được một sự đứt gãy đột ngột.
Nó
là than hồng trong bếp lửa đêm trong căn nhà sàn, đêm hôm trước được
cụ Già làng thổi bùng lên, khi cụ cảm nhận ra cái bình minh mà cụ còn
chưa nhìn thấy. Ðốm lửa ủ dưới lớp tro nóng của các thế hệ suốt lịch sử
sẽ được khêu lên lại, để làm hồi sinh một ngọn lửa mới, không chỉ cho
thế hệ trẻ "hiện đại", vốn không biết đến những mối hiểm nguy của một
ngọn lửa quá nóng chói, mà là cho cả căn nhà, vừa vẫn thấm đượm được
cái truyền thống xưa cũ vừa cảm nhận ra được cái buổi ban mai mới mẻ
này.
Vấn đề Tây Nguyên như chúng ta sẽ thấy toát ra từ những đối
tượng khác nhau của công trình nghiên cứu dân tộc học này của chúng
tôi - bấy nhiêu quan điểm về tất cả các mặt đời sống Tây Nguyên - là
một phương diện của một vấn đề rộng lớn hơn nhiều và không hề xa lạ với
bất cứ dân tộc nào: sự cao quý và niềm tự do của con người. Những giá
trị gắn với con người đó thường bị bỏ quên, vì lợi ích của những "giá
trị" khác của túi tiền, mà bao nhiêu con người suy đồi vẫn đăm đăm đeo
đuổi. Chẳng phải là nhân loại cần được lay chuyển bởi những giá trị gắn
với con người sao, cái nhân loại sẽ bị lăng nhục khi người ta làm tổn
thương đến danh dự của thành viên bé nhỏ nhất của nó?
Ðịnh mệnh
của con người là vươn tới tiến bộ; nhưng mọi sự tìm tòi sẽ là vô nghĩa
và kết quả sẽ là tai họa nếu vận động đó lại dẫn đến sự suy thoái của
nhân cách. Có nghĩa gì một sự tiến bộ kỹ thuật nếu nó giết chết tinh
thần? Niềm say mê hủy hoại của các thế lực "tiên tiến" có thật là cao
hơn niềm kiêu hãnh của con người miền núi không? Một con người mà ý
thức bị méo mó đi thì có thể đem lại được gì cho sự phát triển của một
dân tộc "nguyên thủy"? Có những người lao động ở phương Tây bị nô lệ
chẳng khác gì những người cu li phương Ðông. Ở bên ấy tiếp những người
"hạ đẳng" ở bàn ăn của mình có thể khiến người ta ngạc nhiên chẳng khác
gì ở bên này thấy một người da trắng ngồi cùng mâm với những người
"bản địa", trong khi chính phản ứng ấy mới là cái đáng chướng tai gai
mắt. Kẻ nào sợ nâng những con người mà mình sử dụng lên ngang tầm với
mình, thay vì phục vụ họ, kẻ nào, đứng trước một người lao động không
thể nhìn thấy gì khác hơn ở họ một cá nhân vô danh, bởi vì anh ta đã
quên rằng mỗi con người là độc đáo và không thể thay thế, kẻ ấy không
thể làm cho người Tây Nguyên ý thức được sự cao thượng thật sự của họ.
Chúng
tôi đã chỉ ra cần phải thực hiện một sự tiến bộ thật sự theo phương
hướng nào. Vấn đề không phải là tưởng tượng như kiểu Jean Jacques
(Rousseau) rằng con người sống gần gụi với Tự nhiên hơn thì có đạo đức
cao quý hơn và do vậy, người Tây Nguyên cứ vậy vốn đã hoàn mỹ. Ðấy là
sai lầm mà một số người đã phạm phải, muốn cô lập họ ra một cách thái
quá, trong một "thiên đường tìm lại được", cố làm mọi thứ để giữ cho nó
cứ nguyên si như vậy; cũng tức là chẳng làm gì cả. Ta không có quyền
tạo nên một bộ sưu tập được lựa chọn cho một bảo tàng với những con
người, vốn bản chất là hòa đồng, vẫn suy nghĩ và diễn đạt tư tưởng của
mình để giao tiếp với những người khác. Cũng chẳng thể, không hướng dẫn
những tiếp xúc và những kinh nghiệm của họ, để mặc họ lao mình vào thế
giới hiện đại, ở đấy họ sẽ bị sa vào suy đồi trước khi bị nhấn chìm và
tiêu tán.
Như vậy dân tộc này vẫn cứ phải là chính mình, giữ
nguyên được bản sắc của mình, nhưng gặt hái được một giá trị thặng dư
bằng một sự tiến bộ làm cho nó nảy nở mà không đảo lộn nó, và điều đó
phải được diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, về mặt tinh thần ít ra
cũng tương đương như mặt vật chất, như một phác thảo cần được hoàn tất
theo chiều hướng và khát vọng mà nó đã chỉ ra và hàm ý.
Cùng
lúc, nếu không phải là còn hơn thế nữa, trong cuộc đổi mới các tập quán,
giải pháp cho bài toán này phải có trong tâm trí và con tim những con
người mà người Tây Nguyên cần đến để thổi bùng lên lại ngọn lửa vẫn ấp
ủ, những người mang đến cho họ các công cụ để họ có thể xây dựng cái
ngày mai ấy. Sứ mệnh đó thuộc về những ai biết tin tưởng ở con người ấy,
vững tin rằng ở trong họ vẫn tiềm ẩn cái khả năng của một người anh
hùng và một vị thánh.
Và thêm vào đó nữa, những người đảm nhiệm
sứ mệnh ấy không chỉ sẽ khám phá ra được ở đây một người anh em đầy hấp
dẫn và được thụ hưởng sự giàu có mà khám phá đó đem lại, mà - không hề
mâu thuẫn - họ còn được học một bài học về cách sống ở đời: không náo
động khô cằn, mà là một sự bình thản dồi dào và khả năng tự chủ vững
vàng; không phải là nỗi lo âu bệnh hoạn của đô thị hỗn loạn, mà là sự
vô tư tươi mát, nó vốn là con đẻ của Ðức Tin; không phải là lối kiêu
ngạo điên rồ của những lũ phá hoại phi nhân, mà là niềm nhún nhường nó
chính là sự thấu hiểu sâu xa về con người; vượt qua tất cả các quốc gia
cung cấp vũ khí, là sự thanh bình của cao nguyên; và cao hơn rất nhiều
các nhà lô-gích duy vật tước đi hết mùi vị của mọi thứ, là những con
người nhạy cảm, là niềm vui sống, niềm đam mê đối với Tạo hóa, niềm
Minh triết.
Phần I
Dáng vẻ con người và lịch sử tây Nguyên
Ta
có thể đọc thấy những báo cáo của các nhà thám hiểm nói về sự hiện
diện của những người "Mọi" trên vùng cao nguyên, cũng cùng một cách như
họ nói về những loài dã thú cùng sống với những con người này trong
rừng, và đi đến kết luận là mong sao cho những "kẻ tàn hại chuyên đốt
cháy hết rừng núi, những kẻ không có chút khả năng tiến bộ nào" đó sẽ
bị tuyệt diệt hết đi cho xong. Trong thực tế, chính những kẻ đó lại
sống sót chống lại cuộc triệt diệt mà họ là đối tượng.
Nền văn
minh của họ, đương nhiên là nguyên thủy, tinh tế hơn người ta tưởng rất
nhiều. Họ không biết chữ viết, nhưng họ biết suy nghĩ. Những di sản
giàu có trong họ cần được trình bày ra để tránh cho chúng khỏi bị mãi
mãi mai một mất đi..., nếu không phải là đến một ngày nào đó chính tự
họ sẽ biểu đạt chúng ra và thông đạt chúng đến với mọi người.
Cơ
thể nhịp nhàng của những thiếu niên Tây Nguyên, cao lớn, khỏe mạnh và
mềm mại, gợi nhớ đến những lực sĩ trẻ từng làm mẫu cho các nhà điêu
khắc Hy Lạp. Hình thể thanh nhã, đường nét tinh tế, cơ bắp dài, nước da
mịn, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, đôi mắt thông minh. Khuôn mặt sáng rỡ
của người thanh niên tắm ở sông, khối nổi hằn nơi cánh tay mà lối ăn
mặc của người Tây Nguyên để lộ trần đến vai, vẻ tinh tế của những ngón
tay dệt vải; toàn bộ thân hình uyển chuyển của người nhảy múa, dưới ánh
trăng. Mái tóc đen, hơi lượn sóng, mà những người già và các bà để
dài, cuộn thành búi. Vẻ hấp dẫn chẳng hề kém của các cô gái , khi buổi
tối các cô xõa tóc, để cho mái tóc dài buông xuống trên gáy hay trên
lưng.
Làn da rám đều; ướt đẫm mồ hôi hay lúc tắm, ánh lên tựa
đồng thau. Trang phục chẳng có gì, càng tôn những đường nét tuyệt hảo
của đôi vai, lưng, và eo hông. Thường họ chỉ quấn một tấm chăn, đôi khi
được thêu rất đẹp. Ðàn bà quấn một chiếc váy màu sẫm phủ đến dưới gối.
Trước khi làm mẹ, họ thật duyên dáng; nhưng sau khi có đứa con đầu
tiên, họ già đi nhanh, da nhăn, vú thõng.
