Tim thông tin blog này:

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tây Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tây Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung (III)

Vnthuquan:
Nguyễn Văn Huy

BÀI III

Sự hội nhập khó khăn của người Thượng vào cộng đồng quốc gia Việt Nam

Hiệp định Genève 1954 mở đầu một giai đoạn hợp tác mới giữa người Thượng và người Kinh trên cao nguyên. Nhưng sự hợp tác này đã diễn ra không tốt đẹp như mong muốn, người Kinh chưa quen sinh hoạt bình đăng với người Thượng và ngược lại. Bất hạnh lớn của người Thượng trong giai đoạn 1954-1975 là nơi sinh trú của họ có một tầm quan trọng chiến lược trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, bất cứ phe tranh chấp nào cũng đều muốn làm chủ địa bàn chiến lược này và lôi kéo cộng đồng người Thượng theo họ chống lại phe kia. Tùy theo những lượng định thời cuộc khác nhau, cộng đồng người Thượng đã có những phản ứng khác nhau để rồi dẫn đến cùng một hậu quả: người Thượng không có tiếng nói trên chính quê hương của họ.

Tây Nguyên những ngày đầu dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa

Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung (IV)

Vnthuquan:

Nguyễn Văn Huy
BÀI IV

Người Thượng vẫn trên đường tìm chỗ đứng Năm 1969, những đòi hỏi chính đáng của nhóm FULRO Thượng ôn hòa đều được thỏa mãn, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền Nam. Giai đoạn từ giữa tháng 10-1969 đến đầu tháng 3-1975 có lẽ là thời kỳ vàng son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian đã quá ngắn ngủi để những dự án hội nhập người Thượng vào cộng đồng Việt Nam trở thành hiện thực. Hơn hai trăm ngàn trên tổng số một triệu người Thượng đã chết trong cuộc chiến. Sau ngày 30-4-1975, dưới chế độ cộng sản, phong trào FULRO, được dịp hồi sinh, đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá chống lại chính quyền cộng sản và bị trấn áp trong bạo lực. Cho đến nay người Thượng vẫn còn trên đường đi tìm chỗ đứng.

Chính sách Thượng vụ thời Ðệ nhị Cộng Hòa
Tại miền Nam, sau 1969, nhiều định chế chính trị và xã hội đã được thành lập để hội nhập người Thượng vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dưới áp lực của Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17-10-1964 và từ 25 đến 26-6-1967. Một số đòi hỏi của nhóm FULRO Thượng - trừ các quyền có lãnh thổ và quân đội riêng, quyền tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế - cũng được thỏa mãn. Những cựu thành viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Kampuchea về lại Việt Nam sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại địa phương nơi cư ngụ.
Ðể tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong Trào Ðoàn Kết Các Sắc Tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alêa. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22-4-1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhadé, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhắt Niê Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Dúk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuốt Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buăn). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nưr (người Bahnar), Y Chôn Mlô Duôn Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Ðắt Lắc, các ông Y Chôn Mlô Duôn Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Djarai) làm phó chủ tịch. Phong Trào Ðoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội Ðồng Sắc Tộc.
Hội Ðồng Sắc Tộc, được thành lập bởi sắc luật 014/69 ngày 14-10-1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến Pháp 1967, gồm 48 hội viên chính thức và 12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên chính thức và 4 dự khuyết do tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32 hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết sẽ được bầu tại các địa phương. Sắc lệnh 610 (28-10-1969) qui định số hội viên cho từng sắc tộc tùy theo dân số; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là người Kinh với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội Ðồng Sắc Tộc là Văn Phòng Thường Trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (người Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký, tất cả là người sắc tộc. Hội Ðồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên cứu từng vấn đề liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội Ðồng, trên nguyên tắc, là đưa ra những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến quốc hội điều trần và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong thực tế, Hội Ðồng này không có ảnh hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ thuần túy là một cơ quan tư vấn.
Cơ quan thực sự có quyền hành là Bộ Phát Triển Sắc Tộc được thành lập ngày 9-11-1967 nhưng chức vụ tổng trưởng chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày 22-12-1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST. ông Paul Nưr (người Bahnar) được cử làm tổng trưởng, các ông Ðoàn Chí Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người Chăm) làm tổng giám đốc và ông Y Chôn Mlô Duôn Du (người Rhadé) làm tổng thư ký. Bộ Phát Triển Sắc Tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25 ty và 65 chi nhánh.
Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người Thượng vào sinh hoạt chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực.
- Về chính trị, 90% các chức vụ quan trọng liên quan đến vấn đề sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn lại do các sắc tộc khác. Các sắc tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1 đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư ký, 1 tổng giám đốc công tác, 1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1 thanh tra trưởng, 4 thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh trưởng, 8 quận trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24 phó trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm tỉnh và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10 thanh tra học vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn định số ghế dành cho người Thượng trong quốc hội là 6 ghế và thượng viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về người Thượng, đa số là người Djarai và Rhadé.
- Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và 2.004 ấp có người sắc tộc cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng trực tiếp quản trị.
- Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học sinh theo học các trường trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao đăng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều cán bộ tại chức và sinh viên Thượng được cử ra nước ngoài tu nghiệp. Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn tại Pleiku, thành lập năm 1965, đào tạo hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng 10-1970 đổi thành Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Thượng (tương đương với Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đạo tạo khoảng 270 cán bộ hành chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Từ 1970 đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa tham sự hành chánh tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn.
- Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng đứng dưới cờ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan được điều chỉnh cấp bực ngày 1-2-1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.
- Về xã hội, quân đội và các hội thiện nguyện Hoa Kỳ (CORDS, USAID, USOM, World Relief...) đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và tiện nghi vật chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của người Thượng. Không một làng xã nào (đã bình định xong) không có điện nước và hệ thống đường sá đi tới. Tại mỗi trung tâm định cư, người Mỹ đã giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh mới. Sách giáo khoa bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa Kỳ sáng tạo trừ tiếng Bahnar và Rhadé đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu học. Các giáo hội Thiên Chúa Giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá; tại Pleiku và Kontum, các giáo sĩ Công Giáo mở các lớp học và trại cứu tế giúp dân Thượng. Các tòa án phong tục cũng được thành lập khắp nơi để phân xử những tranh chấp của từng sắc tộc.
Nói chung, giới trẻ Thượng thừa hưởng trực tiếp những cải tổ nhằm nâng cao mức sống vật chất và văn hóa. Tuy vậy, phần lớn thanh niên Thượng, quen với tiện nghi vật chất thành thị, xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture); xấu miệng hơn, người ta còn nói hiện tượng Việt hóa (?) của người Thượng.
Cũng nên biết là, do yêu cầu của chiến tranh, nhiều buôn làng Thượng buộc phải dời ra khỏi những khu oanh kích tự do (free fire zone) để định cư trong ấp chiến lược dọc các trục lộ giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị lớn, nếp sống và lối canh tác cổ truyền đã phần nào bị xao lãng. Phe cộng sản, mất địa bàn hoạt động, xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn là nơi diễn ra những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu tấn bom đạn đã dội xuống vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A Lưới, Chu Prong, Dakto, Plei Me, Toumơrong, Buôn Hô... là những sử tích trong chiến tranh Việt Nam.

Chống đối vẫn tiếp tục
Tại Việt Nam, chính quyền đồng nghĩa với quyền lực và quyền lợi, tranh chấp địa vị thường xuyên xảy ra mỗi khi phân bổ chức vụ. Những lãnh tụ Thượng trong chính quyền, vì chưa quen với sinh hoạt chung với nhau, đều giành tối đa quyền lợi về cho sắc tộc mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề cử người vào Hội Ðồng Sắc Tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai được chỉ định và ai phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu?) và làm cản trở sự điều hành của định chế. Vai trò của Bộ Phát Triển Sắc Tộc rất là quan trọng, ngân sách của bộ lớn hơn Bộ Chiêu Hồi và Bộ Lao Ðộng, tranh nhau nắm bộ này là ưu tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Djarai và Rhadé. Nhưng chính quyền Sài Gòn chỉ thường ưu đãi những người phục tùng chế độ, ngày 17-6-1971, Nay Luett, một lãnh tụ Djarai, thay Paul Nưr trong chức vụ tổng trưởng cho tới tháng 4-1975, cán bộ Rhadé đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu do đó rất bất mãn. Thêm vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh trong bộ càng làm những lãnh tụ Thượng tức tối, vì cho rằng chính quyền muốn kiểm soát hoạt động của bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.
Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, FULRO là phong trào của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng đều dồn cho người Thượng, do đó, trong Phong Trào Ðoàn Kết, đại diện các sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ, trừ người Chăm và người Khmer (vì sinh sống ở đồng bằng nên không được công nhận là những sắc tộc quốc gia). Riêng những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có quan hệ với chính quyền Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng đầu. Trong một cuộc bỏ phiếu tại quốc hội ngày 7-10-1969, 98 dân biểu ủng hộ thành lập một qui chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện Khiêm phủ quyết vì quyền lợi và an ninh quốc gia. Sự kiện này càng làm cho nhóm Khmer Chăm và Khmer Krom tại Kampuchea thêm bất mãn.

Phong trào FULRO hải ngoại:
Ðể làm áp lực với nhóm FULRO Thượng về qui chánh tại Việt Nam, cuối tháng 10-1969, Lès Kossem thành lập ủy Ban Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương, bên cạnh ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao do ông lãnh đạo và cử hai người Chăm, Hoàng Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên tổ chức. Nhưng đến cuối năm 1970 Lès Kossem giải tán ủy Ban Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương vì bất lực và thành lập ủy Ban Lãnh Ðạo FULRO do Y Bun Sor vừa từ Pháp trở về lên làm chủ tịch.
Ngày 18-3-1970, Lès Kossem giúp tướng Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray, do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Lès Kossem được Lon Nol giao toàn quyền tổ chức đội quân thiểu số tại Kampuchea gồm 7 tiểu đoàn sắc tộc thiểu số người Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long) và Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom lại thành hai lữ đoàn: Lữ Ðoàn 5 Bộ Binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek Ibrahim chỉ huy và Lữ Ðoàn 40 Biệt Kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan Kpor chỉ huy.
Lès Kossem cử người lên Mondolkiri kêu gọi lực lượng FULRO Thượng về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc Champa và thành lập Cộng Hòa Tây Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp tác với Lès Kossem và được bổ sung vào Lữ Ðoàn 40; số còn lại hợp tác với quân Khmer Ðỏ, được phe cộng sản Việt Nam trang bị và tiếp tế, chống lại Phnom Penh. Thủ lãnh FULRO Thượng Y Bham ênuôlvẫn bị giam lỏng tại Phnom Penh
Việc làm đầu tiên của Lès Kossem trong chức vụ mới là xúi giục các nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công các làng xã và ghe thuyền của người Việt quanh Phnom Penh và dọc lưu vực sông Mékong, làm dấy lên một phòng bài Việt trên khắp lãnh thổ Kampuchea tháng 4-1970. Sự sát hại người Việt một cách quá đáng buộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Kampuchea bảo vệ đồng thời phá luôn các căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt là tại khu Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài Gòn và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Kampuchea cũng chấm dứt.
Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer Ðỏ, cuối năm 1971 Lon Nol phong Lès Kossem hàm thiếu tướng và cử làm tổng trấn Phnom Penh; hai lữ đoàn sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ lực đánh lại Việt Nam, Lès Kossem thành lập Phái Ðoàn Vận Ðộng FULRO Hải Ngoại vận động các quốc gia dầu lửa hồi giáo ả Rập và Ðông Nam á ủng hộ phong trào FULRO của ông. Mở đầu cuộc vận động, Lès Kossem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai, Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin giúp đỡ tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Lès Kossem tập trung 15 lãnh tụ Chăm chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao: nhóm đi các nước ả Rập, do Primé đại diện, nhóm đi Ðông Nam á do El Ibrahim cầm đầu và nhóm đi êu Châu do chính Lès Kossem hướng dẫn.
Uy tín của Lès Kossem ngày càng lên cao, ngày 26-10-1972 ông được Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước Ðông Nam á giải thích lập trường của chính phủ Kampuchea. Nhân dịp này, ông vận động với các quốc gia hồi giáo Ðông Nam á giúp người Chăm phục hồi vương quốc Champa. Nhiều buổi hội thảo về nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc gia trong vùng được tổ chức tại các thủ đô Ðông Nam á và Châu êu, từ 1972 đến 1975, nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Lès Kossem đã không được toại nguyện, Khmer Ðỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc (Strung Treng, Kratié, Rattanakiri và Mondolkiri) và tiến dần về thủ đô Phnom Penh. Lon Nol gọi Lès Kossem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc đã chống trả dữ dội các cuộc tiến công của quân Khmer Ðỏ, cuối cùng thủ đô Phnom Penh cũng bị thất thủ. Ngày 15-4-1975, Les Kossem cùng gia đình và một số thân tín sang Pháp tị nạn.

Phong trào FULRO Dega:
Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước vào giai đoạn thương nghị, người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh, các phe thù địch chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.
Ðối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là những lãnh tụ Rhadé, Phong Trào Ðoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không thực sự tranh đấu cho quyền tự trị của người Thượng trên cao nguyên. Ðầu năm 1972, những người này thành lập Ban Bảo Vệ Dân Tộc, chống lại chính sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1972, Ban Bảo Vệ đổi tên thành Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Người Thượng (Front de Libération des Hauts Plateaux Montagnards-FLHPM), còn gọi là FULRO Dega - do Y Bham nuôl (vắng mặt) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch - tranh đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng. Dega theo tiếng Rhadé là những đứa con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa là một đầu voi trong vòng tròn màu vàng. Tổ chức này độc lập với phong trào FULRO ở Kampuchea.
FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là Cộng Hòa Dega và thành lập một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y Bliêng Hmok, Y Chôn Mlô Duôn Du, Kpa Koi, Y Bách êban, Y Prêh, Y Nguê, v.v... đảm nhiệm. Cộng Hòa Dega được chia thành năm quân khu: quân khu I gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh; quân khu II: cao nguyên Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên; quân khu III: cao nguyên Ðắt Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Ðức cũ); quân khu IV: cao nguyên Lang Biang (Tuyên Ðức cũ), Brah Yang (Lâm Ðồng cũ) và Gung Car (Ðồng Xoài cũ); và quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm FULRO Champa được giao cai quản quân khu V.
Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế hoạch thành lập nhiều lực lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van khuyến khích, để tranh quyền với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhất là với Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị do Y Bih Aleo lãnh đạo, trong chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt Nam, theo tinh thần Hiệp Ðịnh Paris 1973.
Ðể gây thế lực, phong trào Dega bí mật kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Ðầu năm 1975, lực lượng quân sự FULRO Dega có trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn cứ quân sự được thiết lập dọc biên giới Ðắt Lắc, Quảng Ðức và Mondolkiri.
Tháng 3-1975, quân cộng sản gia tăng áp lực trên cao nguyên. Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột ngày 19-3-1975, đại tá Y Blok êban (một lãnh tụ trong Mặt Trận Tự Trị Tây Nguyên) được phong làm chủ tịch ủy Ban Quân Quản và kêu gọi dân Thượng hợp tác.
Những lãnh tụ Thượng tại Sài Gòn, mất liên lạc với các tỉnh cao nguyên, loan báo nhiều tin khó kiểm chứng. ông Nay Luett, bộ trưởng Bộ Phát Triển Sắc Tộc, tố cáo FULRO Dega hợp tác với cộng sản đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Trong thực tế, quân Dega chỉ lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên sau khi quân đội miền Nam rút lui để chiếm một số quận huyện dọc biên giới.
Hay tin Buôn Ma Thuột thất thủ, Nay Luett thành lập Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc Cao Nguyên nhằm tập hợp tất cả lực lượng Thượng không cộng sản còn lại, kể cả những cựu thành viên FULRO Thượng, tái chiếm Tây Nguyên. Nhưng thời gian đã quá cấp bách để có một hành động cụ thể, những người lãnh đạo Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc cũng chạy theo đoàn người vĩ đại di tản sang Hoa Kỳ, số còn lại trở về cao nguyên sống lẫn trong dân.
Tại Sài Gòn, chiều ngày 30-4-1975 ông Y Chôn Mlô Duôn Du, tổng thư ký Bộ Phát Triển Sắc Tộc, đứng đầu ủy Ban Cách Mạng Dân Tộc Thiểu Số do ông thành lập để bàn giao Bộ Phát Triển Sắc Tộc cho đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi trở về Ðắt Lắc. Thời kỳ vàng son của người Thượng trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam chấm dứt.