Chỉ cần thêm một nét
bút cuối cùng nữa để có được một bức chân dung hoàn hảo: đối với đàn
ông, một chiếc ống điếu ngậm nơi miệng, một chiếc dao phạt vác vai; các
bà thì môi đỏ vì miếng trầu, nhét giữa lợi và môi, hay giữa răng và
má, tùy theo tộc người.
Người Tây Nguyên không hề xa lạ với việc
làm dáng: họ thích trang điểm những chiếc vòng bằng đồng, kiềng thủy
tinh, hoa tai, đôi lúc to đến quá cỡ, bằng ngà hay bằng kim loại, theo
những nguyên tắc thẩm mỹ tất nhiên là không phải của phương Tây, nhưng
hợp với vẻ quyến rũ riêng của xứ sở này và với vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên.
*
Một vài chân dungNgười mẹ
- Bà địu con trong một tấm chăn, siết chặt vào người. Bà không thể xa
rời đứa bé, trong những năm đầu bà cảm thấy nó là da thịt của chính
mình da diết mức nó còn là da thịt dính chặt vào cơ thể bà. Khi bà đi
làm lụng, đứa trẻ theo bà, bám chặt trên lưng. Khi bà giã gạo, nó không
hề rời bà, được ru theo nhịp chày. Khi bà ở nhà, ngồi cạnh bếp lửa,
đứa bé lúc này được địu về phía trước ngực, mải mút vú mẹ. Lúc nào cũng
bám sát vào mẹ, đứa bé từng trải và lớn mạnh dần lên. Bà sẽ còn địu nó
mãi rất lâu bên mình, cho nó bú. Nếu có thêm một đứa khác được sinh
ra, không ít khi người mẹ địu cả hai đứa, một đứa trước ngực một đứa
sau lưng, để không bỏ rơi đứa lớn khiến nó khóc.
Trong những lúc
cãi vã, tranh chấp, bà có thể tỏ ra cau có, độc đoán, cứng nhắc;
nhưng, một lúc sau, chỉ còn thấy ở bà một niềm dịu dàng trìu mến đối
với đứa bé đang nhè.
Suốt ngày bà làm đủ các thứ công việc, lấy
nước, chẻ củi, giã gạo, cho gia súc ăn. Buổi tối, mệt nhoài, bà chẳng
hề cáu gắt, đứa bé chẳng hề khiến bà khó chịu. Nó là niềm thư giãn của
bà, đem lại cho bà nụ cười.
Già trước tuổi, nhăn nheo, bà xấu đi
rất nhanh. Nhưng đối với các con, bao giờ bà cũng đẹp. Một vị giáo sĩ
có lần phải xử một mụ thầy cúng bị cả làng ghét bỏ, coi là kẻ bị ma ám,
và muốn đốt cháy cả nhà bà. Một người thanh niên đã kiên quyết bênh
vực bà thầy cúng già ấy; anh nồng nhiệt nói bao nhiêu điều tốt đẹp về
bà, và cuối cùng bảo: "Xin cha hãy thương lấy bà, đấy là mẹ tôi!"
Bà có vai trò to lớn và được kính trọng. Trong phương ngữ Srê, từ
me (mẹ) được dùng làm phụ tố chỉ bộ phận lớn nhất của một tổng thể nào đó (
bônha me: ngôi nhà chính;
gung me:
con đường lớn). Trước ngày cưới, các quan hệ (nam nữ) được tự do;
nhưng sau đó, người đàn bà là thiêng liêng. Loạn luân, hiếm khi xảy ra,
bị phạt rất nặng. Chuyện ly hôn cũng rất hiếm, khi đã có con.
Bọn nhóc
- Ðược vui mừng chào đón, chẳng bao giờ quá nhiều, chúng là những nốt
cao của giai điệu trong ngôi nhà Tây Nguyên. Nhưng, hoàn toàn trần
truồng trong những năm đầu tiên, bám trên lưng mẹ và theo mọi di chuyển
của mẹ: trên các con đường mòn, dưới nắng chang chang, trên đồng ruộng,
trong mưa, chúng nhanh chóng bị lạnh và ốm. Ngay từ lúc chào đời,
chúng đã phải đấu tranh. Trong mười đứa thì đến sáu hay bảy đứa sẽ chết
rất sớm, đôi lúc trước khi được đặt cho một cái tên.
Nước da
sáng, tóc nâu như mái tranh của căn nhà sàn, đôi mắt to và tươi cười,
tiếng kêu đầu tiên của các cháu là hướng về người đã sinh ra các cháu
trên đời này: "
Maa!...
mee!...", tiếng nói đầu tiên của các cháu cũng giống hệt như trên toàn thế giới.
Cô nàng thanh lịch
- Cô làm giám thị ở đồn điền của một người da trắng. Cô hiểu một ít
tiếng Việt và bập bẹ đôi ba tiếng Pháp. Cô thường vênh vang ở chợ, làm
ra dáng bà lớn với những người phụ nữ Tây Nguyên khác, họ có sợ cô đôi
chút nhưng chẳng mến chuộng cô chút nào. Cô Việt hóa, cũng như các cô
gái Việt Tây hóa.
Ở đây người Pháp bỏ cái mũ cối thuộc địa để
diện chiếc mũ bê-rê Bát, bỏ cái ống điếu để ngậm điếu xi-gà Ăng-lê, và
bỏ con ngựa để cưỡi chiếc Jeep... Người Việt thì bỏ chiếc nón lá để đội
chiếc mũ cối bằng điền điển, bỏ bộ quần áo dài để diện chiếc quần sooc
của người da trắng, bỏ chiếc xe bò để cưỡi chiếc ô-tô bán hạ giá.
Cô
gái Tây Nguyên đeo các vòng trang sức của người Việt, diện áo sơ-mi bó
sát người và cài cúc đến cổ; cô mua một chiếc ô với giá cắt cổ, mà cô
không biết cách dùng, và bây giờ cô cũng đã biết chửi mắng bố mẹ.
Một
người đàn bà bình dân Tây Nguyên thấy người đồng hương của mình đi
qua, mặc quần áo trắng bong và bó sít cả người, nhận xét: "Bây giờ
người
Cau (người Tây Nguyên) học đòi người
Yoan (người Việt), còn người
Yoan thì học đòi người Pháp".
Thanh niên
- Ðôi mắt to, đen, sáng ngời, đẹp như những chiếc hồ trên núi dưới ánh
trăng. Những đôi mắt làm bừng sáng niềm vui trên khuôn mặt của những
chàng trai trẻ, cứ như họ sinh ra chính là vì niềm vui sống đó. Ở tuổi
này, mọi thứ đều được phép. Ðấy là ý kiến của các bậc làm cha mẹ, vốn
nhớ rằng chính mình cũng đã từng trải qua cái thời ấy. Không gì có thể
ngăn trở tự do của họ. Thỉnh thoảng họ gây những chuyện khó chịu trong
gia đình vì người ta muốn họ phải làm việc siêng năng hơn; nhưng biết
nói thế nào nữa đây? Ðâu có phải là lười biếng khi người ta muốn lang
thang đâu thì tùy thích, muốn tận hưởng cuộc đời này mà người ta đã chào
đón bằng một nụ cười.
Nhöl, có nghĩa là
chơi, tận hưởng, lang thang, lượn lờ, đối với họ là tất cả.
Vẻ
đẹp rạng rỡ của cơ thể thiếu niên, tỉ lệ hài hòa của đôi tay và đôi
chân, đường nét tuyệt diệu của lưng, ánh đẹp của nụ cười; họ có tất cả
để có thể thành công trong các cuộc chinh phục - và họ biết rõ điều ấy.
Ðương
nhiên, họ được hoàn toàn tự do trong quan hệ với các cô gái trẻ, trước
khi cưới (cùng lắm thì bố mẹ cô gái có thể bắt đền một món nhỏ nếu lời
hứa không đi đến hôn nhân). Thậm chí có những thời kỳ trong năm, trước
mắt mọi người, trai gái có thể tha hồ vui thú. Như trong lễ hội ban
đêm sau lễ ăn cốm mới, vào cuối vụ thu hoạch.
Nhưng kẻ nào biết
hiểu những chàng trai này, chiếm được lòng tin của họ, thì có thể trông
cậy mọi thứ ở họ. Họ có thể làm được những việc to lớn, đến độ anh
hùng.
Anh chàng tân tiến - Chưa kịp nhuốm đậm
những màu sắc của Truyền thống, anh ta đã chịu ảnh hưởng của các nền
văn minh láng giềng, bị vẻ bên ngoài của chúng hấp dẫn. Anh ham thích
những thứ lăng nhăng mà các bậc già làng quá hiền minh biết chẳng qua
chỉ là những trò hão huyền. Anh cho rằng người Việt và người Pháp cái
gì cũng biết. Mọi sự họ làm đều hay. Cho nên anh chỉ có việc bắt chước
theo, nghĩa là bắt chước những gì anh nhìn thấy, những gì trông thấy
bên ngoài - đôi khi chẳng hề là điều hay nhất.
Anh thường ra chợ
và xài món tiền mà anh hay bố mẹ anh có thể kiếm được ở đâu đó. Anh
phải đi giày, trầy cả chân cũng mặc; không thể đi chân trần trên những
con đường giành cho ô-tô. "Ngày xưa thì được, chứ bây giờ ai lại..."
Răng bằng vàng giả do người Tàu bịt cho, là tột đỉnh sang trọng. Mỗi
lần có được bảy mươi lăm đồng (tiền Ðông Dương) là anh lại phải trồng
thêm cho được một chiếc. Mặc tất cả những thứ đó, vẫn phải công nhận
trông anh cũng khá bảnh: áo sơ-mi trắng, quần cộc màu sẫm, mũ bê-rê đội
lệch... Ðể cho thật lịch sự, còn phải bỏ tiền mua một cây bút máy cố
tình cắm lộ ra trên túi áo sơ-mi, ở đấy thay vì chiếc khăn cài túi ngực
là một mẩu giấy bất kỳ nào đó, mặc dầu và nhất là anh chẳng hề biết
viết.
Nhưng chẳng phải mọi chuyện ở chợ đều hay - tuy đó chẳng
phải là ý kiến của anh. Trong khi, ngày lễ ở làng những người thân của
anh tụ hội trong nhà sàn quanh ché rượu cần, thì anh lại đi nếm rượu
cồn ở hàng quán bán lẻ cắt cổ.
Tùy theo tộc người, anh ta là một
trường hợp ngọai lệ hay là điển hình của cả giới thanh niên. Dẫu sao,
coi thường các hình thức văn minh cổ truyền, từ bỏ các tập tục của cha
ông, quên tiệt Truyền thống tôn giáo, anh ta chẳng được ai ưa. Ðám trẻ
nghe theo anh ta, các cô gái nhìn ngắm anh ta, nhưng các Già làng không
còn công nhận anh ta. Hoặc anh ta tự loại mình ra khỏi làng, hoặc anh
ta chinh phục được làng theo những ý tưởng mới mẻ của mình. Nhưng cái
kiểu chạy theo những hình thức vật chất đó của văn minh, bất chấp tôn
giáo, là một tai họa: sự tiến bộ về khoa học, kể cả về trí tuệ, không
thể nâng con người lên trong sự tiến hóa nếu nó không đi đôi với một sự
phát triển về đạo đức. Con người Tây Nguyên biết lái một chiếc xe ô-tô
có tiến bộ lên chăng, trong khi anh ta đồng thời lại đánh mất đi hết
mọi sự tôn trọng đối với thế giới tinh thần? Họ không biết rằng đó
chẳng phải là một sự tiến bộ chân chính, là cái điều mà thế giới ngày
nay đang cảm thấy, hoảng hốt vì những khám phá quái dị do trí tuệ của
mình đem lại.
Anh chàng đi buôn - Lão M. đi buôn,
lot ka .
Phương thức mua và bán lại của lão khiến lão trở thành vừa là người
giàu nhất vừa là người nghèo nhất xứ. Làm ruộng thì lão quá lười biếng,
mặc dầu người Tây Nguyên vốn rất dũng cảm trong lao động khó nhọc khi
họ làm việc cho chính mình. Vả chăng, lão chẳng nên nhọc công làm ruộng
làm gì, bởi lão có thể làm giàu bằng cách khác. Bằng những cuộc mua
bán đổi chác khôn khéo, trong một ngày lão có thể tạo nên cả một gia
tài so với người Tây Nguyên, cái gia tài sẽ chảy tan hết thành rượu chỉ
trong một đêm.
Lão mua mấy đồng bạc muối ở chợ, và trang bị món
hàng ấy, lão đi đến xứ người Mạ, cách đấy hai ngày đường, tức khoảng
năm chục cây số. Ðổi muối, lão lấy được một tấm chăn bông đẹp, do những
người Mạ này dệt và thêu. Rồi lão trở về làng. Ở làng, có người sẵn
sàng trả rất đắt để có được một tấm chăn như vậy. M. bán tấm chăn gấp
mười lần giá mua. Lão lại trở lên xứ Mạ, ở đó lão đã để ý một cái ché
rất cổ, mà người chủ lại không biết rõ giá trị. Lão tậu được chiếc ché
với giá rất hời và mang đi đổi lại cho một cụ Già làng rất hiểu giá trị
của nó, lấy hai mươi lăm con trâu. Vậy là chẳng phải khó nhọc, lão M.
đã tậu được một gia tài kếch xù. Một vụ việc rủi ro nào đó xảy ra, hoặc
giả lão uống rượu nhiều quá, thế là lão M. lại mất tất cả. Trong lúc
ấy, ở làng, vợ lão đói.
Kẽ lữ hành - Anh ta hằng
ngày sống thế nào thì cứ thế mà ra đi, hoặc gần như vậy. Buổi tối, anh
quyết định mờ sáng hôm sau sẽ lên đường đi đến một làng xa nào đó, cách
hai hay ba "đêm" đường, để mua cái này cái nọ, đòi một món nợ, hay
thăm một người họ hàng.
Mặt trời vừa ló, anh đeo gùi lên lưng,
chỉ mang theo đúng một nhúm gạo, và cũng có thể thêm một cái chăn. Anh
cầm theo cái xà gạc, đôi khi là một ngọn giáo. Nhưng chủ yếu là phải có
cái ống điếu. Bao giờ anh cũng có thể tìm được thuốc và thức ăn ở các
làng hiếu khách mà anh sẽ đi qua. Ðối với anh không hề có chuyện phải
dự tính trước này nọ, phải mang theo thức ăn, đồ dự phòng, quần áo để
thay. Anh vốn là sao thì cứ thế mà ra đi, theo nhịp bước quen thuộc của
mình, lúc nào đến thì đến.
Không bao giờ anh đi một mình -
aram
(không an toàn) - anh sợ lũ thú dữ. Vậy nên, dẫu hầu như chẳng bao giờ
trò chuyện với nhau trên đường, thì đi cùng nhau hai hay ba người vẫn
là dễ chịu hơn. Ðiều đó tạo nên sức mạnh và không phải bẽ mặt khi đến
các làng xa lạ. Nhưng số người đi có đông đến đâu, họ vẫn đi theo hàng
một, bước chân người đi sau dẫm đúng vết chân người đi trước; bề ngang
con đường chẳng cho phép lối đi nào khác được. Một người trẻ tuổi đi
trước, đàn bà đi giữa, Già làng đi sau. Khi sắp đến làng, người ta thay
đổi vị trí: Già làng đi lên trước, để là người đầu tiên bước vào làng;
những người khác theo sau.
Kỷ luật đi đường rất nghiêm nhặt;
những chặng đường dài hai đến ba mươi cây số mỗi ngày, rất ít khi dừng
lại nghỉ: chỉ hai hay ba giờ một lần. Nếu người lữ hành chưa kịp đến
một làng mà đêm đã đổ ập xuống, thì anh ta sẽ dừng lại nghỉ trên đường.
Anh dọn một chỗ để ngã lưng, đốt lửa bốn bên, trừ chỗ gần đầu, "sợ làm
óc chảy tan ra mất", cắm cây giáo sát tầm tay, đặt chiếc gùi cạnh đầu
và nằm xuống. Suốt đêm, thỉnh thoảng anh trở dậy, để thổi lửa. Và sáng
ra, lại sảng khoái, sẵn sàng đi tiếp một chặng đường mới.
Lot bbon cau... nau pôleng arang [2] .
Người Tây Nguyên rất khoái chuyện ấy. Khi công việc đồng áng đã xong,
khi thóc đã đóng kho và thời tiết còn khô, là mùa lữ hành đã đến. Ấy là
lúc anh thích thú lên đường, rảo theo các con đường mòn, gùi trên lưng
và dáo cầm tay. Bất cứ chuyện gì cũng có thể là cái cớ để đi thăm nhau
và lại đáp lễ. Gùi trên vai và dáo cầm tay.
Cụ Già làng
- Nguyên xưa là một thủ lĩnh, là "Vị Già làng" trong làng của mình, là
ông-cậu-nhiều tuổi-đứng đầu-hội đồng-gia đình, hoặc chỉ là một cụ già
bình thường đã nhiều con cháu tóc bạc xóa đi vì lao động và năm tháng,
cụ già Tây Nguyên là một bậc hiền minh; cụ đã sống nhiều, và cụ đã biết
mọi sự. Trong các cuộc bàn luận lời nói của cụ có trọng lượng; một số
những câu châm ngôn của cụ được các thế hệ nối tiếp lặp lại, như những
đoạn khúc của Luật tục. Sau khi qua đời, cụ đi vào thế giới của
yalyao,
của ký ức, của Truyền thuyết. Người ta đến tham vấn cụ trong một vụ
mua bán, người ta xin ý kiến cụ khi có chuyện bất đồng, người ta phải
nhờ đến kinh nghiệm của cụ khi pha chế các món thuốc hiệu nghiệm. Ðêm
đêm, người ta lắng nghe cụ
yalyao, kể lại những thời xa xưa, hát Truyền thuyết về những người anh hùng, những vị bán thần.
Kỳ
thực cụ ít tuổi hơn vẻ bề ngoài, do từ bé đã phải chịu đựng một cuộc
sống khắc nghiệt luôn phải chống chọi với các lực lượng của tự nhiên:
thời tiết thất thường dữ dằn, cái lạnh đốt cháy da thịt, sự hùng mạnh
của rừng mà cụ phải khai phá suốt đời, cụ lao động cho đến tận hơi thở
cuối cùng. Nếu cụ không còn sức đi lên núi hay ra ruộng, thì cụ ở lại
trong làng. Ở đấy, chỉ có cụ mới biết được cách uốn cong một chiếc cán
xà gạc, bện dây, dệt chiếu, đan gùi, khoét những chiếc ống điếu. Ðôi mắt
đã yếu, sung huyết, ướt nhèm của cụ vẫn biết cách đọc ra giá trị thực
của một con trâu người ta gạ mua, đánh giá độ cổ xưa của một chiếc ché,
phẩm chất của một thỏi sắt và biết có thể đem rèn nó được không. Quá
già rồi, cụ hầu như chẳng còn bước ra khỏi nhà; mà, lặng lẽ, cụ vẫn bận
bịu trăm công nghìn việc. Và đôi khi cụ vẫn thích nếm đôi ngụm
törnom
(rượu cần). Chính đấy là dịp để ta có thể nhận ra một nghịch lý trong
tâm trạng của cụ, lẫn lộn giữa một thứ mặc cảm thua kém người với một
niềm kiêu hãnh vô thức. Chính con vừa mới ngay trong ngày hôm ấy khúm
núm trước một vị cấp trên không đáng kể nào đó, đến buổi tối, ngồi chễm
chệ bên ghè rượu lại biểu hiện một vẻ kiêu hãnh đầy tự hào và hết sức
tự nhiên thích thú bày tỏ giá trị của mình.