Phong trào cộng sản và người Thượng
Từ sau 1938, cán bộ Việt Minh thành lập nhiều mật khu trên các vùng rừng núi phía Ðông dãy Trường Sơn, cạnh các buôn làng Thượng, để chống Pháp. Sự kề cận này buộc những cán bộ Việt Minh phải giao tiếp với cộng đồng người Thượng để được tiếp tế và, qua đó, hiểu biết phong tục, tập quán của người Thượng. Tại Bình Ðịnh, cán bộ Việt Minh còn giả làm người Thượng để che mắt quân đội Pháp trong các cuộc bố ráp. Sau 1945, cán bộ Việt Minh chính thức xuất hiện trên cao nguyên và hoạt động ngay trong các thành phố lớn. Với khẩu hiệu dân tộc Tây Nguyên tự trị, phong trào Việt Minh đã thu phục toàn bộ thành phần ưu tú người Thượng do Pháp đào tạo. Hàng ngàn cán bộ và binh sĩ Thượng gia nhập phong trào Việt Minh và được giao những chức vụ quan trọng tại các địa phương như các ông Nay Phin (đại biểu Cheo Reo), Y Wang (đại biểu Ðắt Lắc), Nay Der (đại biểu Kontum, Pleiku kiêm chủ tịch ủy Ban Sắc Tộc), Y Klam (trưởng Ðoàn Thanh Niên Sắc Tộc) và các ông Y Ngô Buôn Ya, Y Thang Niê Kdam, Y John Niê Kdam là những sĩ quan cao cấp... Tiểu đoàn Cứu Quốc Quân Ðắt Lắc, do ông Y Bih Alêo chỉ huy, đã tham gia nhiều trận đánh lớn trên cao nguyên.
Sau 1954, khoảng 120.000 cán bộ Việt Minh từ miền Nam ra Bắc tập kết, trong đó có khoảng 6.000 người sắc tộc, đa số là người Rhadé và Djarai. Thanh niên Thượng tập kết được Chu Văn Tấn, chủ tịch ủy Ban Dân Tộc, cho đi học tại Trường Các Dân Tộc Thiểu Số Phía Nam tại Gia Lâm. Chương trình học tập văn hóa bằng tiếng Việt, trình độ tiểu học, gồm các bộ môn lịch sử và văn hóa Việt Nam. Các học viên Thượng còn được hướng dẫn sử dụng bản đồ, địa bàn và học tập chính trị (chủ nghĩa Mác Lênin và các khẩu hiệu chống Ngô Ðình Diệm). Cuối năm 1959, hơn 4.000 thanh niên Thượng đã tốt nghiệp từ trường này, mỗi khóa 400 người. Trong thời gian học tập, các học sinh được nuôi ăn ở và đưa đi thăm các danh lam thắng cảnh của miền Bắc. Thỉnh thoảng các lãnh tụ đảng cộng sản đến ủy lạo tinh thần học sinh Thượng.
Từ tháng 3-1955 trở đi, những học sinh Thượng ưu tú được gởi vào Trường Sư Phạm Trung ương để trở thành giáo viên và cán bộ sắc tộc. Thời gian học tập gồm 9 tháng, mỗi khóa đào tạo khoảng 410 cán bộ, trong đó có 120 người Thượng. Nhiều cán bộ Rhadé, Djarai và Sedang ưu tú, sau khi tốt nghiệp được đưa sang Liên Xô và Trung Quốc tu nghiệp trong những trường sắc tộc. ông Y Ngôn Niê Kdam, đại biểu quốc hội năm 1956, được đưa sang Liên Xô học tập chính trị và quân sự.
Trong thời gian này, Hà Nội chuẩn bị kế hoạch đưa cán bộ vào miền Nam vận động tổng tuyển cử, dự trù vào tháng 7-1956 theo qui định của hiệp định Genève. Các đoàn thám hiểm đầu tiên được cán bộ Thượng tập kết hướng dẫn, đi từ Nam Lào vào Tây Nguyên, rồi từ Tây Nguyên xuống Sông Bé tiến vào Tây Ninh. Cuộc tổng tuyển cử đã không xảy ra, tất cả ở lại nằm vùng trong các thôn xóm và vận động dân chúng chống lại chính quyền miền Nam.
Năm 1958, lợi dụng tình trạng xáo trộn trên cao nguyên, cán bộ cộng sản vào các làng Thượng tuyển mộ và đưa từng đợt 50 thanh niên ra Bắc học tập, sau đó đưa về Tây Nguyên hoạt động.
Ðể đối trọng với phong trào Bajaraka của Y Bham nuôl, tháng 10-1960 Hà Nội thành lập Phong Trào Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên, gọi tắt là Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên, do các ông Y Bih Aleo, Y Thang Niê Kdam, Y Ngôn Niê Kdam cầm đầu tại Kon Hanung. Phong trào này là một bộ phận của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (thành lập tháng 12-1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn (đường mòn hồ Chí Minh) vận chuyển người và vũ khí vào Nam.
Người Hré, Ktu, Bru Vân Kiều và Tà Ôi trên cao nguyên miền Trung được giúp đỡ tận tình vì nơi sinh trú của họ nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, giữa Khe Sanh và Nam Lào. Người Stiêng và Mnong trên cao nguyên miền Nam càng được chiếu cố vì địa bàn sinh sống của họ (phía Tây Bắc Sài Gòn) là nơi đặt bản doanh của cục R, cơ quan đầu não của phe cộng sản ở miền Nam. Sóc Bombo của người Stiêng đã một thời được thổi phồng như một thành trì chống Mỹ. Khu vực Tam Biên (nơi giáp ranh cũ giữa Kampuchea, miền Nam và miền Trung) gần như là vùng giải phóng. Qui chế tự trị được áp dụng ngay tại Dak Goklam, Ban Tăng, Ban Het, Dak Sút, Sa Thầy, Plei Ya... 40% thanh niên trong mỗi làng được huy động xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh.
Mặc dù được phong nhiều chức vụ danh dự trong các tổ chức vệ tinh của đảng cộng sản và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, như phó chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (ông Y Bih Alêo), chủ tịch các ủy ban sắc tộc, sĩ quan quân đội..., vai trò của những lãnh tụ Thượng rất là lu mờ. Họ không được tham gia vào bất cứ quyết định quan trọng nào liên quan tới cuộc chiến. Ban lãnh đạo cộng sản rất sợ người Thượng kết hợp lại với nhau nên đã bằng mọi cách ly gián hay gây chia rẽ các nhóm Thượng với nhau. Mọi liên lạc với các tổ chức Thượng khác, kể cả những tổ chức chống lại chính quyền miền Nam, đều bị ngăn chặn.

FULRO Dega và chính quyền cộng sản
Lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên giữa tháng 3-1975, dân chúng Chăm và Thượng thu nhặt vũ khí, quân trang và quân dụng, do quân lực Việt Nam Cộng Hòa vứt bỏ trong các cơ quan và dọc các quốc lộ 1, 14, 19, nộp cho lực lượng FULRO Dega. Với số lượng vũ khí và lương thực khô thu nhặt được, bộ tham mưu FULRO Dega, cảm thấy đủ khả năng đối đầu với quân đội cộng sản, ra lệnh cho các đơn vị FULRO chiếm nhiều đồn bót dọc vùng biên giới, một số buôn làng tại Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Quảng Ðức, Lâm Ðồng và Ninh Thuận. Lực lượng FULRO Dega và FULRO Champa lúc đó có trên 12.000 tay súng và hơn 8.000 du kích.
Tại Phan Rang, giữa tháng 4-1975, Huỳnh Ngọc Sắng (về lại Việt Nam từ đầu năm 1973) cùng Vạn Thanh Bình và Kiều Ngọc Quyên chỉ huy FULRO Champa quân khu V. Lực lượng Chăm, gồm 2.000 tay súng, thành lập những đội du kích bảo vệ thôn ấp. Cờ FULRO được treo khắp nơi. Khi bộ đội cộng sản tiến vào, du kích Chăm nổ súng chống lại, nhưng sau vài cuộc chạm súng các đội võ trang Chăm bị đánh bại dễ dàng, nhiều người bị thiệt mạng, một số bị bắt và một số khác trốn lên cao nguyên Di Linh hợp cùng các nhóm Dega tổ chức kháng chiến.
FULRO quân khu I chặn đánh các đường tiếp tế từ đồng bằng lên Kontum. FULRO quân khu II tấn công các buôn làng quanh Pleiku và Cheo Reo, sát hại nhiều cán bộ cộng sản. FULRO quân khu III chiếm các quận Lạc Thiện, Buôn Hô, Krong Pách... giết và làm bị thương hàng chục cán bộ và bộ đội, phục kích các đoàn xe quân sự và hành khách trên các quốc lộ 14 và 19. FULRO quân khu IV đánh phá các quận Ðơn Dương, Ðức Trọng, Lạc Dương, Di Linh, chặn xét xe đò trên các quốc lộ 15, 20 và 21. FULRO quân khu V, lôi kéo hàng ngàn thanh niên Chăm và Roglai vào bưng.
Tháng 6-1975, chính quyền cộng sản tung chiến dịch truy quét FULRO trên khắp Tây Nguyên. Nhiều cuộc hành quân qui mô, có chiến xa và trọng pháo yểm trợ, đánh thăng vào những sào huyệt của FULRO tại Ðắt Lắc, Lâm Ðồng và Tuyên Ðức. Những quận huyện và buôn làng bị chiếm đều lấy lại được, nhiều cán bộ FULRO Dega cao cấp lần lượt bị bộ đội cộng sản Việt Nam bắt (Y Chôn Mlô Duôn Du, Y Bliêng Hmok, Y Nguê, Y Djao Niê, Nay Guh, Nay Fun, Nay Rong) và bị giam trong các trại cải tạo tại Buôn Ma Thuột và Lâm Ðồng.
Hơn 2.000 quân FULRO Dega chạy sang Kampuchea lánh nạn và được Khmer Ðỏ tiếp nhận. Lực lượng này do đại tá Y Peng Ayun chỉ huy với ban tham mưu gồm nhiều sĩ quan cao cấp như trung tá Y Hinnie, Y Bhong Rcam, Y Yỗn, Kpa Koi, Htlon..., trong đó có cả mục sư Budar Su Kbông. Binh sĩ Dega được giúp đỡ và trang bị thêm để tiến qua Việt Nam đánh chiếm các làng ven biên tại Lâm Ðồng, Sông Bé và Ðắt Lắc. Những trận đánh tại vùng biên giới và dọc các quốc lộ trong những năm 1975 và 1976 rất là dữ dội.
Tại Ðắt Lắc, cuối tháng 5-1976, một số lãnh tụ Thượng bị giam (Y Djao Niê, Nay Ful, Nay Rong, Nay Guh cùng nhiều người khác) vượt ngục và ám sát ban lãnh đạo FULRO Dega cũ gồm các ông Kpa Koi, Htlon, Y Bách êban, Y Dhê Buôn Dap, Hmang Mbon... để giành quyền lãnh đạo. Tháng 7-1977, nhóm này thành lập một chính phủ mới, bộ chỉ huy đặt tại Lạc Dương, phía Bắc Ðà Lạt. Y Djao (bí danh thiếu tướng Dampa Kwei) tự phong thủ tướng và cử Ya Duk (người Koho) làm đổng lý văn phòng, Nay Guh bộ trưởng quốc phòng, Nay Rong (trung tá) bộ trưởng ngoại giao, Nay Ful bộ trưởng nội vụ (cả ba là người Djarai)... Tổ chức quân sự vẫn giữ y như cũ gồm năm quân khu, nhưng chỉ quân khu IV, do Paul Yưh (người Bahnar) làm tư lệnh, thực sự còn hoạt động. Vụ đảo chánh này làm nhiều cán bộ FULRO nản chí, một số buông súng ra đầu hàng, một số khác bỏ về làng làm nương rẫy.
Y Djao Niê cùng Huỳnh Ngọc Sắng lập nhiều chiến khu từ Ðơn Dương (Drang), Tùng Nghĩa (Laba) đến Sông Pha (Krong Pha) và phối hợp với thiếu tá Phong (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 302 Tuyên Ðức cũ) tấn công các đồn bót và sự di chuyển của bộ đội cộng sản trên cao nguyên Lâm Ðồng. Từ 1977 đến 1978, lực lượng du kích này - do Krajang Hput, người Koho, chỉ huy - đã tổ chức nhiều cuộc đột kích, đốt phá nhiều trụ sở ủy ban nhân dân xã, huyện bắn pháo vào các đồn bót, phục kích và bắt giữ những đoànđịa chất và lâm nghiệp, khủng bố những người làm nghề khai thác cây rừng, chận xét xeđò, bắt cóc và ám sát cán bộ thu mua lương thực trong các xã ấp quanh thị xã Ðà Lạt, các quận Ðơn Dương và Lạc Dương.
Nhưng tranh chấp quyền lực giữa các lãnh tụ FULRO với nhau làm tổ chức Dega yếu hăn đi. Y Djao Niê bị giết ngày 12-10-1978 tại Ðức Trọng, Y Ghok Niê Krieng lên làm thủ tướng ngày 22-1-1979, Ya Duk làm phó thủ tướng thứ nhất đặc trách nội trị và ngoại giao kiêm phó chủ tịch thứ nhất FULRO Dega, Paul Yưh là phó thủ tướng thứ hai đặc trách an ninh và quốc phòng; ban lãnh đạo phong trào đặt tại Ðầm Ròn (Lâm Ðồng).
Tổng kết từ 1975 đến 1979, khoảng 8.000 binh sĩ Dega bị loại khỏi vòng chiến, phần lớn bị chết dưới những trận tập kích của pháo binh và thiết giáp, số còn lại chết vì thiếu thuốc men và bệnh tật. Nhiều người chịu không nổi cảnh thiếu thốn trong rừng sâu đã ra đầu thú và đi ở tù. Sau 1980, phong trào kháng chiến Thượng, thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, yếu dần theo thời gian, những ổ kháng cự cuối cùng lần lượt bị tháo gỡ và đến cuối năm 1982 thì phong trào FULRO trên Tây Nguyên gần như tan rã, một số bị bắt, số còn lại ra đầu hàng.
Tại Kampuchea, hơn một ngàn người Thượng đã chạy qua Thái Lan tị nạn khi bộ đội cộng sản Việt Nam tiến vào Mondolkiri cuối năm 1979, hơn 200 binh sĩ Dega sau đó được sang Hoa Kỳ tị nạn và 800 người Stiêng được Pháp nhận vào Guyane (Trung Mỹ) năm 1986. Lực lượng Dega còn lại phân tán thành nhiều toán nhỏ sống lẫn vào dân chúng trong các buôn làng xa xôi.
Năm 1980, khoảng 1.500 FULRO Dega về lại Việt Nam hoạt động. Các toán du kích Thượng đột nhập vào các tỉnh Pleiku, Kontum, Ðà Lạt và Ðắt Lắc khủng bố, ám sát cán bộ xã ấp rồi rút về Kampuchea. Năm 1981, quân FULRO đặt mìn phá trạm biến điện tại Gia Lai Kontum, phục kích những toán công an tại Lâm Ðồng, chặn xét xe đò, kêu gọi dân Thượng chống lại Việt Nam và bắt theo nhiều thanh niên Thượng từ 15 tuổi trở lên vào bưng kháng chiến. Sự phản công của bộ đội cộng sản Việt Nam cũng rất dữ dội: năm 1984 có 358 FULRO Dega bị giết, 1.734 bị bắt, 600 vũ khí bị tịch thu. Từ 1985 đến 1990, bộ đội cộng sản Việt Nam tổ chức 63 cuộc hành quân trên Tây Nguyên, hạ sát 102 quân FULRO, bắt sống 167 người khác và vô hiệu hóa hơn 10.000 dân Thượng trong những buôn làng xa xôi, tất cả được dời về gần nơi thị tứ hay cạnh các trục lộ giao thông để dễ canh chừng. Thiệt hại về phía bộ đội và cán bộ cộng sản Việt Nam cũng rất cao, con số không được tiết lộ nhưng chắc cũng bằng hoặc hơn nhóm Dega Thượng vì không quen đường đi nước bước trong rừng và thường bị phục kích bất ngờ bởi những cựu biệt kích Thượng.
Chính quyền Khmer thân Việt Nam, trong những năm 1981-1983, cũng tổ chức nhiều cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt của lực lượng Khmer Ðỏ và FULRO Dega tại Mondolkiri nhưng bị thiệt hại nặng phải lùi về đồng bằng. Phải chờ đến năm 1986, với sự trợ lực của bộ đội Việt Nam, đại bản doanh FULRO Thượng tại Mondolkiri mới bị phá hủy, tàn quân FULRO tản mác khắp nơi. Tháng 9-1991, lực lượng UNTAC (United Nations Transitional Authority in Cambodia) của Liên Hiệp Quốc bắt gặp hơn 400 FULRO Thượng với 175 súng cá nhân sống lây lất trong rừng, tất cả được đưa sang Hoa Kỳ tị nạn năm 1992. Tháng 5-1998, một nhóm sáu người (gồm ba đàn ông, một đàn và hai trẻ em, trang bị bằng cung nỏ) thuộc lực lượng FULRO cuối cùng còn llẩn trốnbị bắt tại ÐÐắtLắc, phong trào FULRO tại Việt Nam và Kampuchea coi như chấm dứt.
Tuy vậy, tại hải ngoại, phong trào FULRO vẫn còn hoạt động. Y Bhan Kpor, thoát sang Thái Lan và được tị nạn tại Hoa Kỳ, tiếp tục lãnh đạo phong trào Dega tại hải ngoại. Y Jut Buôn Tô, cựu đốc sự hành chánh, và Kok Ksor là những người đại diện phong trào trong việc ký kết hay hợp tác với các tổ chức khác. Hiện nay có trên ba ngàn người Thượng tại Hoa Kỳ, đa số sinh sống tại hai tiểu bang North và South Carolina trong bốn thành phố: Raleigh, Greenboro, Charlotte và Spartanburg.