Chỉ có bọn trẻ mới
lười biếng, còn cụ, bao giờ cụ cũng có một việc gì đó để mà làm. Nếu ta
thấy cụ có vẻ nhàn rỗi, ấy là cụ đang vừa rít tẩu thuốc vừa ngẫm nghĩ,
nhớ lại hay đang mưu tính một sự vụ gì đấy. Rất ít ngủ về đêm, cụ giữ
cho bếp lửa luôn cháy để đỡ bị lạnh mà sinh ho và sưởi ấm cho mọi người
trong nhà đang ngủ say. Thức dậy rất sớm, lại ăn ít, cụ nêu gương cho
những kẻ sẽ nối nghiệp cụ, sẽ ngợi ca những ân huệ của cụ, như một vị
thần ngày xưa.
*
Người Tây Nguyên từ đâu đến?Do
vị trí địa lý của nó, Ðông Dương là một ngã tư về nhân chủng, ngày nay
phô bày một sự đa dạng về hình mẫu và một sự rối mù về tộc người khiến
nhà bác học phải hoang mang. Mêlanêdiêng, Inđônêdiêng, Môngôlôlốit, xô
đẩy nhau, chồng lên nhau. Người Chàm, người Tây Nguyên, người Khạ,
người Phnong, người Khơme, người Mường, người Thái xô đuổi nhau hay
giao chéo với nhau.
Lúc này chưa thể đặt vấn đề phân loại rạch
ròi; vấn đề quá ư phức tạp và tình hình nghiên cứu còn quá kém phát
triển. Tuy nhiên, hình như có thể phân biệt các nhóm tộc người chính,
có thể định vị trong không gian, nhưng khó xác định sự tiếp nối trong
thời gian. Còn về các mối quan hệ của họ với nhau, thì chỉ có thể đưa
ra những giả thuyết.
Ở đây chúng tôi không có ý định giải quyết
vấn đề này đối với người Tây Nguyên. Loại hình thể chất của họ (nhiễm
sắc tố, thân hình, hình dáng sọ) khiến họ khác biệt người Da vàng cũng
như người Da trắng. Họ gần với người Da đen hơn, dù có điều nghịch lý
về mặt địa lý. Dường như họ gắn với chủng tộc da màu đồng
"inđônêdiêng", còn ít được biết đến, nếu như họ là một chủng tộc khác
với chủng tộc da đen.
Quan điểm của chúng tôi chủ yếu là quan
điểm của nhà dân tộc học, khiến chúng tôi đặt ra câu hỏi này, mà câu
trả lời sẽ rất bổ ích cho sự hiểu biết về tính độc đáo và giá trị nhân
loại học của người Tây Nguyên: họ thuộc nhóm tộc người nào? Nhiều
phương diện trong nền văn minh của họ, các phong tục của họ, tôn giáo
của họ, và ngay cả ngôn ngữ của họ, một số nghi lễ, các truyền thuyết,
các kỹ thuật của họ rất giống với những người nguyên thủy ở các đảo
Thái Bình Dương
[3] , những người trên các dãy núi Trung bộ, những người châu Phi da đen
[4]
. Nhiều người, đến Tây Nguyên sau khi đã sống một thời gian ở châu
Phi, thấy các ký ức của mình sống dậy và nhìn những người Tây Nguyên
như những người đã quen biết. Ðôi khi ngay cả một số từ trong từ nguyên
của người Tây Nguyên khiến họ nhớ đến Oubangui hay Congo. Chừng như
tất cả những người này đều thuộc về một họ nhân chủng lớn nối từ những
người Mêlanêdiêng châu Ðại Dương đến những người Nguyên thủy châu Phi
xích đạo, qua toàn bộ thang màu những người bản địa vùng Sonde, vùng
Malêdi v.v., mang khá nhiều những tính chất chung khiến ta có thể nhận
ra một nhóm tộc người duy nhất mặc dù các khác biệt và sự phân tán của
họ, trong đó các tộc người khác nhau ở Tây Nguyên là một tiểu nhóm.
Những nghiên cứu dân tộc học so sánh chuyên biệt, đặc biệt về tôn giáo,
ủng hộ đề xuất này. Người Tây Nguyên chỉ có điểm chung với những người
Môngôlôít ở dáng vẻ bên ngoài, sản phẩm của những cọ xát và mài nhẵn
do những tiếp xúc của hai nền văn minh cùng hiện diện.
Gắn người
Tây Nguyên với họ nhân chủng người da màu đồng, coi họ là một tiểu
nhóm tộc người của người Inđônêdiêng, thì vẫn chưa nói được họ đã đến
chiếm vùng rừng núi Trung bộ này như thế nào, bởi vì dù họ là những cư
dân xưa nhất ở khu vực này của Ðông Dương, không phải họ đã từng sống
mãi mãi ở đấy. Trước đó họ ở đâu? Có người cho là họ đến từ Thái Bình
Dương, những người khác thì cho rằng họ đến từ Trung Quốc.
Bác
sĩ Huard, trong khi nghiên cứu các nhóm tộc người Ðông Dương, viết:
"Vào kỳ thứ hai thời đại đồ đồng, một nền văn minh biển có ranh giới
phía bắc là Nhật Bản và phía nam là Madagascar, đã đến vùng Insulinde
và các bờ biển Ðông Dương. Nó có đặc điểm là gia đình loại hình mẫu hệ
và tục nhuộm răng đen, còn lưu giữ, theo những mức độ hoàn toàn khác
nhau, cho đến thời kỳ hiện nay..." Chúng tôi muốn ghép người Tây Nguyên
vào nhóm người này, mặc dầu tác giả vừa nói trên đã tách ra khỏi đó
"những nhóm cô lập các dân tộc lạc hậu". Chúng tôi không thể có lập
trường rõ ràng. Chúng tôi chỉ muốn mang đến đây một bằng chứng, (không
phải để khẳng định, mà là để làm rõ hơn những hiểu biết hiện nay, gợi ý
những nghiên cứu khác), bằng cách sử dụng Truyền thuyết xưa của người
Tây Nguyên.
Bởi vì người Tây Nguyên, tự trong chính họ, có những
điều gì đó có thể định hướng cho các nghiên cứu. Quả là họ không biết
chữ; không có một văn bản hay một công trình kiến trúc nào có thể dùng
làm điểm mốc. Nhưng, tự trong tâm hồn họ, họ có Truyền thuyết cổ xưa,
mà những người già vẫn hát để dạy bảo cho các thế hệ trẻ. Những cụ già
làng ấy "biết" họ từ đâu đến. Sử thi truyền thống rất giàu những chi
tiết về thời xa xưa khi người Tây Nguyên chưa sống trên rừng núi ngày
nay; nó cho phép ta phục dựng lại lịch sử của họ. Là giả thuyết, đương
nhiên, song mỗi đề xuất đều có nhiều truyện kể Truyền thuyết làm chỗ
dựa. Ðây là lịch sử của Tây Nguyên, như người Tây Nguyên kể lại.
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2003
[2]Dich sát nghĩa theo tiếng Srê và Giarai: "Ði-làng-người"
[3] Người ta nhận thấy ở người Khạ những căn lều kiểu dáng mêlanêdiêng
[4] Xem Marcel Griaule : Thần nước - NXB. Chêne, Paris 1948.
Phần II
Lịch sử xa xưa
"
Khởi
nguyên, trước tất cả mọi chuyện, có một người đàn ông và một người đàn
bà sống bên bờ đại dương, dưới chân ngọn núi Kang R Naê. Ðó là uong
Khot uong Kho, hai người Kon Cau đầu tiên, tổ tiên của chúng tôi. Họ
xuất hiện trên mặt đất chính tại nơi đó, những người đầu tiên. Những
người khổng lồ đó, cùng với con trai của họ là Bung, là những người thợ
của tạo hóa, được tưởng tượng ra trong tư duy của Thần Ndu... (nhưng
sau một cuộc cãi vã gay gắt với bọn hổ, oung Khot uong Kho buộc phải
chạy trốn lũ thú họ mèo này, chúng săn bắt họ)... Họ chạy trốn ra biển.
Bọn hổ lần theo mùi mà đuổi theo họ. Chúng cũng ra đến biển, mà uong
Khot uong Kho vượt qua được, đến một hòn đảo. Bọn hổ chặt tre và bắt
một chiếc cầu. Chúng lên cầu. Uong Khot uong Kho rất sợ; họ nghe con
chim-mang-lửa hót, họ van xin chim đốt cháy cầu, khiến bọn hổ rơi xuống
nước... Uong Khot uong Kho ở lại trên đảo. Họ sinh nhiều con, chúng
sống cùng họ; các cô con gái của họ rất đẹp. Từ trên bờ lục địa, người
Trung Hoa và người Chàm ngắm các cô. Họ đi thuyền đến tận nơi thăm các
cô, rồi lấy các cô làm vợ. Về sau, những người Tây Nguyên đầu tiên chán
sống trên đảo, một mình giữa biển; họ đến sống trên lục địa, ven đại
dương".
Như vậy người Tây Nguyên nguyên gốc ở một lục địa, mà nhiều truyền thuyết đều nhắc đến. Nó ở phía mặt trời mọc, "
ở phía bên kia biển" (Biển Ðông). Trong
Trường ca Chöi Böling Chöi Bölang, lục địa ấy tên là B
örjul; hai anh em B
öling B
ölang
vượt biển, trên lưng một con vịt kỳ diệu, để đến được nơi đó. Trong
một trường ca khác, Trong con trai của Tree, từ miền đất đó, vượt biển
trên lưng một con cá voi để đến vùng bờ biển Trung bộ nơi họ giải phóng
cho những người anh em Tây Nguyên của họ bị một tên bạo chúa thống trị
buộc phải nộp người làm lễ hiến sinh, "
khi tổ tiên còn sống bên bờ đại dương".
Người đẹp Lang, con gái của Thần Mặt Trời Mọc, rời nhà người bác của
cô vốn sống ven bờ biển, đi lấy chồng ở bên kia biển, phía mặt trời
lặn, "
nơi chúng tôi đang sống hiện nay". Như vậy lục địa của
Lang là ở bên kia đại dương so với bờ biển Trung bộ. Khi những người
già Tây Nguyên moi tìm trong ký ức xa xưa nhất, nhớ lại những truyền
thuyết cổ xưa nhất của dân tộc mình, bao giờ lục địa đó cũng hiện lên
như là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử được biết đến của họ.
Rồi
có một giai đoạn sống, có vẻ khá ngắn, trên một hòn đảo, mà người Tây
Nguyên rời bỏ để cuối cùng đến sống trên vùng đất ngày nay ta gọi là
Trung bộ. Ở đấy, thoạt tiên họ sống ven bờ biển. Ðấy là thời kỳ của
những thủy thủ, những chiến binh, những người anh hùng. Truyện kể về họ
làm nên những trường ca đẹp nhất của Truyền thuyết; nghìn lẻ một đêm
cũng không đủ để kể cho hết chất liệu hầu như vô tận của chúng. Ðầy rẫy
trong ấy những ám chỉ về đời sống trên biển, cũng như những cuộc du
hành trên biển cả, nối liền với lục địa cội nguồn. Anh em Siat Siong đi
một vòng lớn trên hòn đảo giữa đại dương để chống lại các dân tộc láng
giềng muốn tấn công họ. "Cô nàng Quả Xoài" đi thuyền độc mộc, đánh một
trận thủy chiến, chống lại một gia đình thù địch thề giết chết cô; bị
đắm, cô rơi xuống đáy biển, nhưng sóng lại đưa cô lên bãi cát ven bờ ở
đó cô sống lại sau ba ngày. Nhiều truyền thuyết ca ngợi Me Boh Me Bla,
"mẹ của muối", người đã đem muối đến cho người Tây Nguyên, con lươn biển
thiêng liêng, và các cuộc chiến đấu anh hùng của bà chống lại cá voi,
v.v.
Như vậy, sau khi rời hòn đảo của mình, người Tây Nguyên đã
đến ở trên vùng bán đảo nay là Ðông Dương, và ở bên bờ biển, mảnh đất
đầu tiên họ gặp. Theo truyền thuyết dường như lúc đó họ không gặp ở đây
một dân tộc khác; nơi này chưa có ai ở. Tuy nhiên họ không phải là
những người đầu tiên trên xứ sở này. Trước họ đã từng có những người
không ai biết rõ còn để lại những chiếc cuốc và những chiếc rìu bằng
đá, mà thỉnh thoảng ta còn nhặt được. Người Tây Nguyên không hề có một
khái niệm gì về cuộc đi qua của những người nguyên thủy này, và thường
gắn cho các công cụ khiến họ rất đỗi kinh ngạc đó một nguồn gốc thần
thánh.
Rồi sử thi Tây Nguyên nói về những người Chàm trên vùng
bờ biển và nói rất nhiều về người Chàm. Nhưng không hề nói gì về nguồn
gốc của họ. Họ đã đến đây như thế nào và theo con đường nào? Họ có đánh
nhau với người Tây Nguyên không? Truyền thuyết không hề nói gì về
những điều đó cả, cứ như giai đoạn này đã bị rơi vào quên lãng. Ta thấy
thoạt tiên những người mới đến sống trên vùng bờ biển Trung bộ, rồi
sau đó chỉ nói đến các quan hệ của họ với người Chàm, mà họ cùng chia
xẻ vùng bờ biển này và họ tự nhận là chư hầu, dù có thấy nói rằng: "
Chúng tôi và người Chàm là anh em cùng một mẹ".
Qua lịch sử, ta biết những điều này xảy ra vào thế kỷ thứ II sau công
nguyên, cuộc xâm nhập đầu tiên của những người Inđônêdiêng, ít lâu sau
đó được Ấn Ðộ hóa, dẫn đến việc thành lập nước Champa ở vùng Quảng Nam
vào năm 192.
Ðây là thời kỳ tốt đẹp của việc người Chàm tổ chức
người Tây Nguyên thành các đơn vị hành chính, với những người đứng đầu
do họ chỉ định. Trước đó là tình trạng vô chính phủ hoàn toàn ở vùng
Tây Nguyên; thậm chí trong các phương ngữ không hề có các từ để chỉ tôn
ti của các thủ lĩnh, để chỉ các vùng trong một xứ sở. Các từ mà người
Tây Nguyên hiện dùng để chỉ: tỉnh, tỉnh trưởng, huyện trưởng (
lögar, pô lögar, pô prong)
đều là từ mượn của tiếng Chàm. Người Chàm dạy cho người Tây Nguyên làm
ruộng nước (ảnh hưởng Chàm trong từ vựng chỉ công việc này cũng chứng
minh điều đó). Họ thực dân hóa người Tây Nguyên và mang đến cho nền văn
minh nguyên thủy bị đông cứng của người Tây Nguyên một sự tiến bộ thực
sự. Không thể tránh được việc họ buộc người Tây Nguyên phải đóng thuế
theo làng và bằng hiện vật (lợn, tấm chăn, da thú...) Ngay cả khi đã ở
dưới sự thống trị của người Việt sau này, người Tây Nguyên vẫn tiếp tục
đóng thuế cho người Chàm, để rồi người Chàm lại nộp cho tôn chủ mới
của mình. Ngoài ra, người Chàm còn tuyển mộ người Tây Nguyên làm phụ tá
trong quân đội của họ; người Tây Nguyên mang tên cho người Chàm bắn.
Thời
kỳ đô hộ của người Chàm có vẻ là một thời kỳ rất sung sướng. Ðúng là
người Chàm coi người Tây Nguyên là hạ đẳng: trong truyền thuyết Ch
öi K
öho và Nai T
ölui,
hôn nhân giữa con gái của một thủ lĩnh Chàm với một người thanh niên
Tây Nguyên bị coi là không tương xứng; nhưng người Chàm không phải là
những bạo chúa. Quyền lực của họ là do uy tín rất lớn của họ, được công
nhận một cách tự nguyện. Có một sự đồng thuận tốt đẹp. Người Tây Nguyên
công nhận rằng những người chủ của mình đã dạy họ rất nhiều điều. Rất
nhiều câu chuyện trong truyền thuyết kể về những mối quan hệ thân thiện
này: truyền thuyết về Du Droe, hai người con gái Tây Nguyên có chồng
được người Chàm cử làm người đứng đầu vùng đất của họ và trở thành những
nhân vật quan trọng, giàu có và sung sướng; truyền thuyết về Tu dam
Tong được người Chàm ban cho nhiều ân huệ.
Về sau, những cuộc hôn
nhân giữa người Chàm và người Tây Nguyên thắt chặt các mối quan hệ
giữa họ với nhau. Chúng ta đã nói rằng cuộc hôn nhân đầu tiên giữa Ch
öi K
öho và Nai T
ölui
có phần không hay; nhưng việc đó được nhanh chóng chấp nhận. Câu
chuyện rất đẹp về Gliu Glah mô tả mối tình giữa một thủ lĩnh Chàm và
một cô gái Tây Nguyên.
Truyền thuyết hình như còn chứng minh một
sự kiện đặt ra rất nhiều bài toán cho các nhà dân tộc học và ngôn ngữ
học. Khi người Tây Nguyên còn ở ven biển, họ chỉ là một tộc người
[1] và đều nói chung một thứ tiếng gọi là
ddös pöddik,
một thứ ngôn ngữ xưa mà Truyền thuyết ngày nay vẫn còn được hát, một
thứ ngôn ngữ cổ và bí mật chung cho nhiều tộc người mà các phương ngữ
chẳng qua có khác nhau.