Người Thượng dưới chế độ cộng sản
Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên của Y Bih Alêo chết theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam năm 1976, những hứa hẹn trong thời chiến tranh về quyền tự trị của người Thượng không còn được nhắc đến, thay vào đó là chính sách dân tộc . dân tộc ở đây phải hiểu là sắc tộc thiểu số và chính sách dân tộc là chính sách phòng vệ biên giới, thuộc lãnh vực quốc phòng, chứ không phải để nâng cao đời sống người thiểu số.
Việt Nam có trên ba ngàn cây số biên giới đường bộ, một khu vực đang còn tranh chấp với các lân bang và là nơi sinh trú của các sắc tộc thiểu số. Ðịa bàn cư trú của người Thượng trên Tây Nguyên có một vị thế chiến lược quan trọng, đó là yết hầu của ba nước Ðông Dương: làm chủ Tây Nguyên là làm chủ Việt Nam, Lào và Kampuchea. Tây Nguyên chính vì vậy là một khu quân sự, do đảng cộng sản trực tiếp quản lý qua trung gian các chính quyền địa phương, mặt trận tổ quốc, quân đội và công an biên phòng. Một số làng-biên-giới được thành lập dọc biên giới Kampuchea và Lào, các làng Thượng ven biên được dời vào sâu trong nội địa.
Tùy theo mức độ phục tùng của từng nhóm Thượng mà sự kiểm soát của chính quyền tăng hay giảm. Những lãnh tụ thời chiến như Y Bih Alêo, Y Dhơn Niê Kdam, Nay Der, Nay Phin... đều đã già hay đã chết, những cán bộ và đại biểu Thượng đang còn trong đảng hay tại quốc hội và các chính quyền địa phương không có thực quyền, thành phần cán bộ trẻ không được tin cậy, mọi chức vụ quan trọng đều do người Kinh nắm giữ. Nơi cư trú của người Rhadé, Djarai, Bahnar và Stiêng bị canh chừng nghiêm ngặt, mọi ngỏ ra vào Tây Nguyên đều bị kiểm soát. Ðoạn đường từ Sài Gòn lên Ðà Lạt có hơn 20 trạm kiểm soát. Ðoạn đường từ Nha Trang lên Buôn Ma Thuột có trên 15 trạm kiểm soát. Ðoạn đường liên tỉnh từ Pleiku đến Kontum cũng có hơn 10 trạm. Du kích địa phương theo dõi gắt gao quan hệ của từng người trong làng, nhất là quan hệ với các tu sĩ và người ngoại quốc.
Phần lớn người Thượng ngày nay đã định cư và định canh, chỉ còn khoảng 300.000 người vẫn còn duy trì nếp sống du canh du cư. Từ sau 1976, đất công xã của các buôn làng đều bị tập thể hóa, các định chế mẫu hệ (nhà rông, nhà tập thể) bị giải tán. Các tòa án nhân dân thay thế các tòa án phong tục, đạo Tin Lành bị cấm rao giảng. Cán bộ đảng và nhà nước lấn át vai trò của các già làng, thanh thiếu niên Thượng tại những nơi đông dân bị đoàn thể hóa. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính giảng dạy trong các trường học, tiếng mẹ đẻ cho trẻ em ở bậc tiểu học bị cấm. Tỷ lệ thất học trên Tây Nguyên cao nhất nước, 60% trẻ em Thượng không đi đến trường vì thiếu ăn và nghèo khó. Số học sinh tốt nghiệp trung học, rất ít, thường không tìm được việc làm phải trở về buôn làng canh tác nông nghiệp. Bệnh tật nhiệt đới (cùi, lao, kiết lỵ, sốt rét rừng...) là tác nhân gây tử vong cao trong cộng đồng người Thượng, nhất là trẻ em. Mọi trợ giúp nhân đạo bất cứ từ nguồn gốc nào đều bị thanh lọc gắt gao.
Tây Nguyên có từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta đất trồng trọt được nhưng hiện nay chỉ khai thác trên 400.000 mẫu. Từ 1976 đến nay, chính quyền cộng sản đã đưa hơn ba triệu người từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và hơn 70.000 người thiểu số từ các tỉnh thượng du miền Bắc lên Tây Nguyên khai thác số đất đai còn lại. Người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ: 1,6 triệu (30%) trên tổng dân số 5,4 triệu người. Theo luật sử dụng đất đai ban hành năm 1999, diện tích canh tác của người Thượng bị thu hẹp lại, mỗi hộ dân chỉ được thuê tối đa ba mẫu. Cũng nên biết trong mỗi nhà sàn (là một hộ) nhiều gia đình sống chung với nhau theo chế độ sở hữu tập thể. Luật sử dụng đất đai mới này phá vỡ nếp sống cổ truyền của người Thượng, vì mỗi nhà sàn phải phân tán thành từng hộ nhỏ để có thể thuê thêm đất canh tác, nếu không sẽ bị đói. Ðó là chưa kể nạn lợi dụng sự thật thà của người Thượng bởi những di dân bất hảo để chiếm đoạt những khu đất tốt dọc các con suối và các trục lộ giao thông. Tại một số nơi, do thiếu văn hóa, những di dân còn đối xử với người Thượng như những nô lệ.
Sự có mặt ồ ạt của di dân từ đồng bằng lên làm xáo trộn toàn bộ sinh thái trên Tây Nguyên. Do đời sống nghèo khó và không được chính quyền giúp đỡ, sự hủy hoại môi trường sinh sống của những di dân mới này rất là báo động. Hơn hai triệu hécta đất rừng trên các vùng đồi núi biến thành đồi trọc, gây hạn hán mùa khô và lũ lụt mùa mưa. Diện tích rừng từ 3,3 triệu hécta năm 1976 giảm xuống còn 2,5 triệu năm 1984 và ngày nay chưa tới một triệu. Ðó là chưa kể nạn khai thác gỗ rừng bừa bãi của các công ty quân đội và công an biên phòng tại các vùng biên giới để xuất khẩu. Thêm vào đó là nạn đào tìm kim loại và đá quí bằng hóa chất gây ô nhiễm môi sinh, nhiều loại thú quí như cọp, khỉ, công và rắn lục bị tuyệt chủng.
Tương lai của cộng đồng người Thượng rất là bấp bênh, vấn đề hội nhập người Thượng vẫn còn nguyên vẹn. Dân tộc Việt Nam đã trả những giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, chúng ta phải thức tỉnh và nhìn ra những vết xe đổ. Xây dựng đồng thuận dân tộc phải là ưu tư hàng đầu của những người muốn lãnh đạo Việt Nam tương lai

Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung (V- hết)

Nguyễn Văn Huy
PHỤ LỤC

 Tìm hiểu nguyên nhân những cuộc nổi dậy của người Thượng trên cao nguyên miền Trung
Ngày 2-2-2001, hơn 6.000 người Djarai đến trụ sở tỉnh ủy tỉnh Gia Lai và ủy ban nhân thành phố Pleiku phản đối việc bắt giam hai tín đồ Tin Lành người Djarai hôm 29-1, về tội "kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc", và yêu cầu các cấp chính quyền địa phương trả lại đất đai đã bị nhà nước tước đoạt. Tiếp đó, trong các ngày từ 3 đến 11-2, hàng ngàn người Rhadé cũng đã kéo đến các trụ sở tỉnh ủy, ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột và một số huyện lớn trong tỉnh Ðắt Lắc phản đối và đòi hỏi tương tự. Theo những nguồn tin không chính thức nhưng đáng tin cậy, trong suốt thời gian biến động vừa nói đã có hơn 20.000 người Djarai và Bahnar đã xuống đường tại Pleiku và một số huyện khác trong tỉnh Gia Lai, một số lượng tương tự người Rhadé và Mnong cũng đã xuống đường phản đối tại Buôn Ma Thuột.
Chính quyền cộng sản đã không coi nhẹ tầm quan trọng những cuộc xuống đường của người thiểu số, phản ứng của họ đã liền tức khắc. Một mặt họ trả tự do cho hai tín đồ Tin Lành vừa nói và cử cán bộ đến giải thích chính sách của nhà nước về đất đai để vuốt ve sự căm tức và đồng thời cũng để dập tắt mầm mống chống đối của người Thượng trên cao nguyên ngay từ trong trứng nước. Mặt khác họ huy động một lực lượng quân sự quan trọng ngăn chặn các ngỏ ra vào cao nguyên và loan tải nhanh chóng tin tức những cuộc xuống đường của người Thượng để không cho phong trào đòi đất đai lây lang sang những địa phương khác và đồng thời cũng để minh oan cho chế độ trước dư luận quốc tế. Tuy vậy cũng đã xảy ra nhiều cuộc va chạm giữa người biểu tình và lực lượng an ninh làm 200 người Thượng và 20 cảnh sát bị thương, hàng ngàn người Thượng bị đánh đập và nhiều người khác bị bắt.

Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung (II)

Nguyễn Văn Huy
BÀI II
Người Thượng và những phong trào phản kháng dưới thời Pháp thuộc
Từ giữa thế kỷ 16 người Việt bắt đầu tiếp xúc giáo lý đạo công giáo, số người theo đạo càng ngày càng đông, nhiều họ đạo lớn được thành lập. Nhưng từ thế kỷ 19 trở về sau, đạo công giáo bị bách hại, phong trào tìm đường lên cao nguyên lánh nạn trở nên mạnh mẽ, cộng đồng người Thượng qua đó đã được biết đến.
Sự xâm nhập của người Pháp, và của người Kinh sau này, vào không gian sinh tồn của người Thượng là tiền đề của những phong trào hợp tác hay phản kháng của người Thượng.

Quan hệ với các giáo sĩ Pháp
Tại Việt Nam, người Thượng đã được các giáo sĩ phương Tây biết đến từ thế kỷ 17. Năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những nhóm dân cư phía Bắc Nam Phần là Kemoy (Kẻ Mọi). Giáo sĩ Marini Romain đề cập tới các vua Hỏa Xá và Thủy Xá (người Djarai) từ 1646. Năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes xác nhận xứ Rumoi (Rú Mọi) nằm ở giữa Lào và Annam. Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João de Loureiro xuất bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Người Mọi đen và Champa); giáo sĩ De La Bissachère lội ngược sông Mékong lên phía Bắc và khám phá các nhóm Thượng sinh sống dọc hai bờ sông. Năm 1765, giáo sĩ Pigues lên đến thượng nguồn sông Prek Chlong (Kampuchea) và tiếp xúc với các nhóm Stieng, Proue,

Người Thượng & hệ quả của chủ trương, chính sách với Tây Nguyên

Phát triển bền vững ở Tây Nguyên

Nguyên Ngọc

I – Một số nét tổng quan

A - Khái niệm Tây Nguyên :

Theo địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có năm tỉnh, kể từ bắc vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên cần chú ý các tỉnh ven biển miền Trung và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ đều có một vùng rừng núi khá rộng, cũng là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số. Chẳng hạn tỉnh Quảng Nam, là tỉnh duyên hải, lại có đến 56 % diện tích là vùng núi và vùng dân tộc, tại đấy có dân tộc Cơ-tu là một dân tộc quan trọng ở khu vực nam Trường Sơn. Miền tây tỉnh Quảng Ngãi cũng có vùng núi và là vùng dân tộc tương tự, thì có dân tộc Hre cũng là một dân tộc quan trọng. Dân tộc Rakglei thì sống chủ yếu ở miền tâyTây Nguyên xét về các về mặt dân tộc, văn hoá, xã hội, có thể cả lịch sử và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính. Có người đã dùng khái niệm Nam Trường Sơn để chỉ vùng này, có thể đúng hơn. các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số tỉnh miền Đông Nam Bộ cũng có vùng núi và là vùng dân tộc khá rộng. Vùng Cát Tiên, nơi có di tích nổi tiếng của dân tộc Mạ, nằm phần lớn trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Sóc Bombo mà chúng ta đều biết qua bài hát quen thuộc cũng thuộc Bình Phước… Như vậy khái niệm

Bạn có biết ý nghĩa các Địa danh Tây Nguyên ?

Không biết bạn thì sao, còn mình khi đến nơi nào đó có cái tên là lạ, thường có thói quen tò mò hỏi dân bản địa: nó có nghĩa là gì. Tại sao gọi 54 dân tộc anh em cùng sống chung trên Đất nước Việt Nam, mà ta có thể bàng quan nhỉ !? 
Th09 sưu tầm, tổng hợp theo ý đơn giản dễ hiểu nhất, còn cãi nhau về học thuật địa chí dành cho các cụ râu dài và bà con các dân tộc Tây Nguyên. 

------------

 

Tiếng Êđê (ghi theo từ điển Êđê-Pháp của Durisbourne, Paris 1965)
Krông: suối, sông nhỏ
Buk : tóc (vậy Krông Buk có thể hiểu là "Suối tóc")
Ea: sông nói chung (đúng ra Ea là nước (eau/water), tiếng Jarai là Ya hay Ia)
Dak: sông lớn (tiếng Mnông thì Dak là nước)
Chư: núi (tiếng Chăm là Chơh)
Buôn: làng

Tiếng Bahnar (theo đại tự điển Bahar-Pháp của Gulleminet)
Dak : nước, sông
Kon: người, kẻ, làng, bản
Ngok: núi (thí dụ Ngok Ring , hiện phiên là Ngọc Linh, núi cao nhất Tây nguyên (2877m). Ngọk: núi, Ring: làng , vùng đất chung của tổ tiên
Plei: làng (do ảnh hưởng tiếng Jarai và Chăm là Pơlei)


Tiếng Stiêng
Bù: người, làng bản (Bù Đốp, Bù Đăng, Bù Gia Mập...)

Ai tiếp tay cho Thủy điện bức tử sông Ba?





Những dòng sông Tây Nguyên "hấp hối"

(NLĐO)- Mặc dù đỉnh hạn tại Tây nguyên đã qua gần 1 tháng, thế nhưng, những con sông ở khu vực này lại đang “hấp hối” bởi hệ thống nhà máy thủy điện “nuốt nước” từ đầu nguồn. Những hình ảnh do CTV Báo Người Lao Động ghi lại khi men dọc theo các con sông ở Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk.
Tại huyện Ia Pa (Gia Lai), người dân sống phụ thuộc vào nguồn nước của con sông Ba để tưới tiêu, sinh hoạt. Nhưng hiện tại, nước không đủ để cung cấp cho nhà máy nước hoạt động. Người dân phải ra những bãi bồi giữa sông để moi cát, múc từng chai nước nhỏ về dùng.

Nước Sông Pa và Cường Đô La


 Sổ Tay Thượng Dân K’Tien

Làm sao tôi có thể kể cho các em biết rằng người Kinh của chúng tôi đang giết chết dân tộc các em từng ngày từng giờ.
Amai B’lan
- Hơn nửa cuộc đời, tôi sống trong Thung Lũng Điện Tử (Silicon Valley) tại phía Nam của Vịnh San Francisco. Ở một nơi có vài chục giống dân sống cạnh bên nhau – và tiếng Anh được dùng như ngôn ngữ chính – tôi dễ có cảm tưởng mình là một công dân quốc tế, cùng với niềm xác tín rằng những phương tiện giao thông (và truyền thông) hiện đại đã khiến cho quả địa cầu trở thành nhỏ lại tựa như một ngôi làng: a global village.
Niềm xác tín này (vừa) hơi bị lung lay chút đỉnh, sau khi tôi nghe một cô giáo trẻ – nơi một buôn làng heo hút – kể chuyện ở quê nhà:

Vì sao Đắk Lắk, Kon Tum có "Bản Lào", "Ruộng Lào" ?

1978, thời đi bộ đội đóng quân ở Ngả 3 Đông Dương, qua tiếp xúc với mấy dân tộc là người dân từ Campuchia chạy sang Việt Nam tỵ nạn, mình thật bất ngờ, lấy làm lạ khi biết họ có anh em họ hàng sinh sống ở cả ba nước. Đối với họ quốc gia này kia là hàng thứ yếu... họ nói nếu không có chiến tranh, họ qua lại biên giới trao đổi hàng hóa, đi đám cưới, dự lễ hội, thăm viếng lẫn nhau là chuyện bình thường. 
Khá lý thú khi trở lại chuyện này - vì sao có người Lào ở "Bản Đôn" thuộc xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk và có tên "Ruộng Lào" ở Phương Hoà, Tân Điền, Phương Quý thuộc thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum?. 

Theo wiki Người Lào tại Việt Nam
(trích)
Là một trong 54 dân tộc Việt Nam, còn gọi tên khác là Lào Bốc hoặc Lào Nọi
Tại Việt Nam,Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lào ở Việt Nam có dân số 14.928 người, cư trú tại 42 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lào cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (5.760 người, chiếm 38,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Hà Tĩnh (433 người), Đắk Lắk (275 người) 

Theo Nguyên Ngọc/ Diendan
(trích)
dantoc

Lời kể về thủy điện

Đức Thành 

Đập thủy điện Đakrông 3 vỡ toang
Tôi đã định không kể lại câu chuyện này, vì nó là câu chuyện buồn mà tôi chỉ được nghe kể từ một anh bạn hiện đang làm việc trong ngành xây dựng thủy điện với quá trình công tác tại ngành này gần 30 năm, và vì tôi nghĩ rằng có kể ra thì những công trình được thi công ẩu đó không tự tốt lên được! Nhưng gần đây, truyền thông nhà nước liên tục thông tin về các sự cố vỡ đập của một số công trình thủy điện được các cơ quan có trách nhiệm của nhà nước kết luận là do tích nước đang trong quá trình thi công, do ô tô húc đổ khi vừa mới xây xong, hay như đập có thấm nước thì là có mức thấm cho phép, rồi do mùa mưa lũ v.v và v.v. mà ít thấy nói công trình nào được kết luận là do thi công ẩu.

Thời trẻ tôi cũng từng công tác trong ngành xây dựng thủy điện và cũng là “sếp” trực tiếp của anh bạn đó, nhưng là người đã ra khỏi ngành từ hai mươi năm nay nên khi nghe anh bạn kể về thói ăn bớt khối lượng đào đắp, ăn cắp vật liệu hiện nay thì tôi bủn rủn. Không ngờ sự làm ẩu ăn cắp thời nay lại trắng trợn đến vậy! Câu chuyện của anh bạn tôi như sau:

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Những miền đất huyền sử - Những hòn đá linh thiêng

Thứ ba, 2014-09-09 03:12:09 - Nguồn: ThanhNien.com.vn
Ở Kon Tum có ba  mà đồng bào bản xứ xem đó là vật thiêng của làng, được thêu dệt bằng những câu chuyện ly kỳ, bí ẩn.
Hòn đá thiêng ở làng Kon Rế - Ảnh: Phạm Anh 
Hòn đá thiêng ở làng Kon Rế - Ảnh: Phạm Anh 

Hòn đá “may mắn”

Làm thủy điện hay buôn gỗ ?