Trong thời kỳ phồn thịnh này, dân cư Tây
Nguyên dường như đã đông lên rất nhiều so với người Chàm. Họ bị thiếu
đất (họ giải thích như vậy) và phân tán về vùng đất phía sau, nhường
vùng đất ven biển, tốt hơn, cho những người chủ của họ. Họ tiến sâu dần
vào vùng đất này, thoạt tiên trên sườn phía đông của dãy Trường Sơn, là
vùng đất còn màu mỡ và lành; rồi ngày càng sâu hơn nữa, tiến vào rừng,
tổ chức thành vùng Cao nguyên, cho đến vùng đất do người Êđê và người
Stiêng chiếm ở. Chính cuộc phát tán này khiến họ không bị Ấn Ðộ hóa như
người Chàm, "lạc hậu", nhưng lại còn giữ lại được cho đến ngày nay,
trong khi người Chàm đã bị biến mất một cách tiềm tàng.
Truyền thuyết kể rằng: "
Vào
thời ấy, tổ tiên chúng tôi trở nên đông đúc hơn từ khi không còn lệ
hiến sinh người, đã cư trú trong vùng nội địa, trong khi người Chàm vẫn ở
ven đại dương". Cuộc xâm lấn của những người da vàng tìm thấy
những người Tây Nguyên đã định cư; nó ngăn cản họ tràn xuống, hơn là
đẩy họ lên phía núi. Ngày nay, dù họ đã rời xa biển, song ký ức về biển
trong họ vẫn còn sống động. Cuộc sống ven biển đã để lại những dấu vết
rất đậm ở họ. Ta thấy những dấu vết của cuộc sống ở biển cổ xưa ấy cả ở
những người Khạ bên Lào.
Việc người Tây Nguyên rời bỏ vùng ven
biển, nơi họ đã cùng chung sống, lên vùng núi nội địa, là nguồn gốc tạo
ra sự khác biệt của phương ngữ: "
Ngày xưa tổ tiên chúng tôi nói cùng một tiếng nói, nhưng họ không còn hiểu nhau nữa khi họ phân tán ra khắp các hướng".Quả
vậy, có thể núi non ngăn cách bởi các thung lũng và các cao nguyên
không có đường thông thương với nhau, người Tây Nguyên, nhóm này cô lập
với nhóm khác, đã chia thành các tộc người có phong tục mỗi nhóm phát
triển theo hướng riêng của mình. Ngôn ngữ có thể cũng chịu một số phận
như vậy và cũng đã có thể chịu ảnh hưởng của các tiếng nói khác lạ,
Khơme hay Chàm, tùy theo vị trí địa lý, cho đến chỗ tạo nên những phương
ngữ hiện tại trong đó ít nhất phần lớn vẫn còn giữ dấu vết của một
nguồn gốc chung.
Một sự kiện mới làm đảo lộn lịch sử Tây Nguyên:
cuộc đổ bộ của người Việt, vào thế kỷ XIII đến vùng ven biển, khuất
phục người Chàm và làm tê liệt người Tây Nguyên. Người Chàm liên tục
khuất phục rồi lại vùng lên tự giải phóng; nhưng áp lực của người Việt
càng lúc càng bức bách hơn. Năm 1471 kinh đô Chàm cuối cùng sụp đổ.
Truyền thuyết còn lưu giữ ký ức về một cuộc chiến lớn giữa một bên là
người Chàm và người Tây Nguyên, bên kia là người Việt. Nơi diễn ra
chiến trận là vùng J
öd
öng, ở phía nam xứ sở của người Gia-rai, cách bờ biển năm mươi cây số.
"
Sankah,
thủ lĩnh Chàm, đi đánh những kẻ xâm lược; nhưng ông phải gọi người Tây
Nguyên giúp, vì các đội quân Chàm của ông không đủ. Ông mời họ làm phụ
tá trong quân đội của ông; ông mời những người Cau Srê, người Mạ,
người Noang, người Raglay, tất cả các làng. Người Việt chỉ có những con
dao lớn. Chúng ta, những người kon kau, chúng ta có tên, người Chàm
thì bắn cung; chúng ta mang gùi, Tamrac, thủ lĩnh người Raglay luôn tập
họp những người kon kau phục vụ cho người Chàm. Ông bảo mỗi người nhặt
lấy một hạt cát; tất cả dồn lại đầy bảy thúng, chúng ta đông đến như
vậy đấy. Người Việt cũng làm như vậy và cũng đựng đầy bảy thúng; họ
cũng rất đông. Chúng ta xông trận, bảy ngày và bảy đêm. Người Việt bắt
được Tamrac; họ đan một chiếc rọ, bỏ ông vào đấy và ném xuống biển.
Nhưng Tamrac đã làm một hình nhân của mình, một hình nhân biết nói, và
chính là người Việt đã bắt được cái hình nhân ấy và ném xuống biển.
Tamrac vẫn tiếp tục động viên người của mình xông trận. Bất phân thắng
bại. Những người chỉ huy bàn bạc với nhau. Người Việt muốn cai trị xứ
sở này; họ sẽ cho những người Tây Nguyên phục vụ họ các thứ: quần áo,
chăn và rất nhiều thứ khiến người Tây Nguyên ham thích. Người Chàm
không muốn chỉ huy người Tây Nguyên nữa; họ nói với người Việt: "
Từ nay người Tây Nguyên sẽ phục vụ các người"...
Người Tây Nguyên chấp nhận tình thế đó, vả lại người ta để cho họ được tự do ở trong rừng núi che chở họ.
Quả
là người Chàm thua xa người Việt về số lượng và sức mạnh; song dường
như nền văn minh của họ - đã từng biết đến một thời cực thịnh mà người
Tây Nguyên có được hưởng lợi - lúc này đang suy thoái, điều đó khiến
người Tây Nguyên phải chuyển sang chịu một nền thống trị khác, từ nay
người Chàm chỉ còn là những kẻ trung gian giữa người Tây Nguyên định cư
trên núi với người Việt ở miền duyên hải.
Bấy giờ người Việt
không mạo hiểm vào các vùng nội địa không có đường sá; ngoài ra, không
có trang bị tốt hơn người Tây Nguyên, họ sợ những người "hoang dã" này.
Dù làm chủ nhưng họ không chiếm đóng vùng đất này. Vả chăng, người Tây
Nguyên phải đi xuống chỗ người Việt. Họ cần những thức ăn mà họ không
tìm thấy trong nội địa, vì nhu cầu kinh tế; việc buôn bán muối và cá
cần cho đời sống hàng ngày của họ. Những cuộc trao đổi ngày xưa với
người Chàm nay được tiếp tục với người Việt. Hàng năm người Tây Nguyên
xuống núi, trả một món thuế cho người Chàm khi đi qua và buôn bán ở
vùng ven biển, là một thứ thị trường tự do chẳng hề phương hại cho
người Tây Nguyên bấy giờ còn phồn vinh. Chính từ đó mà có thói quen gọi
các thành phố duyên hải là
dra drong (chợ lớn).
Hiện
nay, còn có những người già, rất nhiều tuổi, còn biết thời đó, trước
khi người Pháp đến; họ vẫn giữ một ký ức tốt đẹp về những chuyến đi ấy
và về mối quan hệ với người Việt ngày trước.
Người Việt đã phát triển các tổ chức cai trị do người Chàm bắt đầu. Theo đề xuất của các thủ lĩnh trong xứ, họ chỉ định người
uong phu,
là cấp trên của những người đứng đầu các tổng. Còn người Chàm, mà một
sự im lặng trùm lên vinh quang đã qua, số lượng người của họ đã giảm đi
nhiều. Ngay cả trước khi người Pháp đô hộ, người Tây Nguyên đã không
còn có quan hệ với người Chàm nữa và đã nộp thuế trực tiếp cho người
Việt. Nhiều cuộc hôn nhân gắn người Chàm với người Tây Nguyên ở phía
nam, ở đấy, theo một cách nào đó, ngày nay họ đang hồi sinh. Phương ngữ
Raglay là một thổ ngữ Chàm, phôn-clo Srê vay mượn rất nhiều của người
Chàm, được những người hát rong trữ tình ở vùng Srê cứu thoát khỏi sự
quên lãng trong các bài ca
Cô nàng hột xoài và
Vị hoàng đế biết ơn.
*
Lịch sử đương đạiNước
Pháp đã làm nên một chương mới trong lịch sử người Tây Nguyên. Mới,
bởi vì sau cuộc thống trị của những người da vàng, họ chuyển sang cuộc
thống trị của người da trắng đến lượt mình xâm nhập vào Ðông Dương;
mới, bởi vì lần này những kẻ thống trị chiếm đóng xứ sở đến tận những
vùng núi nội địa sâu nhất.
Chỉ trong vòng năm mươi năm sau cuộc
thâm nhập của người Pháp và việc tổ chức hành chính cố định ở các tỉnh,
người Tây Nguyên đã thực sự bị thực dân hóa. Trước năm 1900, cả xứ sở
này còn hoàn toàn là một vùng rừng rú không ai biết đến. Chỉ có đôi nhà
thám hiểm nhìn tận được gần những người Tây Nguyên. Ðối với họ, nước
Pháp là gì? Ðây là những điều Nouet viết năm 1884: "Họ không đóng một
thứ thuế nào hết, không có trường học, không phải đi phu; người ta để
cho họ sống, hay đúng hơn không chết đói. Một hay hai lần trong năm, họ
nhìn thấy một nhân viên thuộc địa. Có phải là một viên chức đến tìm
hỏi những nhu cầu của họ, một người thầy thuốc đến tiêm phòng cho họ,
một người đo vẽ địa hình đến lập bản đồ chăng? Không hề, đấy là một
người kiểm lâm, đối với họ là hiện thân của sức mạnh và nền thống trị
của Pháp. Ông ta đến để xem xem, kể từ lần đi tuần trước của ông đến
giờ, người ta có đốt rừng để trồng lúa không. Ðương nhiên việc ông ta
thực hiện công vụ của mình là phải lẽ, song giá ông mang đến được một
chút kiên nhẫn và khoan dung trong các lần tiếp xúc ngắn ngủi với một
chủng tộc hiền lành và khuất phục... Ðiều tôi muốn lưu ý là về Chính
phủ Pháp, những người Mọi của chúng ta chỉ tuyệt đối biết có mỗi một
điều: đó là người Pháp cấm không cho họ làm rẫy..."