Tác giả: Phương Nguyên
(ĐVO) – “Trình tự thẩm định đã có quy định cụ thể nên phải thực hiện theo. Nguyên tắc là sau khi chủ đầu tư nộp báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) thì cần thời gian để thành viên hội đồng thẩm định nghiên cứu, tổ chức phiên họp đóng góp ý kiến và báo cáo Chính phủ. Quan điểm của bộ là hiện nay chưa trả lời được về việc này, tinh thần là thực hiện theo đúng quy định pháp luật”.

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) Nguyễn Mạnh Hiển đã khẳng định như vậy về 2 dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A tại cuộc họp báo thường kỳ quý II của Bộ TN-MT tổ chức chiều ngày 18/7.
Câu chuyện của 6 năm
Hiện dư luận và các nhà khoa học đang chờ đợi câu trả lời này bởi đã 6 năm qua chủ đầu tư 2 dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A chạy theo các yêu cầu để có thể triển khai, còn các nhà khoa học thì cương quyết phản đối bởi những hệ lụy từ dự án này.
Ông Mai Thanh Dung, Cục trưởng Cục thẩm định và Đánh giá tác động môi trường cho biết, dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A đang vấp phải phản ứng quyết liệt của người dân, nhà khoa học khi bị coi là sẽ phá hủy môi trường sống.

Tản mạn Pleiku: Phố núi là phố núi nào?

Lang thang trên mạng, đọc điểm tin mới toanh của báo Đại Đoàn Kết: “Một đại gia phố núi ôm tiền bỏ trốn“ (http://daidoanket.vn/Index.aspx?Menu=1390&chitiet=50011&Style=1). Đại gia nào thế nhỉ, sao mình dân Pleiku phố núi chính hiệu lại chẳng nghe các thông tấn xã vĩa hè nói gì cả? Đọc kỷ lại, thì ra đại gia phố núi ở đây là một cặp vợ chồng kinh doanh vật liệu xây dựng tại thị trấn Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.(?!?)

Tò mò “sớch Gu gồ” hai từ phố núi. Thật ấn tượng, có tới 37 triệu kết quả. Thử lướt qua vài trang xem sao ( không tính đến những "phố núi" thuộc về Pleiku):

Trang 1:
-Một cái tít giật gân : “Chợ tình phố núi: không sướng không tính tiền” (báo Pháp luật và xã hội http://phapluatxahoi.vn/20120425095330579p1001c1049/cho-tinh-pho-nui-khong-suong-khong-tinh-tien.htm), phố núi ở đây là TP Ban Mê Thuột. Thở phào một cái, Pleiku phố núi chắc cũng không thiếu cái khoản tươi mát kia, may mà chưa đến mức thành chợ nên chưa được lên báo (?!?)
-Trang http://www.phattuvietnam.net/doisong/26/18093.html trích báo Sức khỏe và đời sống quãng bá “ Ẩm thực chay phố núi”. Hay nhỉ, một tháng thử vài lần ăn chay cũng nên quá đi chứ! Nhưng đọc kỷ xong thất vọng, phố núi ở đây lại là Đà Lạt, một tháng vài lần lên đó ăn chay có mà… ốm đòn (!?!)
-Trang http://vunguyen99.vnweblogs.com với tên gọi Phố núi của blogger Trần Hoàng Vũ Nguyên, đọc hết hàng chục trang thơ và comments mới biết tác giả hiện đang sống ở… Đà Lạt !

Trang 2: Tin hót không kém:

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Ảnh màu đáng ngắm về Tây Nguyên năm 1973

Cho đến thập niên 1970, hình ảnh các sơn nữ ngực trần vẫn còn khá phổ biến tại nhiều buôn làng Tây Nguyên.

Những cái bất ngờ lý thú khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam Á của nó Nguồn gốc tiếng Việt

Written by Nguyễn Hy Vọng   
Theo các nhà ngữ học Mỹ thì tiếng Mỹ là thứ tiếng nói đã vay mượn rất nhiều từ ngữ của các ngôn ngữ khác trên khắp thế giới, vì thế mà nó rất dồi dào và sống động, trở thành tiếng nói số một của loài người, hiện nay.

Theo tôi thì tiếng Việt cũng không thua kém chi , nếu ta đặt nó vào cái hoàn cảnh lịch sử khó khăn của đất nước Việt qua hơn hai ngàn năm nay.
Hiện nay, tiếng Việt đứng hàng thứ 12 trên thế giới về số đông người nói và đang lan ra khắp thế giới tự do từ cái biến cố lịch sử 30 tháng tư 1975.

Tiếng Việt có một nguồn gốc rất là đa dạng vì qua 2,3 ngàn năm, nó đã lai giống với rất nhiều tiếng Mon, tiếng Khmer, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Chàm , tiếng Malay, và đã vay mượn rất nhiều tiếng Tàu mà xài, rồi thì trong trăm năm vừa qua lại đã mượn hàng trăm tiếng Pháp như mũ bêrê, cái kilo, cái gara, vải kaki, bình accu…

Hiện nay thì tiếng Việt đã mượn rất nhiều và rất tự nhiên thoải mái hàng ngàn tiếng Anh Mỹ như computer, battery, charge… kể ra vô số, mượn như thế, sau một thời gian sẽ việt hoá chúng nó hoàn toàn và chúng nó sẽ trở thành tiếng Việt luôn. Đó là một điều rất hay, tiếng Việt sẽ dồi dào thêm, có thêm nhiều ngữ vững, nhiều cách nói, nhiều cách phô bày tư tưởng.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Ảnh màu đáng ngắm về Tây Nguyên năm 1973

Cho đến thập niên 1970, hình ảnh các sơn nữ ngực trần vẫn còn khá phổ biến tại nhiều buôn làng Tây Nguyên.

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014

Xem slideshow 181 ảnh Pleiku xưa

Hình ảnh PLEIKU phố núi xưa (phần 1):

       Phố núi và bạn bè xin giới thiệu đến Quý bạn đọc Hình ảnh PLEIKU phố núi xưa (phần 1) gồm 181 bức ảnh chụp trước năm 1975 trong bộ sưu tập của tác giả Mạnh Hải đăng trên Flickr.com:

       Để xem đầy đủ thông tin hình ảnh kèm theo, sau khi click vào ký hiệu Play slideshow (mũi tên lớn ở giữa ), Quý độc giả cần tiếp tục chọn xem ở chế độ full màn hình (click vào ký hiệu 4 mũi tên ở dưới góc phải), sau đó click tiếp vào ô chữ Show info tại góc phải trên.


Hình ảnh PLEIKU phố núi xưa (phần 2):

       Phố núi và bạn bè xin giới thiệu đến Quý bạn đọc Hình ảnh PLEIKU phố núi xưa (phần 2) gồm 129 bức ảnh chụp trước năm 1975 được sưu tập từ nhiều nguồn trên internet, nội dung được chọn lọc chủ yếu gồm hình ảnh thiên nhiên, phố xá và sinh hoạt con người của Pleiku xưa...

       Sau khi click vào ký hiệu Play slideshow (mũi tên lớn ở giữa ), Quý độc giả có thể chọn xem ở chế độ slideshow full màn hình bằng cách click vào ký hiệu 4 mũi tên ở dưới góc phải, hoặc tắt chế độ slideshow và xem chủ động từng hình một.




Nguồn: Nhuygialai

Miền đất huyền ảo (I)

Dam Bo
(Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
Lời người dịch

Mùa Xuân năm 1950, tạp chí Pháp Á đã ra một số đặc biệt dày dặn (số 49-50), giành riêng giới thiệu trọn công trình nghiên cứu về Các dân tộc miền núi Nam Ðông Dương của một tác giả ký tên là Dam Bo. Các dân tộc miền núi Nam Ðông Dương là cách Dam Bo dùng để nói về những con người mà ngày nay chúng ta gọi là các dân tộc Tây Nguyên [1] .
Về sau, người ta sẽ biết rằng Dam Bo chính là bút danh của một trong những nhà Tây Nguyên học say mê nhất và nổi tiếng nhất: Jacques Dournes. Ông sống ở Tây Nguyên gần suốt ba mươi năm, am hiểu sâu sắc hàng chục dân tộc thiểu số ở đây, nói thành thạo ngôn ngữ của họ, và đã viết hàng chục công trình có thể coi thuộc số những công trình nghiên cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên cho đến ngày nay. Trong số đó có những công trình được coi gần như là "kinh điển" trong khoa nghiên cứu về Tây Nguyên, như các cuốn "Potao, một lý thuyết về quyền lực ở người Giarai Ðông Dương", "Men theo những lối mòn của con người trên cao nguyên Việt Nam", "Nri, sưu tập luật tục của người Srê vùng Ðồng Nai Thượng", "Tôn giáo của người miền núi vùng Ðồng Nai Thượng"..., và đặc biệt cuốn sách cuối cùng tuyệt vời của ông "Rừng, Ðàn bà, Ðiên lọan, hành trình qua miền mơ tưởng Giarai".
Thấm đượm trong các nghiên cứu của Dam Bo-Jacques Dournes là một tinh thần khoa học nghiêm túc, trên cơ sở những quan sát chăm chú, tỉ mỉ, cẩn trọng, những so sánh và luận giải chặt chẽ, thấu đáo, những phân tích luôn cố gắng hết sức khách quan, đi đôi và hòa quyện với một tình yêu sâu sắc và một sự kính trọng chân thành đối với đối tượng nghiên cứu của mình: những con người Tây Nguyên, cái thế giới vừa vô cùng sâu xa, thăm thẳm trong Truyền thống minh triết lâu đời của họ, vừa lại rất mong manh, rất dễ bị đổ vỡ, bị xéo nát trước những thách thức hung bạo của sự phát triển hôm nay.

*

Trong khi đọc công trình nghiên cứu vừa nghiêm túc vừa say mê như một bút ký dân tộc học, một kiểu tác phẩm văn học độc đáo này, chúng ta luôn nhớ rằng nó đã được viết ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Từ đó đến nay, trên vùng đất này đã diễn ra biết bao nhiêu biến động dữ dội, tác động mạnh mẽ đến toàn bộ cuộc sống và con người ở đây. Nhiều sự kiện đã được soi sáng dưới những góc nhìn mới, do đó có thể được nhìn nhận và giải thích theo những cách mới, sáng rõ và chân xác hơn. Một số nhận định, ước thuyết của tác giả đã bị vượt qua, hoặc được đính chính lại, một số hiểu biết mới được bổ sung, do những nghiên cứu mới trong suốt thời gian từ đó đến nay. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể nhận ra ở tác phẩm của Dam Bo không chỉ những tư liệu vô giá ngày nay hầu như không còn có khả năng tìm thấy được nữa, mà hơn thế rất nhiều, một số vấn đề cơ bản tác giả đặt ra về sự phát triển của xã hội và về số phận con người ở đây có thể nói vẫn còn nóng hổi tính cập nhật. Về một phương diện nào đó, công trình nghiên cứu công phu và đầy nhiệt tâm này đã vượt qua được sự thử thách của thời gian, và không hề lạc hậu.


*

Dam Bo viết: "Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu". Bài toán về sự phát triển của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại và trong thế giới ngày nay, như chúng ta đều biết, không hề là một bài toán đơn giản, dễ dàng. Chắc hẳn chúng ta cần cả hai vế trong mệnh đề trên của Dam Bo, nếu chúng ta thật sự tha thiết muốn góp phần giải quyết bài toán khó ấy của Tây Nguyên hôm nay. Cần phải yêu, một tình yêu đầy kính trọng và cả ưu tư như Dam Bo đã yêu đối với đất nước và con người Tây Nguyên để có thể hiểu nó một cách thấu đáo, đặng có thể xử lý những câu hỏi không hễ dễ dàng đặt ra vừa bức bách vừa lâu dài, cơ bản ở đây. Và để có được một tình yêu như vậy, thì lại phải chăm chú, tận tụy chăm chú hiểu nó, mảnh đất và con người ở nơi này, trong tất cả các chiều sâu tinh tế của nó, như tác giả của cuốn sách này, một con người không phải là người Việt Nam mà đã bỏ gần cả ba mươi năm, và là những năm dồi dào sức lực, trí tuệ nhất, những năm quý giá nhất của đời mình để cố tìm hiểu và yêu nó.
Ðưa công trình này của Dam Bo đến với bạn đọc, người dịch mong mỏi góp một phần nhỏ vào việc xây dựng sự hiểu biết và tình yêu đó.
Nguyên Ngọc
[1]Các dân tộc miền núi Nam Ðông Dương: Populations montagnardes du Sud-Indochinois, viết tắt là P.M.S.I., có thể thể đọc là Pemsi, do đó Dam Bo gọi người Tây Nguyên là "les Pémsiens". Trong bản dịch này chúng tôi xin thay thế từ Pémsien của Dam Bo bằng "người Tây Nguyên" theo cách gọi đã thành rất quen thuộc của chúng ta. 
Mào đầu

Con người miền núi Nam Ðông Dương (Tây Nguyên) mà chúng ta sẽ nghiên cứu đây đối với chúng ta có thể sẽ rất kỳ lạ, thậm chí không thể hiểu được, như thuộc về một thế giới khác, một giống loài khác. Kỳ lạ và thuộc về một thế giới khác, quả đúng như vậy, theo một cách nào đó; tuy nhiên chúng ta có thể hiểu họ, bởi họ là một phần của chúng ta. Nhưng sau cuộc nghiên cứu này rồi, chúng ta có hiểu họ hơn không? Không nhất thiết đâu; bởi nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu. Phải yêu cuộc sống gian khó và bình dị, phải yêu thiên nhiên trinh khôi và say mê vẻ đẹp của nó, phải yêu cái không khí đầm ấm của căn nhà sàn và hơi nóng tỏa ra từ bếp lửa của nó, phải yêu khu rừng ngo và đêm đầy trăng.
Từ buổi nguyên sơ, con người vốn giống nhau; họ tiến hóa nhịp nhàng cùng nhau một thời gian, rồi tách nhau ra: những người này thì theo khuynh hướng bảo thủ truyền thống và cố định tôn giáo, những người khác thì ngả theo khoa học và nóng vội. Nhưng, thời gian trôi qua, có phải đến bây giờ đã có một cái hố không thể vượt qua chia cách họ với nhau?
Căn cứ vào nền văn minh của họ, đến một giai đoạn nào đó đã đứng sững lại, con người Tây Nguyên hôm nay là đương thời với những người Gaulois. Nhìn thấy họ bây giờ, tức là biết được những gì đã từng có nhiều thế kỷ trước đây. Ðiều đó không chỉ cho phép chúng ta có thể tiến hành một công việc phục dựng lịch sử dễ dàng, nghiên cứu thật thuận lợi một dân tộc đã quá thời. Con người Tây Nguyên hôm nay, là nhân chứng về quá khứ của nhân loại, chỉ cho chúng ta biết ngày xưa chúng ta là như thế nào; chỉ riêng một điều đó thôi, họ cũng đã đáng cho chúng ta chăm chú và yêu quý rồi. Quan sát họ, chúng ta thấy hiện lên một bức tranh độc nhất và hấp dẫn về chính chúng ta trong quá khứ, do đó chúng ta sẽ có ý thức về nó hơn, cũng giống như những cử chỉ đầu tiên của một đứa bé khiến chúng ta hiểu chúng ta thuở trước là như thế nào, và chẳng có cái khác gì có thể nhắc chúng ta nhớ lại được cho bằng.
Nhưng đứa con của tự nhiên không chỉ là một ký ức đối với những đứa con của ánh sáng, một nhân chứng hôm qua cho cái ý thức bị tương lai che phủ của họ; nó còn có cái tội làm phát lộ ra cái "nguyên thủy" đang còn hiện diện trong chúng ta, ít khi chúng ta ý thức được (bởi chúng ta đinh ninh rằng chúng ta đã là những con người tiến hóa và đã cắt đứt với cái "mê tín" dưới tất cả các hình thức) nhưng vẫn còn nguyên si trong một tiềm thức bị cấm đoán. Trong các nhân vật hợp nên cái tôi của chúng ta, có và vẫn còn có một kẻ biết nhìn ngắm và biết ngạc nhiên, một kẻ cả tin và mê tín, một kẻ sợ hãi và chưa bị thuần hóa. Việc thừa nhận sự thật đó là một bước tiến thêm trong việc tìm hiểu con người Tây Nguyên, người anh em của chúng ta. Từ sự ý thức này có thể toát ra một minh triết: chúng ta biết một hệ thống mặt trời và các điều kỳ diệu trong sự sắp đặt của nó; danh vọng làm người của chúng ta là chúng ta gọi tên ra được mỗi một yếu tố của nó; nhưng có phải vì chừng đó mà chúng ta đã trở thành các vị thần rồi không? Và nếu chúng ta còn biết thêm nhiều hệ thống nữa, có mặt trời hay không, và phân tích được cơ chế vận hành của chúng, thì chúng ta có vì thế mà trở thành thần thánh hơn không? Rồi chúng ta sẽ nhận ra sự nhỏ bé của mình nếu chúng ta được yêu cầu không phải hiểu biết mà là tổ chức một vũ trụ vô cùng to lớn, cho đến tận trong những chi tiết vô cùng nhỏ bé của nó. Thật là hiền minh khi tự nhận mình là thấp kém và dốt nát, khi tin ở ưu thế của tinh thần đối với vật chất, và ở những Trí tuệ cao hơn trí tuệ của chúng ta, mà ta phó thác sự điều hành vũ trụ và số phận của chính chúng ta. Thực tại Tây Nguyên hiện tồn, mà chúng ta sẽ phân tích, kỳ thực là một quá khứ còn sống sót cho đến ngày hôm nay, nhưng nó không nhất thiết sẽ phải biến mất đi... với điều kiện ta cứu vãn được những điều kiện tối thiểu để hoàn thiện được cuộc thử nghiệm. Người Tây Nguyên sống giống như trong quá khứ và họ sống bằng quá khứ. Họ không sống đúng thời của mình, trường hợp của họ là một ca lỗi thời. Tuy nhiên Truyền thống, đã gìn giữ cho họ được đến vậy cho tới hôm nay, chẳng phải là vô hiệu lực. Mà đấy là cả một bài thơ và một cuộc sống; nằm ngoài thời gian, nó không chỉ chăm chăm vào quá khứ; cho nên nó không nhất thiết là một cản trở đối với sự phát triển. Nếu sự phát triển đó vượt quá Truyền thống sống động, thì sự phát triển đó đã gồm trước trong chính Truyền thống và được vượt quá bằng chính tinh thần của Truyền thống. Toàn bộ vấn đề là làm thế nào cho vận động đang diễn ra có được những điều kiện một mặt vẫn giữ được một diện mạo truyền thống và mặt khác, ứng dụng vào một ngày mai mới mẻ, tìm thấy được sự tiến bộ làm cho Truyền thống ấy nảy nở.
... Ðêm bên bếp lửa đã tàn. Ai nấy đều im lặng; câu chyện của cụ Già làng đã hòa tan vào cái lặng thinh sâu thẳm của đêm. Trong bếp lửa ủ, ngọn lửa không còn bốc lên; đến lượt khói cũng tan dần và lẫn vào các đồ vật trong căn nhà. Chẳng mấy chốc bình minh đã dát bạc bầu trời còn mờ tái và khiến các đỉnh núi long lanh ngũ sắc. Một buổi sáng mới đang bắt đầu.
Buổi hoàng hôn của một thời đại đã đi qua; bình minh của một thời đại mới đang thoát ra khỏi đám sương mù ban mai. Nhưng cái ngày hôm sau này không chỉ là đơn thuần là một sự thức giấc và bắt đầu trở lại cái ngày hôm qua. Quá khứ, cố sức kéo dài mãi, đang chết dần, đã quá già cỗi, không được đổi mới, suy thoái, giống như một gia đình xưa đang suy biến. Ngày hôm qua, người Tây Nguyên đau khổ vì mệt mỏi, vì đói, luôn sợ tất cả những gì không phải là chính mình. Nỗi sợ đó, sự rã rời đó, khiến họ trở thành một kẻ nô lệ cho những niềm tín ngưỡng truyền lại từ tổ tiên, một nô lệ cho kẻ mạnh hơn mình và khiến họ có khuynh hướng bi quan. Cách nhìn thế giới của họ là một sự phóng chiếu trạng thái tinh thần của họ: một sự kỳ vĩ nào đó trong quan niệm và, trong toàn bộ, một lối ghi nhận chẳng mấy cởi mở về cái chu trình khép kín quỷ quái trong đó con người là một món đồ chơi của những thế lực khắc nghiệt, như một con sóc trong chiếc lồng của nó. Ðấy là mặt trái, phương diện không hay trong chủ nghĩa truyền thống của họ, đòi hỏi một sự giải phóng vật chất và tinh thần: để làm được việc đó, phải nuôi sống họ và làm cho họ cao lớn lên trong chính con mắt của họ.
Ngày hôm nay, người ta đem đến cho họ những gì cần có để xây dựng một ngày mai mới mẻ, và đấy là một nghĩa vụ mặc dầu nó hàm chứa những mạo hiểm có thể lường trước. Nếu họ không cầm lấy những công cụ người ta đưa cho họ, ấy là hoặc vì người ta đã đưa cho họ không phải cách, hoặc là vì họ bị mê hoặc bởi một quá khứ co cụm, nó sẽ làm cho họ trở thành một kẻ cùng khổ của nhân loại, họ sẽ là một người Mọi, không có ngày mai. Nhưng bên trong họ có một tiếng gọi hướng tới sự hồi sinh, trong mọi lĩnh vực. Truyền thống của họ không làm tắc nghẽn con đường giải phóng; nó chịu đựng được sự mở rộng, bừng nở, cho đến tan vỡ những hình thức xưa cũ; và tự nó sẽ mở ra từ chính nó, nếu tránh được một sự đứt gãy đột ngột.
Nó là than hồng trong bếp lửa đêm trong căn nhà sàn, đêm hôm trước được cụ Già làng thổi bùng lên, khi cụ cảm nhận ra cái bình minh mà cụ còn chưa nhìn thấy. Ðốm lửa ủ dưới lớp tro nóng của các thế hệ suốt lịch sử sẽ được khêu lên lại, để làm hồi sinh một ngọn lửa mới, không chỉ cho thế hệ trẻ "hiện đại", vốn không biết đến những mối hiểm nguy của một ngọn lửa quá nóng chói, mà là cho cả căn nhà, vừa vẫn thấm đượm được cái truyền thống xưa cũ vừa cảm nhận ra được cái buổi ban mai mới mẻ này.
Vấn đề Tây Nguyên như chúng ta sẽ thấy toát ra từ những đối tượng khác nhau của công trình nghiên cứu dân tộc học này của chúng tôi - bấy nhiêu quan điểm về tất cả các mặt đời sống Tây Nguyên - là một phương diện của một vấn đề rộng lớn hơn nhiều và không hề xa lạ với bất cứ dân tộc nào: sự cao quý và niềm tự do của con người. Những giá trị gắn với con người đó thường bị bỏ quên, vì lợi ích của những "giá trị" khác của túi tiền, mà bao nhiêu con người suy đồi vẫn đăm đăm đeo đuổi. Chẳng phải là nhân loại cần được lay chuyển bởi những giá trị gắn với con người sao, cái nhân loại sẽ bị lăng nhục khi người ta làm tổn thương đến danh dự của thành viên bé nhỏ nhất của nó?
Ðịnh mệnh của con người là vươn tới tiến bộ; nhưng mọi sự tìm tòi sẽ là vô nghĩa và kết quả sẽ là tai họa nếu vận động đó lại dẫn đến sự suy thoái của nhân cách. Có nghĩa gì một sự tiến bộ kỹ thuật nếu nó giết chết tinh thần? Niềm say mê hủy hoại của các thế lực "tiên tiến" có thật là cao hơn niềm kiêu hãnh của con người miền núi không? Một con người mà ý thức bị méo mó đi thì có thể đem lại được gì cho sự phát triển của một dân tộc "nguyên thủy"? Có những người lao động ở phương Tây bị nô lệ chẳng khác gì những người cu li phương Ðông. Ở bên ấy tiếp những người "hạ đẳng" ở bàn ăn của mình có thể khiến người ta ngạc nhiên chẳng khác gì ở bên này thấy một người da trắng ngồi cùng mâm với những người "bản địa", trong khi chính phản ứng ấy mới là cái đáng chướng tai gai mắt. Kẻ nào sợ nâng những con người mà mình sử dụng lên ngang tầm với mình, thay vì phục vụ họ, kẻ nào, đứng trước một người lao động không thể nhìn thấy gì khác hơn ở họ một cá nhân vô danh, bởi vì anh ta đã quên rằng mỗi con người là độc đáo và không thể thay thế, kẻ ấy không thể làm cho người Tây Nguyên ý thức được sự cao thượng thật sự của họ.
Chúng tôi đã chỉ ra cần phải thực hiện một sự tiến bộ thật sự theo phương hướng nào. Vấn đề không phải là tưởng tượng như kiểu Jean Jacques (Rousseau) rằng con người sống gần gụi với Tự nhiên hơn thì có đạo đức cao quý hơn và do vậy, người Tây Nguyên cứ vậy vốn đã hoàn mỹ. Ðấy là sai lầm mà một số người đã phạm phải, muốn cô lập họ ra một cách thái quá, trong một "thiên đường tìm lại được", cố làm mọi thứ để giữ cho nó cứ nguyên si như vậy; cũng tức là chẳng làm gì cả. Ta không có quyền tạo nên một bộ sưu tập được lựa chọn cho một bảo tàng với những con người, vốn bản chất là hòa đồng, vẫn suy nghĩ và diễn đạt tư tưởng của mình để giao tiếp với những người khác. Cũng chẳng thể, không hướng dẫn những tiếp xúc và những kinh nghiệm của họ, để mặc họ lao mình vào thế giới hiện đại, ở đấy họ sẽ bị sa vào suy đồi trước khi bị nhấn chìm và tiêu tán.
Như vậy dân tộc này vẫn cứ phải là chính mình, giữ nguyên được bản sắc của mình, nhưng gặt hái được một giá trị thặng dư bằng một sự tiến bộ làm cho nó nảy nở mà không đảo lộn nó, và điều đó phải được diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, về mặt tinh thần ít ra cũng tương đương như mặt vật chất, như một phác thảo cần được hoàn tất theo chiều hướng và khát vọng mà nó đã chỉ ra và hàm ý.
Cùng lúc, nếu không phải là còn hơn thế nữa, trong cuộc đổi mới các tập quán, giải pháp cho bài toán này phải có trong tâm trí và con tim những con người mà người Tây Nguyên cần đến để thổi bùng lên lại ngọn lửa vẫn ấp ủ, những người mang đến cho họ các công cụ để họ có thể xây dựng cái ngày mai ấy. Sứ mệnh đó thuộc về những ai biết tin tưởng ở con người ấy, vững tin rằng ở trong họ vẫn tiềm ẩn cái khả năng của một người anh hùng và một vị thánh.
Và thêm vào đó nữa, những người đảm nhiệm sứ mệnh ấy không chỉ sẽ khám phá ra được ở đây một người anh em đầy hấp dẫn và được thụ hưởng sự giàu có mà khám phá đó đem lại, mà - không hề mâu thuẫn - họ còn được học một bài học về cách sống ở đời: không náo động khô cằn, mà là một sự bình thản dồi dào và khả năng tự chủ vững vàng; không phải là nỗi lo âu bệnh hoạn của đô thị hỗn loạn, mà là sự vô tư tươi mát, nó vốn là con đẻ của Ðức Tin; không phải là lối kiêu ngạo điên rồ của những lũ phá hoại phi nhân, mà là niềm nhún nhường nó chính là sự thấu hiểu sâu xa về con người; vượt qua tất cả các quốc gia cung cấp vũ khí, là sự thanh bình của cao nguyên; và cao hơn rất nhiều các nhà lô-gích duy vật tước đi hết mùi vị của mọi thứ, là những con người nhạy cảm, là niềm vui sống, niềm đam mê đối với Tạo hóa, niềm Minh triết.  

Phần I
Dáng vẻ con người và lịch sử tây Nguyên
Ta có thể đọc thấy những báo cáo của các nhà thám hiểm nói về sự hiện diện của những người "Mọi" trên vùng cao nguyên, cũng cùng một cách như họ nói về những loài dã thú cùng sống với những con người này trong rừng, và đi đến kết luận là mong sao cho những "kẻ tàn hại chuyên đốt cháy hết rừng núi, những kẻ không có chút khả năng tiến bộ nào" đó sẽ bị tuyệt diệt hết đi cho xong. Trong thực tế, chính những kẻ đó lại sống sót chống lại cuộc triệt diệt mà họ là đối tượng.
Nền văn minh của họ, đương nhiên là nguyên thủy, tinh tế hơn người ta tưởng rất nhiều. Họ không biết chữ viết, nhưng họ biết suy nghĩ. Những di sản giàu có trong họ cần được trình bày ra để tránh cho chúng khỏi bị mãi mãi mai một mất đi..., nếu không phải là đến một ngày nào đó chính tự họ sẽ biểu đạt chúng ra và thông đạt chúng đến với mọi người.
Cơ thể nhịp nhàng của những thiếu niên Tây Nguyên, cao lớn, khỏe mạnh và mềm mại, gợi nhớ đến những lực sĩ trẻ từng làm mẫu cho các nhà điêu khắc Hy Lạp. Hình thể thanh nhã, đường nét tinh tế, cơ bắp dài, nước da mịn, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, đôi mắt thông minh. Khuôn mặt sáng rỡ của người thanh niên tắm ở sông, khối nổi hằn nơi cánh tay mà lối ăn mặc của người Tây Nguyên để lộ trần đến vai, vẻ tinh tế của những ngón tay dệt vải; toàn bộ thân hình uyển chuyển của người nhảy múa, dưới ánh trăng. Mái tóc đen, hơi lượn sóng, mà những người già và các bà để dài, cuộn thành búi. Vẻ hấp dẫn chẳng hề kém của các cô gái , khi buổi tối các cô xõa tóc, để cho mái tóc dài buông xuống trên gáy hay trên lưng.
Làn da rám đều; ướt đẫm mồ hôi hay lúc tắm, ánh lên tựa đồng thau. Trang phục chẳng có gì, càng tôn những đường nét tuyệt hảo của đôi vai, lưng, và eo hông. Thường họ chỉ quấn một tấm chăn, đôi khi được thêu rất đẹp. Ðàn bà quấn một chiếc váy màu sẫm phủ đến dưới gối. Trước khi làm mẹ, họ thật duyên dáng; nhưng sau khi có đứa con đầu tiên, họ già đi nhanh, da nhăn, vú thõng.
Chỉ cần thêm một nét bút cuối cùng nữa để có được một bức chân dung hoàn hảo: đối với đàn ông, một chiếc ống điếu ngậm nơi miệng, một chiếc dao phạt vác vai; các bà thì môi đỏ vì miếng trầu, nhét giữa lợi và môi, hay giữa răng và má, tùy theo tộc người.
Người Tây Nguyên không hề xa lạ với việc làm dáng: họ thích trang điểm những chiếc vòng bằng đồng, kiềng thủy tinh, hoa tai, đôi lúc to đến quá cỡ, bằng ngà hay bằng kim loại, theo những nguyên tắc thẩm mỹ tất nhiên là không phải của phương Tây, nhưng hợp với vẻ quyến rũ riêng của xứ sở này và với vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.