Các hiệp ước
ký với Hoàng đế An Nam trao cho nước Pháp đi chinh phục quyền tổ chức
xứ sở và vùng nội địa, vùng nội địa này vẫn gắn với Triều đình. Như
vậy, chẳng phải khó khăn chút nào, người Pháp đã là chủ nhân của xứ sở
này trước khi đặt chân đến đây, chủ nhân từ xa, chẳng biết chút gì về
các thần dân của mình và chẳng làm chút gì cho họ cả.
Nhưng
trong thời gian đó, những người Tây Nguyên ở vùng Kontum đã chịu ảnh
hưởng của các giáo sĩ đã đến đây trước các đội quân rất lâu, tổ chức xứ
sở này, tìm cách Cơ-đốc hóa nó. Những giáo sĩ đầu tiên đã đến ở đây từ
năm 1850, lúc bấy giờ vùng này còn rất độc, không ai biết đến và
"hoang dã". Thiết lập các làng-bảo tồn, mở trường học, một nền kinh tế
được điều khiển: công cuộc khai hoang đã được làm trước khi nhà nước
Pháp đặt chân đến. Ít lâu sau khi các giáo sĩ đến vùng người Bana, năm
1860, cha Azémar đã đến ở vùng người Stiêng. Cuộc thám hiểm đầu tiên
của người Pháp vào vùng nội địa chỉ diễn ra hai mươi năm sau đó.
Năm
1880, bác sĩ Neiss tiến hành một cuộc khảo sát ở vùng Bà Rịa. Rồi
Gautier tiến hành nhiều cuộc thám hiểm, đi ngược sông Ðồng Nai từ Biên
Hòa, đi ngược các sông khác đưa ông đến vùng người Stiêng. Mười năm
sau, bác sĩ Yersin, từ bờ biển phía đông, đi vào toàn bộ vùng nay thuộc
phía nam đường 20. Ông đến Liang Biang và nhận ra được nơi sẽ là Ðà
Lạt sau này, rồi vùng Djiring hiện nay, đến vùng tộc người Dala, ở phía
tây. Vào đầu thế kỷ, lần đầu tiên một cuộc thám hiểm gặp phải một sự
kháng cự của người Stiêng. Nhưng nhìn chung, người Tây Nguyên tỏ ra
không có phản ứng trước bước tiến của người da trắng; từ nhiều thế kỷ,
họ đã quen phục vụ người nước ngoài, chịu khuất phục trước kẻ mạnh hơn.
Thái độ đó không phải là một sự thụ động ươn hèn mà là kết quả của một
mặc cảm thua kém do cuộc thống trị trước đó cố tình duy trì. Hoặc là
nước Pháp đến lượt mình cũng nuôi dưỡng mặc cảm đó bằng cách nô lệ hóa
người Tây Nguyên, và đấy sẽ là sự tuyệt diệt của các dân tộc này; hoặc
là nó phải xóa bỏ điều đó đi, nhất là bằng giáo dục, và khiến họ trở
thành một dân tộc xứng đáng với tên gọi đó.
Nếu cuộc thâm nhập
được tiến hành gần như không phải chiến đấu, thì không phải nó không có
tổn thất. Khí hậu độc hại đã gây ra những nạn nhân trong số những
người tiên phong. Ðôi người cai trị mà người Tây Nguyên hay nghi ngờ
không tin tưởng cũng trở thành nạn nhân. Ðến nay, cả xứ sở đã được
khuất phục, trừ đôi bộ phận không chịu nộp thuế.
Các cuộc thám
hiểm đã chuẩn bị cho việc vạch ra các con lộ: từ Biên Hòa về hướng bắc,
là đường Liên bang từ Sài Gòn lên Ðà Lạt qua Djiring, theo các con
đường ấy các nhà cai trị đi sâu và đóng lại ở các tỉnh lỵ và ở đó các
nhà quân sự tiến lên và đóng các đồn. Một hệ thống các thủ lĩnh bản địa
được thiết lập; Quân cảnh vệ bản xứ mộ các cảnh binh; đôi ba bệnh viện
và trường học được mở ra, hết sức không đầy đủ. Các cố gắng lớn nhất
được tập trung vào người Êđê, là tộc người tiến bộ nhanh hơn cả.
Cuộc
thống trị nào cũng gắn với một chế độ cống nạp. Người Tây Nguyên đã
nộp một loại thuế bằng hiện vật cho người Chàm, rồi cho người Việt; bây
giờ họ nộp cho người Pháp. Các nghị định đầu tiên quy định một chế độ
thuế phải chăng: mấy ngày làm sưu, có thể chuộc một phần, tùy theo của
cải (bao nhiêu ngày đó cho một con trâu, v.v.).
Nhưng dần dà,
người Tây Nguyên phải cung phụng nhiều hơn; thuế ngày càng nặng và nhất
là các cuộc trưng dụng càng nghiệt ngã hơn, do việc các nhà trồng trọt
bắt đầu đến hoạt động ở đây. Chính phủ tiên liệu những hiểm nguy; năm
1935, viên thống sứ Nam kỳ thông báo: "Tôi đã có những chỉ dẫn nghiêm
khắc yêu cầu chấm dứt lối mộ người này có thể lẫn lộn với một hệ thống
bắt sưu: nhân công người Mọi ở các đồn điền phải được
tự do". Nhưng người Tây Nguyên đã mất đi quyền lao động.
Một
đợt tăng đột ngột các nhà trồng trọt đã làm dấy lên những vấn đề nhân
khẩu nghiêm trọng và dẫn đến chỗ giết chết lao động gia đình truyền
thống. Chẳng phải là một người Tây Nguyên gần đây đã nói: "Chúng tôi là
những con bò" đấy sao. Ðấy là chế độ nô lệ. Người Tây Nguyên đòi phần
được đền bù của mình
Ngày nay những người dân Tây Nguyên bị các
gánh nặng đè nát. Lao động cưởng bức rứt họ ra khỏi ruộng nương, dẫn
đến nghèo khốn, đôi lúc cả đói, và dần dần suy thoái. Bác sĩ Delbove
nhấn mạnh đến bệnh sốt rét khiến họ bị chết hàng loạt - mối họa này vốn
đã có từ trước khi người ngoại quốc đến nhưng không ngăn cản một sự
phồn vinh nhất định ở vùng này. Ông cũng báo động về ảnh hưởng tai hại
do những người nơi khác đến dần dần đẩy lùi những người nguyên thủy bản
địa vào những vùng đất không thuận lợi, hoặc ngược lại vây bọc họ lại
thành một một nhúm những người rẻ mạt. Rượu, bệnh giang mai do những
người chinh phục mang đến một cách hào phóng chắc chắn góp một phần lớn
vào sự suy thoái về phẩm giá mà phần đông những người Mọi ở vùng nội
địa Ðông Dương phải chịu đựng một cách khốn khổ.
Hiện nay tình
trạng người Tây Nguyên không thể không khiến nhà cầm quyền lo ngại.
Người ta ý thức được món nợ của chúng ta đối một dân tộc mà ngay cả sự
tồn tại đang bị thách thức. Ðúng là sự phát triển về y tế sẽ là một
nhân tố tự vệ quan trọng; nhưng dường như chính giáo dục góp phần quan
trọng hơn cả làm cho các tộc người nguyên thủy này nhanh chóng được
bình đẳng với những người khác. Qua nhà trường, việc thu bớt các phương
ngữ lại chỉ còn hai hay ba cái chính sẽ đem lại một sự phong phú và
một sức mạnh mới đưa đến kết quả là sự thống nhất. Cũng giống như trong
thời kỳ tốt đẹp ngày xưa được ca ngợi trong các truyền thuyết, những
con người Tây Nguyên, thống nhất lại, sẽ hiểu nhau hơn, sẽ nối lại
những mối dây liên hệ tạo thuận lợi cho các tiếp xúc và trao đổi, sẽ có
ý thức về phẩm giá làm người của mình và về những giá trị chung mà họ
là tiêu biểu.
II. Các tộc người, các phương ngữ và diện mạo của họNúi
non ngăn cách, nếu không phải là nguồn gốc của việc chia người Tây
Nguyên thành các tộc người, thì dầu sao cũng là một nhân tố chính của sự
khác nhau giữa các tộc người này, khiến họ, từ một thời không còn ai
biết, song chắc hẳn là rất xa xưa, mỗi tộc người đều có một lối sống
riêng, một đơn vị riêng độc đáo và không hề biết đến một trung tâm bên
ngoài nó. Tình trạng cô lập không tuyệt đối; nó không loại trừ những
tiếp xúc và ảnh hưởng, nhưng nó khá đậm để khiến cho mỗi nhóm người có
một cá tính ở đó một con mắt giàu kinh nghiệm có thể nhận ra đôi tính
cách nhân chủng học (hình thù của đôi mắt, của vầng trán) và nhất là dân
tộc học (trang phục, cấu tạo của chiếc rìu, của chiếc xà-gạc, giọng
nói) chỉ rõ một cá nhân nào đó thuộc về một tộc người nào.