*

Một vài chân dungNgười mẹ - Bà địu con trong một tấm chăn, siết chặt vào người. Bà không thể xa rời đứa bé, trong những năm đầu bà cảm thấy nó là da thịt của chính mình da diết mức nó còn là da thịt dính chặt vào cơ thể bà. Khi bà đi làm lụng, đứa trẻ theo bà, bám chặt trên lưng. Khi bà giã gạo, nó không hề rời bà, được ru theo nhịp chày. Khi bà ở nhà, ngồi cạnh bếp lửa, đứa bé lúc này được địu về phía trước ngực, mải mút vú mẹ. Lúc nào cũng bám sát vào mẹ, đứa bé từng trải và lớn mạnh dần lên. Bà sẽ còn địu nó mãi rất lâu bên mình, cho nó bú. Nếu có thêm một đứa khác được sinh ra, không ít khi người mẹ địu cả hai đứa, một đứa trước ngực một đứa sau lưng, để không bỏ rơi đứa lớn khiến nó khóc.
Trong những lúc cãi vã, tranh chấp, bà có thể tỏ ra cau có, độc đoán, cứng nhắc; nhưng, một lúc sau, chỉ còn thấy ở bà một niềm dịu dàng trìu mến đối với đứa bé đang nhè.
Suốt ngày bà làm đủ các thứ công việc, lấy nước, chẻ củi, giã gạo, cho gia súc ăn. Buổi tối, mệt nhoài, bà chẳng hề cáu gắt, đứa bé chẳng hề khiến bà khó chịu. Nó là niềm thư giãn của bà, đem lại cho bà nụ cười.
Già trước tuổi, nhăn nheo, bà xấu đi rất nhanh. Nhưng đối với các con, bao giờ bà cũng đẹp. Một vị giáo sĩ có lần phải xử một mụ thầy cúng bị cả làng ghét bỏ, coi là kẻ bị ma ám, và muốn đốt cháy cả nhà bà. Một người thanh niên đã kiên quyết bênh vực bà thầy cúng già ấy; anh nồng nhiệt nói bao nhiêu điều tốt đẹp về bà, và cuối cùng bảo: "Xin cha hãy thương lấy bà, đấy là mẹ tôi!"
Bà có vai trò to lớn và được kính trọng. Trong phương ngữ Srê, từ me (mẹ) được dùng làm phụ tố chỉ bộ phận lớn nhất của một tổng thể nào đó (bônha me: ngôi nhà chính; gung me: con đường lớn). Trước ngày cưới, các quan hệ (nam nữ) được tự do; nhưng sau đó, người đàn bà là thiêng liêng. Loạn luân, hiếm khi xảy ra, bị phạt rất nặng. Chuyện ly hôn cũng rất hiếm, khi đã có con.
Bọn nhóc - Ðược vui mừng chào đón, chẳng bao giờ quá nhiều, chúng là những nốt cao của giai điệu trong ngôi nhà Tây Nguyên. Nhưng, hoàn toàn trần truồng trong những năm đầu tiên, bám trên lưng mẹ và theo mọi di chuyển của mẹ: trên các con đường mòn, dưới nắng chang chang, trên đồng ruộng, trong mưa, chúng nhanh chóng bị lạnh và ốm. Ngay từ lúc chào đời, chúng đã phải đấu tranh. Trong mười đứa thì đến sáu hay bảy đứa sẽ chết rất sớm, đôi lúc trước khi được đặt cho một cái tên.
Nước da sáng, tóc nâu như mái tranh của căn nhà sàn, đôi mắt to và tươi cười, tiếng kêu đầu tiên của các cháu là hướng về người đã sinh ra các cháu trên đời này: "Maa!... mee!...", tiếng nói đầu tiên của các cháu cũng giống hệt như trên toàn thế giới.
Cô nàng thanh lịch - Cô làm giám thị ở đồn điền của một người da trắng. Cô hiểu một ít tiếng Việt và bập bẹ đôi ba tiếng Pháp. Cô thường vênh vang ở chợ, làm ra dáng bà lớn với những người phụ nữ Tây Nguyên khác, họ có sợ cô đôi chút nhưng chẳng mến chuộng cô chút nào. Cô Việt hóa, cũng như các cô gái Việt Tây hóa.
Ở đây người Pháp bỏ cái mũ cối thuộc địa để diện chiếc mũ bê-rê Bát, bỏ cái ống điếu để ngậm điếu xi-gà Ăng-lê, và bỏ con ngựa để cưỡi chiếc Jeep... Người Việt thì bỏ chiếc nón lá để đội chiếc mũ cối bằng điền điển, bỏ bộ quần áo dài để diện chiếc quần sooc của người da trắng, bỏ chiếc xe bò để cưỡi chiếc ô-tô bán hạ giá.
Cô gái Tây Nguyên đeo các vòng trang sức của người Việt, diện áo sơ-mi bó sát người và cài cúc đến cổ; cô mua một chiếc ô với giá cắt cổ, mà cô không biết cách dùng, và bây giờ cô cũng đã biết chửi mắng bố mẹ.
Một người đàn bà bình dân Tây Nguyên thấy người đồng hương của mình đi qua, mặc quần áo trắng bong và bó sít cả người, nhận xét: "Bây giờ người Cau (người Tây Nguyên) học đòi người Yoan (người Việt), còn người Yoan thì học đòi người Pháp".
Thanh niên - Ðôi mắt to, đen, sáng ngời, đẹp như những chiếc hồ trên núi dưới ánh trăng. Những đôi mắt làm bừng sáng niềm vui trên khuôn mặt của những chàng trai trẻ, cứ như họ sinh ra chính là vì niềm vui sống đó. Ở tuổi này, mọi thứ đều được phép. Ðấy là ý kiến của các bậc làm cha mẹ, vốn nhớ rằng chính mình cũng đã từng trải qua cái thời ấy. Không gì có thể ngăn trở tự do của họ. Thỉnh thoảng họ gây những chuyện khó chịu trong gia đình vì người ta muốn họ phải làm việc siêng năng hơn; nhưng biết nói thế nào nữa đây? Ðâu có phải là lười biếng khi người ta muốn lang thang đâu thì tùy thích, muốn tận hưởng cuộc đời này mà người ta đã chào đón bằng một nụ cười. Nhöl, có nghĩa là chơi, tận hưởng, lang thang, lượn lờ, đối với họ là tất cả.
Vẻ đẹp rạng rỡ của cơ thể thiếu niên, tỉ lệ hài hòa của đôi tay và đôi chân, đường nét tuyệt diệu của lưng, ánh đẹp của nụ cười; họ có tất cả để có thể thành công trong các cuộc chinh phục - và họ biết rõ điều ấy.
Ðương nhiên, họ được hoàn toàn tự do trong quan hệ với các cô gái trẻ, trước khi cưới (cùng lắm thì bố mẹ cô gái có thể bắt đền một món nhỏ nếu lời hứa không đi đến hôn nhân). Thậm chí có những thời kỳ trong năm, trước mắt mọi người, trai gái có thể tha hồ vui thú. Như trong lễ hội ban đêm sau lễ ăn cốm mới, vào cuối vụ thu hoạch.
Nhưng kẻ nào biết hiểu những chàng trai này, chiếm được lòng tin của họ, thì có thể trông cậy mọi thứ ở họ. Họ có thể làm được những việc to lớn, đến độ anh hùng.
Anh chàng tân tiến - Chưa kịp nhuốm đậm những màu sắc của Truyền thống, anh ta đã chịu ảnh hưởng của các nền văn minh láng giềng, bị vẻ bên ngoài của chúng hấp dẫn. Anh ham thích những thứ lăng nhăng mà các bậc già làng quá hiền minh biết chẳng qua chỉ là những trò hão huyền. Anh cho rằng người Việt và người Pháp cái gì cũng biết. Mọi sự họ làm đều hay. Cho nên anh chỉ có việc bắt chước theo, nghĩa là bắt chước những gì anh nhìn thấy, những gì trông thấy bên ngoài - đôi khi chẳng hề là điều hay nhất.
Anh thường ra chợ và xài món tiền mà anh hay bố mẹ anh có thể kiếm được ở đâu đó. Anh phải đi giày, trầy cả chân cũng mặc; không thể đi chân trần trên những con đường giành cho ô-tô. "Ngày xưa thì được, chứ bây giờ ai lại..." Răng bằng vàng giả do người Tàu bịt cho, là tột đỉnh sang trọng. Mỗi lần có được bảy mươi lăm đồng (tiền Ðông Dương) là anh lại phải trồng thêm cho được một chiếc. Mặc tất cả những thứ đó, vẫn phải công nhận trông anh cũng khá bảnh: áo sơ-mi trắng, quần cộc màu sẫm, mũ bê-rê đội lệch... Ðể cho thật lịch sự, còn phải bỏ tiền mua một cây bút máy cố tình cắm lộ ra trên túi áo sơ-mi, ở đấy thay vì chiếc khăn cài túi ngực là một mẩu giấy bất kỳ nào đó, mặc dầu và nhất là anh chẳng hề biết viết.
Nhưng chẳng phải mọi chuyện ở chợ đều hay - tuy đó chẳng phải là ý kiến của anh. Trong khi, ngày lễ ở làng những người thân của anh tụ hội trong nhà sàn quanh ché rượu cần, thì anh lại đi nếm rượu cồn ở hàng quán bán lẻ cắt cổ.
Tùy theo tộc người, anh ta là một trường hợp ngọai lệ hay là điển hình của cả giới thanh niên. Dẫu sao, coi thường các hình thức văn minh cổ truyền, từ bỏ các tập tục của cha ông, quên tiệt Truyền thống tôn giáo, anh ta chẳng được ai ưa. Ðám trẻ nghe theo anh ta, các cô gái nhìn ngắm anh ta, nhưng các Già làng không còn công nhận anh ta. Hoặc anh ta tự loại mình ra khỏi làng, hoặc anh ta chinh phục được làng theo những ý tưởng mới mẻ của mình. Nhưng cái kiểu chạy theo những hình thức vật chất đó của văn minh, bất chấp tôn giáo, là một tai họa: sự tiến bộ về khoa học, kể cả về trí tuệ, không thể nâng con người lên trong sự tiến hóa nếu nó không đi đôi với một sự phát triển về đạo đức. Con người Tây Nguyên biết lái một chiếc xe ô-tô có tiến bộ lên chăng, trong khi anh ta đồng thời lại đánh mất đi hết mọi sự tôn trọng đối với thế giới tinh thần? Họ không biết rằng đó chẳng phải là một sự tiến bộ chân chính, là cái điều mà thế giới ngày nay đang cảm thấy, hoảng hốt vì những khám phá quái dị do trí tuệ của mình đem lại.
Anh chàng đi buôn - Lão M. đi buôn, lot ka . Phương thức mua và bán lại của lão khiến lão trở thành vừa là người giàu nhất vừa là người nghèo nhất xứ. Làm ruộng thì lão quá lười biếng, mặc dầu người Tây Nguyên vốn rất dũng cảm trong lao động khó nhọc khi họ làm việc cho chính mình. Vả chăng, lão chẳng nên nhọc công làm ruộng làm gì, bởi lão có thể làm giàu bằng cách khác. Bằng những cuộc mua bán đổi chác khôn khéo, trong một ngày lão có thể tạo nên cả một gia tài so với người Tây Nguyên, cái gia tài sẽ chảy tan hết thành rượu chỉ trong một đêm.
Lão mua mấy đồng bạc muối ở chợ, và trang bị món hàng ấy, lão đi đến xứ người Mạ, cách đấy hai ngày đường, tức khoảng năm chục cây số. Ðổi muối, lão lấy được một tấm chăn bông đẹp, do những người Mạ này dệt và thêu. Rồi lão trở về làng. Ở làng, có người sẵn sàng trả rất đắt để có được một tấm chăn như vậy. M. bán tấm chăn gấp mười lần giá mua. Lão lại trở lên xứ Mạ, ở đó lão đã để ý một cái ché rất cổ, mà người chủ lại không biết rõ giá trị. Lão tậu được chiếc ché với giá rất hời và mang đi đổi lại cho một cụ Già làng rất hiểu giá trị của nó, lấy hai mươi lăm con trâu. Vậy là chẳng phải khó nhọc, lão M. đã tậu được một gia tài kếch xù. Một vụ việc rủi ro nào đó xảy ra, hoặc giả lão uống rượu nhiều quá, thế là lão M. lại mất tất cả. Trong lúc ấy, ở làng, vợ lão đói.
Kẽ lữ hành - Anh ta hằng ngày sống thế nào thì cứ thế mà ra đi, hoặc gần như vậy. Buổi tối, anh quyết định mờ sáng hôm sau sẽ lên đường đi đến một làng xa nào đó, cách hai hay ba "đêm" đường, để mua cái này cái nọ, đòi một món nợ, hay thăm một người họ hàng.
Mặt trời vừa ló, anh đeo gùi lên lưng, chỉ mang theo đúng một nhúm gạo, và cũng có thể thêm một cái chăn. Anh cầm theo cái xà gạc, đôi khi là một ngọn giáo. Nhưng chủ yếu là phải có cái ống điếu. Bao giờ anh cũng có thể tìm được thuốc và thức ăn ở các làng hiếu khách mà anh sẽ đi qua. Ðối với anh không hề có chuyện phải dự tính trước này nọ, phải mang theo thức ăn, đồ dự phòng, quần áo để thay. Anh vốn là sao thì cứ thế mà ra đi, theo nhịp bước quen thuộc của mình, lúc nào đến thì đến.
Không bao giờ anh đi một mình - aram (không an toàn) - anh sợ lũ thú dữ. Vậy nên, dẫu hầu như chẳng bao giờ trò chuyện với nhau trên đường, thì đi cùng nhau hai hay ba người vẫn là dễ chịu hơn. Ðiều đó tạo nên sức mạnh và không phải bẽ mặt khi đến các làng xa lạ. Nhưng số người đi có đông đến đâu, họ vẫn đi theo hàng một, bước chân người đi sau dẫm đúng vết chân người đi trước; bề ngang con đường chẳng cho phép lối đi nào khác được. Một người trẻ tuổi đi trước, đàn bà đi giữa, Già làng đi sau. Khi sắp đến làng, người ta thay đổi vị trí: Già làng đi lên trước, để là người đầu tiên bước vào làng; những người khác theo sau.
Kỷ luật đi đường rất nghiêm nhặt; những chặng đường dài hai đến ba mươi cây số mỗi ngày, rất ít khi dừng lại nghỉ: chỉ hai hay ba giờ một lần. Nếu người lữ hành chưa kịp đến một làng mà đêm đã đổ ập xuống, thì anh ta sẽ dừng lại nghỉ trên đường. Anh dọn một chỗ để ngã lưng, đốt lửa bốn bên, trừ chỗ gần đầu, "sợ làm óc chảy tan ra mất", cắm cây giáo sát tầm tay, đặt chiếc gùi cạnh đầu và nằm xuống. Suốt đêm, thỉnh thoảng anh trở dậy, để thổi lửa. Và sáng ra, lại sảng khoái, sẵn sàng đi tiếp một chặng đường mới. Lot bbon cau... nau pôleng arang [2] . Người Tây Nguyên rất khoái chuyện ấy. Khi công việc đồng áng đã xong, khi thóc đã đóng kho và thời tiết còn khô, là mùa lữ hành đã đến. Ấy là lúc anh thích thú lên đường, rảo theo các con đường mòn, gùi trên lưng và dáo cầm tay. Bất cứ chuyện gì cũng có thể là cái cớ để đi thăm nhau và lại đáp lễ. Gùi trên vai và dáo cầm tay.
Cụ Già làng - Nguyên xưa là một thủ lĩnh, là "Vị Già làng" trong làng của mình, là ông-cậu-nhiều tuổi-đứng đầu-hội đồng-gia đình, hoặc chỉ là một cụ già bình thường đã nhiều con cháu tóc bạc xóa đi vì lao động và năm tháng, cụ già Tây Nguyên là một bậc hiền minh; cụ đã sống nhiều, và cụ đã biết mọi sự. Trong các cuộc bàn luận lời nói của cụ có trọng lượng; một số những câu châm ngôn của cụ được các thế hệ nối tiếp lặp lại, như những đoạn khúc của Luật tục. Sau khi qua đời, cụ đi vào thế giới của yalyao, của ký ức, của Truyền thuyết. Người ta đến tham vấn cụ trong một vụ mua bán, người ta xin ý kiến cụ khi có chuyện bất đồng, người ta phải nhờ đến kinh nghiệm của cụ khi pha chế các món thuốc hiệu nghiệm. Ðêm đêm, người ta lắng nghe cụ yalyao, kể lại những thời xa xưa, hát Truyền thuyết về những người anh hùng, những vị bán thần.
Kỳ thực cụ ít tuổi hơn vẻ bề ngoài, do từ bé đã phải chịu đựng một cuộc sống khắc nghiệt luôn phải chống chọi với các lực lượng của tự nhiên: thời tiết thất thường dữ dằn, cái lạnh đốt cháy da thịt, sự hùng mạnh của rừng mà cụ phải khai phá suốt đời, cụ lao động cho đến tận hơi thở cuối cùng. Nếu cụ không còn sức đi lên núi hay ra ruộng, thì cụ ở lại trong làng. Ở đấy, chỉ có cụ mới biết được cách uốn cong một chiếc cán xà gạc, bện dây, dệt chiếu, đan gùi, khoét những chiếc ống điếu. Ðôi mắt đã yếu, sung huyết, ướt nhèm của cụ vẫn biết cách đọc ra giá trị thực của một con trâu người ta gạ mua, đánh giá độ cổ xưa của một chiếc ché, phẩm chất của một thỏi sắt và biết có thể đem rèn nó được không. Quá già rồi, cụ hầu như chẳng còn bước ra khỏi nhà; mà, lặng lẽ, cụ vẫn bận bịu trăm công nghìn việc. Và đôi khi cụ vẫn thích nếm đôi ngụm törnom (rượu cần). Chính đấy là dịp để ta có thể nhận ra một nghịch lý trong tâm trạng của cụ, lẫn lộn giữa một thứ mặc cảm thua kém người với một niềm kiêu hãnh vô thức. Chính con vừa mới ngay trong ngày hôm ấy khúm núm trước một vị cấp trên không đáng kể nào đó, đến buổi tối, ngồi chễm chệ bên ghè rượu lại biểu hiện một vẻ kiêu hãnh đầy tự hào và hết sức tự nhiên thích thú bày tỏ giá trị của mình.
Chỉ có bọn trẻ mới lười biếng, còn cụ, bao giờ cụ cũng có một việc gì đó để mà làm. Nếu ta thấy cụ có vẻ nhàn rỗi, ấy là cụ đang vừa rít tẩu thuốc vừa ngẫm nghĩ, nhớ lại hay đang mưu tính một sự vụ gì đấy. Rất ít ngủ về đêm, cụ giữ cho bếp lửa luôn cháy để đỡ bị lạnh mà sinh ho và sưởi ấm cho mọi người trong nhà đang ngủ say. Thức dậy rất sớm, lại ăn ít, cụ nêu gương cho những kẻ sẽ nối nghiệp cụ, sẽ ngợi ca những ân huệ của cụ, như một vị thần ngày xưa.

*

Người Tây Nguyên từ đâu đến?Do vị trí địa lý của nó, Ðông Dương là một ngã tư về nhân chủng, ngày nay phô bày một sự đa dạng về hình mẫu và một sự rối mù về tộc người khiến nhà bác học phải hoang mang. Mêlanêdiêng, Inđônêdiêng, Môngôlôlốit, xô đẩy nhau, chồng lên nhau. Người Chàm, người Tây Nguyên, người Khạ, người Phnong, người Khơme, người Mường, người Thái xô đuổi nhau hay giao chéo với nhau.
Lúc này chưa thể đặt vấn đề phân loại rạch ròi; vấn đề quá ư phức tạp và tình hình nghiên cứu còn quá kém phát triển. Tuy nhiên, hình như có thể phân biệt các nhóm tộc người chính, có thể định vị trong không gian, nhưng khó xác định sự tiếp nối trong thời gian. Còn về các mối quan hệ của họ với nhau, thì chỉ có thể đưa ra những giả thuyết.
Ở đây chúng tôi không có ý định giải quyết vấn đề này đối với người Tây Nguyên. Loại hình thể chất của họ (nhiễm sắc tố, thân hình, hình dáng sọ) khiến họ khác biệt người Da vàng cũng như người Da trắng. Họ gần với người Da đen hơn, dù có điều nghịch lý về mặt địa lý. Dường như họ gắn với chủng tộc da màu đồng "inđônêdiêng", còn ít được biết đến, nếu như họ là một chủng tộc khác với chủng tộc da đen.
Quan điểm của chúng tôi chủ yếu là quan điểm của nhà dân tộc học, khiến chúng tôi đặt ra câu hỏi này, mà câu trả lời sẽ rất bổ ích cho sự hiểu biết về tính độc đáo và giá trị nhân loại học của người Tây Nguyên: họ thuộc nhóm tộc người nào? Nhiều phương diện trong nền văn minh của họ, các phong tục của họ, tôn giáo của họ, và ngay cả ngôn ngữ của họ, một số nghi lễ, các truyền thuyết, các kỹ thuật của họ rất giống với những người nguyên thủy ở các đảo Thái Bình Dương [3] , những người trên các dãy núi Trung bộ, những người châu Phi da đen [4] . Nhiều người, đến Tây Nguyên sau khi đã sống một thời gian ở châu Phi, thấy các ký ức của mình sống dậy và nhìn những người Tây Nguyên như những người đã quen biết. Ðôi khi ngay cả một số từ trong từ nguyên của người Tây Nguyên khiến họ nhớ đến Oubangui hay Congo. Chừng như tất cả những người này đều thuộc về một họ nhân chủng lớn nối từ những người Mêlanêdiêng châu Ðại Dương đến những người Nguyên thủy châu Phi xích đạo, qua toàn bộ thang màu những người bản địa vùng Sonde, vùng Malêdi v.v., mang khá nhiều những tính chất chung khiến ta có thể nhận ra một nhóm tộc người duy nhất mặc dù các khác biệt và sự phân tán của họ, trong đó các tộc người khác nhau ở Tây Nguyên là một tiểu nhóm. Những nghiên cứu dân tộc học so sánh chuyên biệt, đặc biệt về tôn giáo, ủng hộ đề xuất này. Người Tây Nguyên chỉ có điểm chung với những người Môngôlôít ở dáng vẻ bên ngoài, sản phẩm của những cọ xát và mài nhẵn do những tiếp xúc của hai nền văn minh cùng hiện diện.
Gắn người Tây Nguyên với họ nhân chủng người da màu đồng, coi họ là một tiểu nhóm tộc người của người Inđônêdiêng, thì vẫn chưa nói được họ đã đến chiếm vùng rừng núi Trung bộ này như thế nào, bởi vì dù họ là những cư dân xưa nhất ở khu vực này của Ðông Dương, không phải họ đã từng sống mãi mãi ở đấy. Trước đó họ ở đâu? Có người cho là họ đến từ Thái Bình Dương, những người khác thì cho rằng họ đến từ Trung Quốc.
Bác sĩ Huard, trong khi nghiên cứu các nhóm tộc người Ðông Dương, viết: "Vào kỳ thứ hai thời đại đồ đồng, một nền văn minh biển có ranh giới phía bắc là Nhật Bản và phía nam là Madagascar, đã đến vùng Insulinde và các bờ biển Ðông Dương. Nó có đặc điểm là gia đình loại hình mẫu hệ và tục nhuộm răng đen, còn lưu giữ, theo những mức độ hoàn toàn khác nhau, cho đến thời kỳ hiện nay..." Chúng tôi muốn ghép người Tây Nguyên vào nhóm người này, mặc dầu tác giả vừa nói trên đã tách ra khỏi đó "những nhóm cô lập các dân tộc lạc hậu". Chúng tôi không thể có lập trường rõ ràng. Chúng tôi chỉ muốn mang đến đây một bằng chứng, (không phải để khẳng định, mà là để làm rõ hơn những hiểu biết hiện nay, gợi ý những nghiên cứu khác), bằng cách sử dụng Truyền thuyết xưa của người Tây Nguyên.
Bởi vì người Tây Nguyên, tự trong chính họ, có những điều gì đó có thể định hướng cho các nghiên cứu. Quả là họ không biết chữ; không có một văn bản hay một công trình kiến trúc nào có thể dùng làm điểm mốc. Nhưng, tự trong tâm hồn họ, họ có Truyền thuyết cổ xưa, mà những người già vẫn hát để dạy bảo cho các thế hệ trẻ. Những cụ già làng ấy "biết" họ từ đâu đến. Sử thi truyền thống rất giàu những chi tiết về thời xa xưa khi người Tây Nguyên chưa sống trên rừng núi ngày nay; nó cho phép ta phục dựng lại lịch sử của họ. Là giả thuyết, đương nhiên, song mỗi đề xuất đều có nhiều truyện kể Truyền thuyết làm chỗ dựa. Ðây là lịch sử của Tây Nguyên, như người Tây Nguyên kể lại.

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2003



[2]Dich sát nghĩa theo tiếng Srê và Giarai: "Ði-làng-người"
[3] Người ta nhận thấy ở người Khạ những căn lều kiểu dáng mêlanêdiêng
[4] Xem Marcel Griaule : Thần nước - NXB. Chêne, Paris 1948.

Phần II
Lịch sử xa xưa
"Khởi nguyên, trước tất cả mọi chuyện, có một người đàn ông và một người đàn bà sống bên bờ đại dương, dưới chân ngọn núi Kang R Naê. Ðó là uong Khot uong Kho, hai người Kon Cau đầu tiên, tổ tiên của chúng tôi. Họ xuất hiện trên mặt đất chính tại nơi đó, những người đầu tiên. Những người khổng lồ đó, cùng với con trai của họ là Bung, là những người thợ của tạo hóa, được tưởng tượng ra trong tư duy của Thần Ndu... (nhưng sau một cuộc cãi vã gay gắt với bọn hổ, oung Khot uong Kho buộc phải chạy trốn lũ thú họ mèo này, chúng săn bắt họ)... Họ chạy trốn ra biển. Bọn hổ lần theo mùi mà đuổi theo họ. Chúng cũng ra đến biển, mà uong Khot uong Kho vượt qua được, đến một hòn đảo. Bọn hổ chặt tre và bắt một chiếc cầu. Chúng lên cầu. Uong Khot uong Kho rất sợ; họ nghe con chim-mang-lửa hót, họ van xin chim đốt cháy cầu, khiến bọn hổ rơi xuống nước... Uong Khot uong Kho ở lại trên đảo. Họ sinh nhiều con, chúng sống cùng họ; các cô con gái của họ rất đẹp. Từ trên bờ lục địa, người Trung Hoa và người Chàm ngắm các cô. Họ đi thuyền đến tận nơi thăm các cô, rồi lấy các cô làm vợ. Về sau, những người Tây Nguyên đầu tiên chán sống trên đảo, một mình giữa biển; họ đến sống trên lục địa, ven đại dương".
Như vậy người Tây Nguyên nguyên gốc ở một lục địa, mà nhiều truyền thuyết đều nhắc đến. Nó ở phía mặt trời mọc, "ở phía bên kia biển" (Biển Ðông). Trong Trường ca Chöi Böling Chöi Bölang, lục địa ấy tên là Börjul; hai anh em Böling Bölang vượt biển, trên lưng một con vịt kỳ diệu, để đến được nơi đó. Trong một trường ca khác, Trong con trai của Tree, từ miền đất đó, vượt biển trên lưng một con cá voi để đến vùng bờ biển Trung bộ nơi họ giải phóng cho những người anh em Tây Nguyên của họ bị một tên bạo chúa thống trị buộc phải nộp người làm lễ hiến sinh, "khi tổ tiên còn sống bên bờ đại dương". Người đẹp Lang, con gái của Thần Mặt Trời Mọc, rời nhà người bác của cô vốn sống ven bờ biển, đi lấy chồng ở bên kia biển, phía mặt trời lặn, "nơi chúng tôi đang sống hiện nay". Như vậy lục địa của Lang là ở bên kia đại dương so với bờ biển Trung bộ. Khi những người già Tây Nguyên moi tìm trong ký ức xa xưa nhất, nhớ lại những truyền thuyết cổ xưa nhất của dân tộc mình, bao giờ lục địa đó cũng hiện lên như là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử được biết đến của họ.
Rồi có một giai đoạn sống, có vẻ khá ngắn, trên một hòn đảo, mà người Tây Nguyên rời bỏ để cuối cùng đến sống trên vùng đất ngày nay ta gọi là Trung bộ. Ở đấy, thoạt tiên họ sống ven bờ biển. Ðấy là thời kỳ của những thủy thủ, những chiến binh, những người anh hùng. Truyện kể về họ làm nên những trường ca đẹp nhất của Truyền thuyết; nghìn lẻ một đêm cũng không đủ để kể cho hết chất liệu hầu như vô tận của chúng. Ðầy rẫy trong ấy những ám chỉ về đời sống trên biển, cũng như những cuộc du hành trên biển cả, nối liền với lục địa cội nguồn. Anh em Siat Siong đi một vòng lớn trên hòn đảo giữa đại dương để chống lại các dân tộc láng giềng muốn tấn công họ. "Cô nàng Quả Xoài" đi thuyền độc mộc, đánh một trận thủy chiến, chống lại một gia đình thù địch thề giết chết cô; bị đắm, cô rơi xuống đáy biển, nhưng sóng lại đưa cô lên bãi cát ven bờ ở đó cô sống lại sau ba ngày. Nhiều truyền thuyết ca ngợi Me Boh Me Bla, "mẹ của muối", người đã đem muối đến cho người Tây Nguyên, con lươn biển thiêng liêng, và các cuộc chiến đấu anh hùng của bà chống lại cá voi, v.v.
Như vậy, sau khi rời hòn đảo của mình, người Tây Nguyên đã đến ở trên vùng bán đảo nay là Ðông Dương, và ở bên bờ biển, mảnh đất đầu tiên họ gặp. Theo truyền thuyết dường như lúc đó họ không gặp ở đây một dân tộc khác; nơi này chưa có ai ở. Tuy nhiên họ không phải là những người đầu tiên trên xứ sở này. Trước họ đã từng có những người không ai biết rõ còn để lại những chiếc cuốc và những chiếc rìu bằng đá, mà thỉnh thoảng ta còn nhặt được. Người Tây Nguyên không hề có một khái niệm gì về cuộc đi qua của những người nguyên thủy này, và thường gắn cho các công cụ khiến họ rất đỗi kinh ngạc đó một nguồn gốc thần thánh.
Rồi sử thi Tây Nguyên nói về những người Chàm trên vùng bờ biển và nói rất nhiều về người Chàm. Nhưng không hề nói gì về nguồn gốc của họ. Họ đã đến đây như thế nào và theo con đường nào? Họ có đánh nhau với người Tây Nguyên không? Truyền thuyết không hề nói gì về những điều đó cả, cứ như giai đoạn này đã bị rơi vào quên lãng. Ta thấy thoạt tiên những người mới đến sống trên vùng bờ biển Trung bộ, rồi sau đó chỉ nói đến các quan hệ của họ với người Chàm, mà họ cùng chia xẻ vùng bờ biển này và họ tự nhận là chư hầu, dù có thấy nói rằng: "Chúng tôi và người Chàm là anh em cùng một mẹ". Qua lịch sử, ta biết những điều này xảy ra vào thế kỷ thứ II sau công nguyên, cuộc xâm nhập đầu tiên của những người Inđônêdiêng, ít lâu sau đó được Ấn Ðộ hóa, dẫn đến việc thành lập nước Champa ở vùng Quảng Nam vào năm 192.
Ðây là thời kỳ tốt đẹp của việc người Chàm tổ chức người Tây Nguyên thành các đơn vị hành chính, với những người đứng đầu do họ chỉ định. Trước đó là tình trạng vô chính phủ hoàn toàn ở vùng Tây Nguyên; thậm chí trong các phương ngữ không hề có các từ để chỉ tôn ti của các thủ lĩnh, để chỉ các vùng trong một xứ sở. Các từ mà người Tây Nguyên hiện dùng để chỉ: tỉnh, tỉnh trưởng, huyện trưởng (lögar, pô lögar, pô prong) đều là từ mượn của tiếng Chàm. Người Chàm dạy cho người Tây Nguyên làm ruộng nước (ảnh hưởng Chàm trong từ vựng chỉ công việc này cũng chứng minh điều đó). Họ thực dân hóa người Tây Nguyên và mang đến cho nền văn minh nguyên thủy bị đông cứng của người Tây Nguyên một sự tiến bộ thực sự. Không thể tránh được việc họ buộc người Tây Nguyên phải đóng thuế theo làng và bằng hiện vật (lợn, tấm chăn, da thú...) Ngay cả khi đã ở dưới sự thống trị của người Việt sau này, người Tây Nguyên vẫn tiếp tục đóng thuế cho người Chàm, để rồi người Chàm lại nộp cho tôn chủ mới của mình. Ngoài ra, người Chàm còn tuyển mộ người Tây Nguyên làm phụ tá trong quân đội của họ; người Tây Nguyên mang tên cho người Chàm bắn.
Thời kỳ đô hộ của người Chàm có vẻ là một thời kỳ rất sung sướng. Ðúng là người Chàm coi người Tây Nguyên là hạ đẳng: trong truyền thuyết Chöi Köho và Nai Tölui, hôn nhân giữa con gái của một thủ lĩnh Chàm với một người thanh niên Tây Nguyên bị coi là không tương xứng; nhưng người Chàm không phải là những bạo chúa. Quyền lực của họ là do uy tín rất lớn của họ, được công nhận một cách tự nguyện. Có một sự đồng thuận tốt đẹp. Người Tây Nguyên công nhận rằng những người chủ của mình đã dạy họ rất nhiều điều. Rất nhiều câu chuyện trong truyền thuyết kể về những mối quan hệ thân thiện này: truyền thuyết về Du Droe, hai người con gái Tây Nguyên có chồng được người Chàm cử làm người đứng đầu vùng đất của họ và trở thành những nhân vật quan trọng, giàu có và sung sướng; truyền thuyết về Tu dam Tong được người Chàm ban cho nhiều ân huệ.
Về sau, những cuộc hôn nhân giữa người Chàm và người Tây Nguyên thắt chặt các mối quan hệ giữa họ với nhau. Chúng ta đã nói rằng cuộc hôn nhân đầu tiên giữa Chöi Köho và Nai Tölui có phần không hay; nhưng việc đó được nhanh chóng chấp nhận. Câu chuyện rất đẹp về Gliu Glah mô tả mối tình giữa một thủ lĩnh Chàm và một cô gái Tây Nguyên.
Truyền thuyết hình như còn chứng minh một sự kiện đặt ra rất nhiều bài toán cho các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học. Khi người Tây Nguyên còn ở ven biển, họ chỉ là một tộc người [1] và đều nói chung một thứ tiếng gọi là ddös pöddik, một thứ ngôn ngữ xưa mà Truyền thuyết ngày nay vẫn còn được hát, một thứ ngôn ngữ cổ và bí mật chung cho nhiều tộc người mà các phương ngữ chẳng qua có khác nhau.
Trong thời kỳ phồn thịnh này, dân cư Tây Nguyên dường như đã đông lên rất nhiều so với người Chàm. Họ bị thiếu đất (họ giải thích như vậy) và phân tán về vùng đất phía sau, nhường vùng đất ven biển, tốt hơn, cho những người chủ của họ. Họ tiến sâu dần vào vùng đất này, thoạt tiên trên sườn phía đông của dãy Trường Sơn, là vùng đất còn màu mỡ và lành; rồi ngày càng sâu hơn nữa, tiến vào rừng, tổ chức thành vùng Cao nguyên, cho đến vùng đất do người Êđê và người Stiêng chiếm ở. Chính cuộc phát tán này khiến họ không bị Ấn Ðộ hóa như người Chàm, "lạc hậu", nhưng lại còn giữ lại được cho đến ngày nay, trong khi người Chàm đã bị biến mất một cách tiềm tàng.
Truyền thuyết kể rằng: "Vào thời ấy, tổ tiên chúng tôi trở nên đông đúc hơn từ khi không còn lệ hiến sinh người, đã cư trú trong vùng nội địa, trong khi người Chàm vẫn ở ven đại dương". Cuộc xâm lấn của những người da vàng tìm thấy những người Tây Nguyên đã định cư; nó ngăn cản họ tràn xuống, hơn là đẩy họ lên phía núi. Ngày nay, dù họ đã rời xa biển, song ký ức về biển trong họ vẫn còn sống động. Cuộc sống ven biển đã để lại những dấu vết rất đậm ở họ. Ta thấy những dấu vết của cuộc sống ở biển cổ xưa ấy cả ở những người Khạ bên Lào.
Việc người Tây Nguyên rời bỏ vùng ven biển, nơi họ đã cùng chung sống, lên vùng núi nội địa, là nguồn gốc tạo ra sự khác biệt của phương ngữ: "Ngày xưa tổ tiên chúng tôi nói cùng một tiếng nói, nhưng họ không còn hiểu nhau nữa khi họ phân tán ra khắp các hướng".Quả vậy, có thể núi non ngăn cách bởi các thung lũng và các cao nguyên không có đường thông thương với nhau, người Tây Nguyên, nhóm này cô lập với nhóm khác, đã chia thành các tộc người có phong tục mỗi nhóm phát triển theo hướng riêng của mình. Ngôn ngữ có thể cũng chịu một số phận như vậy và cũng đã có thể chịu ảnh hưởng của các tiếng nói khác lạ, Khơme hay Chàm, tùy theo vị trí địa lý, cho đến chỗ tạo nên những phương ngữ hiện tại trong đó ít nhất phần lớn vẫn còn giữ dấu vết của một nguồn gốc chung.
Một sự kiện mới làm đảo lộn lịch sử Tây Nguyên: cuộc đổ bộ của người Việt, vào thế kỷ XIII đến vùng ven biển, khuất phục người Chàm và làm tê liệt người Tây Nguyên. Người Chàm liên tục khuất phục rồi lại vùng lên tự giải phóng; nhưng áp lực của người Việt càng lúc càng bức bách hơn. Năm 1471 kinh đô Chàm cuối cùng sụp đổ. Truyền thuyết còn lưu giữ ký ức về một cuộc chiến lớn giữa một bên là người Chàm và người Tây Nguyên, bên kia là người Việt. Nơi diễn ra chiến trận là vùng Jödöng, ở phía nam xứ sở của người Gia-rai, cách bờ biển năm mươi cây số.
"Sankah, thủ lĩnh Chàm, đi đánh những kẻ xâm lược; nhưng ông phải gọi người Tây Nguyên giúp, vì các đội quân Chàm của ông không đủ. Ông mời họ làm phụ tá trong quân đội của ông; ông mời những người Cau Srê, người Mạ, người Noang, người Raglay, tất cả các làng. Người Việt chỉ có những con dao lớn. Chúng ta, những người kon kau, chúng ta có tên, người Chàm thì bắn cung; chúng ta mang gùi, Tamrac, thủ lĩnh người Raglay luôn tập họp những người kon kau phục vụ cho người Chàm. Ông bảo mỗi người nhặt lấy một hạt cát; tất cả dồn lại đầy bảy thúng, chúng ta đông đến như vậy đấy. Người Việt cũng làm như vậy và cũng đựng đầy bảy thúng; họ cũng rất đông. Chúng ta xông trận, bảy ngày và bảy đêm. Người Việt bắt được Tamrac; họ đan một chiếc rọ, bỏ ông vào đấy và ném xuống biển. Nhưng Tamrac đã làm một hình nhân của mình, một hình nhân biết nói, và chính là người Việt đã bắt được cái hình nhân ấy và ném xuống biển. Tamrac vẫn tiếp tục động viên người của mình xông trận. Bất phân thắng bại. Những người chỉ huy bàn bạc với nhau. Người Việt muốn cai trị xứ sở này; họ sẽ cho những người Tây Nguyên phục vụ họ các thứ: quần áo, chăn và rất nhiều thứ khiến người Tây Nguyên ham thích. Người Chàm không muốn chỉ huy người Tây Nguyên nữa; họ nói với người Việt: "Từ nay người Tây Nguyên sẽ phục vụ các người"...
Người Tây Nguyên chấp nhận tình thế đó, vả lại người ta để cho họ được tự do ở trong rừng núi che chở họ.
Quả là người Chàm thua xa người Việt về số lượng và sức mạnh; song dường như nền văn minh của họ - đã từng biết đến một thời cực thịnh mà người Tây Nguyên có được hưởng lợi - lúc này đang suy thoái, điều đó khiến người Tây Nguyên phải chuyển sang chịu một nền thống trị khác, từ nay người Chàm chỉ còn là những kẻ trung gian giữa người Tây Nguyên định cư trên núi với người Việt ở miền duyên hải.
Bấy giờ người Việt không mạo hiểm vào các vùng nội địa không có đường sá; ngoài ra, không có trang bị tốt hơn người Tây Nguyên, họ sợ những người "hoang dã" này. Dù làm chủ nhưng họ không chiếm đóng vùng đất này. Vả chăng, người Tây Nguyên phải đi xuống chỗ người Việt. Họ cần những thức ăn mà họ không tìm thấy trong nội địa, vì nhu cầu kinh tế; việc buôn bán muối và cá cần cho đời sống hàng ngày của họ. Những cuộc trao đổi ngày xưa với người Chàm nay được tiếp tục với người Việt. Hàng năm người Tây Nguyên xuống núi, trả một món thuế cho người Chàm khi đi qua và buôn bán ở vùng ven biển, là một thứ thị trường tự do chẳng hề phương hại cho người Tây Nguyên bấy giờ còn phồn vinh. Chính từ đó mà có thói quen gọi các thành phố duyên hải là dra drong (chợ lớn).
Hiện nay, còn có những người già, rất nhiều tuổi, còn biết thời đó, trước khi người Pháp đến; họ vẫn giữ một ký ức tốt đẹp về những chuyến đi ấy và về mối quan hệ với người Việt ngày trước.
Người Việt đã phát triển các tổ chức cai trị do người Chàm bắt đầu. Theo đề xuất của các thủ lĩnh trong xứ, họ chỉ định người uong phu, là cấp trên của những người đứng đầu các tổng. Còn người Chàm, mà một sự im lặng trùm lên vinh quang đã qua, số lượng người của họ đã giảm đi nhiều. Ngay cả trước khi người Pháp đô hộ, người Tây Nguyên đã không còn có quan hệ với người Chàm nữa và đã nộp thuế trực tiếp cho người Việt. Nhiều cuộc hôn nhân gắn người Chàm với người Tây Nguyên ở phía nam, ở đấy, theo một cách nào đó, ngày nay họ đang hồi sinh. Phương ngữ Raglay là một thổ ngữ Chàm, phôn-clo Srê vay mượn rất nhiều của người Chàm, được những người hát rong trữ tình ở vùng Srê cứu thoát khỏi sự quên lãng trong các bài ca Cô nàng hột xoàiVị hoàng đế biết ơn.