Vị trí
địa lý, tính chất của vùng đất, các khả năng của nó, đã làm biến đổi
một số thiên hướng nào đó của người Tây Nguyên, tạo nên lối sống của
họ, góp phần tạc thành tính khí của họ. Ðất đai điều kiện hóa các kỹ
thuật, cũng như con người chọn lấy cho mình mảnh đất thích hợp.
Cao
nguyên khiến người ta làm ruộng lúa nước, dễ làm. Rừng già đòi hỏi
phải khai phá một cách khó nhọc mới trồng trọt được. Sự có mặt của cây
lát, cây mây đưa người ta đến công việc đan đát. Những khu rừng tre
rộng lớn cung cấp vật liệu để xây dựng những ngôi nhà sàn nhẹ nhàng,
thoáng đãng. Những cây gỗ cao lớn, ngược lại, gợi cho người ta vạt đẽo,
cưa xẻ, làm những tấm ván sàn. Bao nhiêu vùng, bấy nhiêu kiểu xây
dựng, bấy nhiêu tính cách con người. Cũng như ở mọi nơi, người ta chọn
chỗ gần nước, các con suối trên núi, hay sông ở cao nguyên làm nơi dựng
làng.
Nếu trong thời cổ xưa, người Tây Nguyên giống nhau, dường
như các yếu tố địa lý mà chúng tôi vừa kể ra đã góp phần dần dần khiến
cho mỗi tộc người có một diện mạo riêng.
Hiện nay người Tây
Nguyên cư trú theo tầng trên dãy Trường Sơn, chiếm các cao nguyên, sườn
đồi, núi cao. Và cứ như thế, suốt hơn năm trăm cây số từ bắc xuống
nam. Ðất đai khác nhau tạo ra nhiều nền canh tác: cây lương thực (lúa -
lúa nước hay lúa rẫy -, ngô, mía, bí ngô, dưa chuột, khoai lang); cây
ăn quả: chuối, cam, mít; trồng bông (tộc người Mạ), cây gạo, cây thuốc
lá. Mỗi tộc người tiến hành một nền sản xuất mà đất đai của họ cho
phép, tình hình đó là nguồn gốc của sự trao đổi. Lúa không đủ để sống
và có những tộc người thậm chí sản xuất lúa không đủ ăn.
Người
Tây Nguyên nuôi lợn, dê và gia cầm, dùng để cúng tế; họ nuôi ngựa để
cưỡi, trâu để cày đối với các tộc người làm ruộng nước và tất cả các
tộc người đều dùng nó làm vật hiến tế. Các tộc người ở phía tây nuôi
voi.
Lòng đất giàu khoáng sản không được khai thác: sắt, đồng,
chì chứa bạc, ga-len. Có vàng, trữ lượng nhỏ, trong lòng cát của các
dòng sông. Người Tây Nguyên chỉ khai thác sắt, và cũng chỉ ở một số ít
nơi.
Ở thung lũng, trên cao nguyên, đồng cỏ được biến thành
ruộng nước; ở đây đời sống dễ chịu hơn, con người khá giả hơn. Trên
vùng núi, con người chinh phục rừng để làm rẫy lúa hàng năm. Vùng đất
càng có nhiều thung thì rừng rú càng phát triển mạnh: con người phải
chống chọi thường xuyên với thiên nhiên, những loại cây có sức sống dai
dẳng vừa cắt xong đã mọc lại, những dây leo lấn lướt, những loài thú
dữ hại người và hại hoa màu. Ðời sống ở đây khó nhọc hơn, nhưng đức
hạnh của con người cũng tốt đẹp hơn, phẩm giá con người cao hơn. Tuy
nhiên con người cần có một sự sung túc tối thiểu, nếu không họ sẽ có
nguy cơ bị suy thoái. Nếu đất đai quá xấu, sự nghèo khốn sẽ đến mức
ngăn cản mọi tiến hóa xã hội. Ðấy là trường hợp người Cil, lạc hậu nhất
trong các tộc người Tây Nguyên.
Ði từ phía bắc vào, trước tiên
ta gặp người Xơđăng, người Rơngao, người Bana, những tộc người ở trên
núi sống trên một vùng đất hiểm trở, phủ rừng, ít thuận lợi cho việc
trồng lúa nước, có năng suất cao hơn lúa rẫy. Ngày xưa các tộc người
này rất dễ đi đánh nhau để cướp bóc và kiếm lấy của cải để sống. Ðặc
biệt là người Xơđăng, giỏi làm ra vũ khí hơn là sản xuất trên đất đai
nghèo nàn, vào "thời trung cổ" nổi tiếng đến tận phương nam là những
chiến binh hung dữ và hiếu chiến. Ðến tận ngày nay, một người da trắng
cẩn trọng không dám phiêu lưu một mình quá sâu vào vùng đất của họ.
Hiện nay các giáo sĩ ở Kontum đã biết rõ về người Xơdăng, Rơngao, Bana
và Giarai, họ có đến hai mươi nghìn con chiên trong các tộc người này.
Người
Êđê ở Ðaklak. Ở đây, nhất là ở tỉnh lỵ Buôn Ma Thuột, ta gặp những
người Tây Nguyên tiến bộ, có học, khá giả hơn cả. Nhiều người đã rời bỏ
quê hương, trở thành giáo viên, y tá v.v. ở các tộc người khác.
Ở phía nam vùng Êđê, người Bih nói ngôn ngữ Chàm, trung gian giữa người Noang và người Êđê.
Người
Mạ làm thành một nhóm quan trọng ở về phía tây-bắc con đường đi từ Sài
Gòn lên Ðà Lạt. Ta có thể phân biệt những tiểu nhóm như người Mạ Ja ở
Liang Biang; nhưng họ là một nhóm tộc người thống nhất do có cùng một
phương ngữ chung, một cách thức giống nhau trong việc xây dựng các ngôi
nhà sàn, những trang trí giống nhau. Họ là những chuyên gia trong nghề
làm những tấm chăn bằng bông, những trang phục thêu, những vòng đeo tai
bằng ngà rất đẹp.
Người Stiêng sống ở phía tây người Mạ, ngày xưa được các nhà thám hiễm đầu tiên, và Hội truyền giáo bấy giờ đóng ở Br
ölam
nghiên cứu kỹ hơn cả. Rồi cuộc suy thoái đã ngăn cản sự phát triển của
họ. Người Stiêng là những người gần với những người Khơme láng giềng
hơn cả, về mặt địa lý và văn hóa, trong số các tộc người chúng ta
nghiên cứu; họ đã chịu một thời đô hộ của người Khơme, còn được chứng
minh trong các sản phẩm nghệ thuật của họ. Họ vẫn còn giữ nhiều mối
quan hệ với người Phnong, tức những người "Mọi" ở Cămpuchia.
Tộc
người Mạ là trung gian giữa những người Tây Nguyên Khơme hóa này và
tộc người Srê, mà họ cùng chia xẻ cao nguyên Ðồng Nai Thượng. Người Srê
ở Djiring, đúng như tên gọi của họ
[2]
, là những người làm ruộng nước ở đồng bằng; điều đó khiến họ khác với
các tộc người khác hầu như chỉ làm rẫy trên núi, và khiến họ là một
tộc người tiến bộ hơn cả, trước khi có ảnh hưởng của người Pháp đến
vùng Êđê. Xứ sở Djiring có nhiều vùng bằng phẳng mênh mông, phần lớn đã
được khai phá, ở phía nam đường 20 và dọc theo các thung lũng chạy
ngược lên giữa các dãy núi về phía đông-nam.
Ở phía đông người
Srê, người Noang và Churu, bị Chàm hóa rất mạnh, còn lưu giữ các kho
báu, các kiệt tác của nền văn minh ở nơi khác chỉ còn là một ký ức ấy.
Cũng như vậy, người Raglay, ở phía nam, còn giữ các kho báu Chàm và có
họ hàng gần gũi với người Noang, vùng đất này thuận lợi cho các mối
tiếp xúc vì địa hình ít hiểm trở hơn.
Giữa người Noang và người
Raglay, không có đỉnh núi cao nào ngăn cách, trong khi một dãy núi cao
gần 2000 mét chia cách họ với người các tộc người phía tây.
Trên
những sườn núi đó, dù sườn núi dốc đến đâu, đất đai cằn cỗi và rừng
rậm đến đâu, vẫn là nơi bám ở của người Cil, một tộc người khốn khổ rất
lạc hậu, chỉ sống bằng một ít gạo và ngô. Về mọi phương diện, đây là
những người Tây Nguyên cuối hạng. Họ sống cực kỳ phân tán, khiến không
thể tiếp xúc được với họ một cách có hiệu quả để nâng cao mức sống của
họ.
Ðể cho đầy đủ, còn có một chùm các tộc người nhỏ phải nói đến: người Noup, người K
öyon,
người Dala, v.v. Tính cách của họ là kết quả ảnh hưởng của các tộc
người láng giềng: Mạ, Srê, Raglay; cho nên chúng tôi không nghiên cứu về
họ.
Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 2003
[1]
"Ngày xưa người Mọi chỉ gồm có một tộc người sống ở ven biển Ðông,
phía mặt trời mọc" Truyền thuyết Stiêng do Gilbert và Malleret kể lại
trong Tập san SEI, quý 2, năm 1946.
[2] Srê: Ruộng.
Nguyên Ngọc dịch
*****