*

Lịch sử đương đạiNước Pháp đã làm nên một chương mới trong lịch sử người Tây Nguyên. Mới, bởi vì sau cuộc thống trị của những người da vàng, họ chuyển sang cuộc thống trị của người da trắng đến lượt mình xâm nhập vào Ðông Dương; mới, bởi vì lần này những kẻ thống trị chiếm đóng xứ sở đến tận những vùng núi nội địa sâu nhất.
Chỉ trong vòng năm mươi năm sau cuộc thâm nhập của người Pháp và việc tổ chức hành chính cố định ở các tỉnh, người Tây Nguyên đã thực sự bị thực dân hóa. Trước năm 1900, cả xứ sở này còn hoàn toàn là một vùng rừng rú không ai biết đến. Chỉ có đôi nhà thám hiểm nhìn tận được gần những người Tây Nguyên. Ðối với họ, nước Pháp là gì? Ðây là những điều Nouet viết năm 1884: "Họ không đóng một thứ thuế nào hết, không có trường học, không phải đi phu; người ta để cho họ sống, hay đúng hơn không chết đói. Một hay hai lần trong năm, họ nhìn thấy một nhân viên thuộc địa. Có phải là một viên chức đến tìm hỏi những nhu cầu của họ, một người thầy thuốc đến tiêm phòng cho họ, một người đo vẽ địa hình đến lập bản đồ chăng? Không hề, đấy là một người kiểm lâm, đối với họ là hiện thân của sức mạnh và nền thống trị của Pháp. Ông ta đến để xem xem, kể từ lần đi tuần trước của ông đến giờ, người ta có đốt rừng để trồng lúa không. Ðương nhiên việc ông ta thực hiện công vụ của mình là phải lẽ, song giá ông mang đến được một chút kiên nhẫn và khoan dung trong các lần tiếp xúc ngắn ngủi với một chủng tộc hiền lành và khuất phục... Ðiều tôi muốn lưu ý là về Chính phủ Pháp, những người Mọi của chúng ta chỉ tuyệt đối biết có mỗi một điều: đó là người Pháp cấm không cho họ làm rẫy..."
Các hiệp ước ký với Hoàng đế An Nam trao cho nước Pháp đi chinh phục quyền tổ chức xứ sở và vùng nội địa, vùng nội địa này vẫn gắn với Triều đình. Như vậy, chẳng phải khó khăn chút nào, người Pháp đã là chủ nhân của xứ sở này trước khi đặt chân đến đây, chủ nhân từ xa, chẳng biết chút gì về các thần dân của mình và chẳng làm chút gì cho họ cả.
Nhưng trong thời gian đó, những người Tây Nguyên ở vùng Kontum đã chịu ảnh hưởng của các giáo sĩ đã đến đây trước các đội quân rất lâu, tổ chức xứ sở này, tìm cách Cơ-đốc hóa nó. Những giáo sĩ đầu tiên đã đến ở đây từ năm 1850, lúc bấy giờ vùng này còn rất độc, không ai biết đến và "hoang dã". Thiết lập các làng-bảo tồn, mở trường học, một nền kinh tế được điều khiển: công cuộc khai hoang đã được làm trước khi nhà nước Pháp đặt chân đến. Ít lâu sau khi các giáo sĩ đến vùng người Bana, năm 1860, cha Azémar đã đến ở vùng người Stiêng. Cuộc thám hiểm đầu tiên của người Pháp vào vùng nội địa chỉ diễn ra hai mươi năm sau đó.
Năm 1880, bác sĩ Neiss tiến hành một cuộc khảo sát ở vùng Bà Rịa. Rồi Gautier tiến hành nhiều cuộc thám hiểm, đi ngược sông Ðồng Nai từ Biên Hòa, đi ngược các sông khác đưa ông đến vùng người Stiêng. Mười năm sau, bác sĩ Yersin, từ bờ biển phía đông, đi vào toàn bộ vùng nay thuộc phía nam đường 20. Ông đến Liang Biang và nhận ra được nơi sẽ là Ðà Lạt sau này, rồi vùng Djiring hiện nay, đến vùng tộc người Dala, ở phía tây. Vào đầu thế kỷ, lần đầu tiên một cuộc thám hiểm gặp phải một sự kháng cự của người Stiêng. Nhưng nhìn chung, người Tây Nguyên tỏ ra không có phản ứng trước bước tiến của người da trắng; từ nhiều thế kỷ, họ đã quen phục vụ người nước ngoài, chịu khuất phục trước kẻ mạnh hơn. Thái độ đó không phải là một sự thụ động ươn hèn mà là kết quả của một mặc cảm thua kém do cuộc thống trị trước đó cố tình duy trì. Hoặc là nước Pháp đến lượt mình cũng nuôi dưỡng mặc cảm đó bằng cách nô lệ hóa người Tây Nguyên, và đấy sẽ là sự tuyệt diệt của các dân tộc này; hoặc là nó phải xóa bỏ điều đó đi, nhất là bằng giáo dục, và khiến họ trở thành một dân tộc xứng đáng với tên gọi đó.
Nếu cuộc thâm nhập được tiến hành gần như không phải chiến đấu, thì không phải nó không có tổn thất. Khí hậu độc hại đã gây ra những nạn nhân trong số những người tiên phong. Ðôi người cai trị mà người Tây Nguyên hay nghi ngờ không tin tưởng cũng trở thành nạn nhân. Ðến nay, cả xứ sở đã được khuất phục, trừ đôi bộ phận không chịu nộp thuế.
Các cuộc thám hiểm đã chuẩn bị cho việc vạch ra các con lộ: từ Biên Hòa về hướng bắc, là đường Liên bang từ Sài Gòn lên Ðà Lạt qua Djiring, theo các con đường ấy các nhà cai trị đi sâu và đóng lại ở các tỉnh lỵ và ở đó các nhà quân sự tiến lên và đóng các đồn. Một hệ thống các thủ lĩnh bản địa được thiết lập; Quân cảnh vệ bản xứ mộ các cảnh binh; đôi ba bệnh viện và trường học được mở ra, hết sức không đầy đủ. Các cố gắng lớn nhất được tập trung vào người Êđê, là tộc người tiến bộ nhanh hơn cả.
Cuộc thống trị nào cũng gắn với một chế độ cống nạp. Người Tây Nguyên đã nộp một loại thuế bằng hiện vật cho người Chàm, rồi cho người Việt; bây giờ họ nộp cho người Pháp. Các nghị định đầu tiên quy định một chế độ thuế phải chăng: mấy ngày làm sưu, có thể chuộc một phần, tùy theo của cải (bao nhiêu ngày đó cho một con trâu, v.v.).
Nhưng dần dà, người Tây Nguyên phải cung phụng nhiều hơn; thuế ngày càng nặng và nhất là các cuộc trưng dụng càng nghiệt ngã hơn, do việc các nhà trồng trọt bắt đầu đến hoạt động ở đây. Chính phủ tiên liệu những hiểm nguy; năm 1935, viên thống sứ Nam kỳ thông báo: "Tôi đã có những chỉ dẫn nghiêm khắc yêu cầu chấm dứt lối mộ người này có thể lẫn lộn với một hệ thống bắt sưu: nhân công người Mọi ở các đồn điền phải được tự do". Nhưng người Tây Nguyên đã mất đi quyền lao động.
Một đợt tăng đột ngột các nhà trồng trọt đã làm dấy lên những vấn đề nhân khẩu nghiêm trọng và dẫn đến chỗ giết chết lao động gia đình truyền thống. Chẳng phải là một người Tây Nguyên gần đây đã nói: "Chúng tôi là những con bò" đấy sao. Ðấy là chế độ nô lệ. Người Tây Nguyên đòi phần được đền bù của mình
Ngày nay những người dân Tây Nguyên bị các gánh nặng đè nát. Lao động cưởng bức rứt họ ra khỏi ruộng nương, dẫn đến nghèo khốn, đôi lúc cả đói, và dần dần suy thoái. Bác sĩ Delbove nhấn mạnh đến bệnh sốt rét khiến họ bị chết hàng loạt - mối họa này vốn đã có từ trước khi người ngoại quốc đến nhưng không ngăn cản một sự phồn vinh nhất định ở vùng này. Ông cũng báo động về ảnh hưởng tai hại do những người nơi khác đến dần dần đẩy lùi những người nguyên thủy bản địa vào những vùng đất không thuận lợi, hoặc ngược lại vây bọc họ lại thành một một nhúm những người rẻ mạt. Rượu, bệnh giang mai do những người chinh phục mang đến một cách hào phóng chắc chắn góp một phần lớn vào sự suy thoái về phẩm giá mà phần đông những người Mọi ở vùng nội địa Ðông Dương phải chịu đựng một cách khốn khổ.
Hiện nay tình trạng người Tây Nguyên không thể không khiến nhà cầm quyền lo ngại. Người ta ý thức được món nợ của chúng ta đối một dân tộc mà ngay cả sự tồn tại đang bị thách thức. Ðúng là sự phát triển về y tế sẽ là một nhân tố tự vệ quan trọng; nhưng dường như chính giáo dục góp phần quan trọng hơn cả làm cho các tộc người nguyên thủy này nhanh chóng được bình đẳng với những người khác. Qua nhà trường, việc thu bớt các phương ngữ lại chỉ còn hai hay ba cái chính sẽ đem lại một sự phong phú và một sức mạnh mới đưa đến kết quả là sự thống nhất. Cũng giống như trong thời kỳ tốt đẹp ngày xưa được ca ngợi trong các truyền thuyết, những con người Tây Nguyên, thống nhất lại, sẽ hiểu nhau hơn, sẽ nối lại những mối dây liên hệ tạo thuận lợi cho các tiếp xúc và trao đổi, sẽ có ý thức về phẩm giá làm người của mình và về những giá trị chung mà họ là tiêu biểu.

II. Các tộc người, các phương ngữ và diện mạo của họNúi non ngăn cách, nếu không phải là nguồn gốc của việc chia người Tây Nguyên thành các tộc người, thì dầu sao cũng là một nhân tố chính của sự khác nhau giữa các tộc người này, khiến họ, từ một thời không còn ai biết, song chắc hẳn là rất xa xưa, mỗi tộc người đều có một lối sống riêng, một đơn vị riêng độc đáo và không hề biết đến một trung tâm bên ngoài nó. Tình trạng cô lập không tuyệt đối; nó không loại trừ những tiếp xúc và ảnh hưởng, nhưng nó khá đậm để khiến cho mỗi nhóm người có một cá tính ở đó một con mắt giàu kinh nghiệm có thể nhận ra đôi tính cách nhân chủng học (hình thù của đôi mắt, của vầng trán) và nhất là dân tộc học (trang phục, cấu tạo của chiếc rìu, của chiếc xà-gạc, giọng nói) chỉ rõ một cá nhân nào đó thuộc về một tộc người nào.
Vị trí địa lý, tính chất của vùng đất, các khả năng của nó, đã làm biến đổi một số thiên hướng nào đó của người Tây Nguyên, tạo nên lối sống của họ, góp phần tạc thành tính khí của họ. Ðất đai điều kiện hóa các kỹ thuật, cũng như con người chọn lấy cho mình mảnh đất thích hợp.
Cao nguyên khiến người ta làm ruộng lúa nước, dễ làm. Rừng già đòi hỏi phải khai phá một cách khó nhọc mới trồng trọt được. Sự có mặt của cây lát, cây mây đưa người ta đến công việc đan đát. Những khu rừng tre rộng lớn cung cấp vật liệu để xây dựng những ngôi nhà sàn nhẹ nhàng, thoáng đãng. Những cây gỗ cao lớn, ngược lại, gợi cho người ta vạt đẽo, cưa xẻ, làm những tấm ván sàn. Bao nhiêu vùng, bấy nhiêu kiểu xây dựng, bấy nhiêu tính cách con người. Cũng như ở mọi nơi, người ta chọn chỗ gần nước, các con suối trên núi, hay sông ở cao nguyên làm nơi dựng làng.
Nếu trong thời cổ xưa, người Tây Nguyên giống nhau, dường như các yếu tố địa lý mà chúng tôi vừa kể ra đã góp phần dần dần khiến cho mỗi tộc người có một diện mạo riêng.
Hiện nay người Tây Nguyên cư trú theo tầng trên dãy Trường Sơn, chiếm các cao nguyên, sườn đồi, núi cao. Và cứ như thế, suốt hơn năm trăm cây số từ bắc xuống nam. Ðất đai khác nhau tạo ra nhiều nền canh tác: cây lương thực (lúa - lúa nước hay lúa rẫy -, ngô, mía, bí ngô, dưa chuột, khoai lang); cây ăn quả: chuối, cam, mít; trồng bông (tộc người Mạ), cây gạo, cây thuốc lá. Mỗi tộc người tiến hành một nền sản xuất mà đất đai của họ cho phép, tình hình đó là nguồn gốc của sự trao đổi. Lúa không đủ để sống và có những tộc người thậm chí sản xuất lúa không đủ ăn.
Người Tây Nguyên nuôi lợn, dê và gia cầm, dùng để cúng tế; họ nuôi ngựa để cưỡi, trâu để cày đối với các tộc người làm ruộng nước và tất cả các tộc người đều dùng nó làm vật hiến tế. Các tộc người ở phía tây nuôi voi.
Lòng đất giàu khoáng sản không được khai thác: sắt, đồng, chì chứa bạc, ga-len. Có vàng, trữ lượng nhỏ, trong lòng cát của các dòng sông. Người Tây Nguyên chỉ khai thác sắt, và cũng chỉ ở một số ít nơi.
Ở thung lũng, trên cao nguyên, đồng cỏ được biến thành ruộng nước; ở đây đời sống dễ chịu hơn, con người khá giả hơn. Trên vùng núi, con người chinh phục rừng để làm rẫy lúa hàng năm. Vùng đất càng có nhiều thung thì rừng rú càng phát triển mạnh: con người phải chống chọi thường xuyên với thiên nhiên, những loại cây có sức sống dai dẳng vừa cắt xong đã mọc lại, những dây leo lấn lướt, những loài thú dữ hại người và hại hoa màu. Ðời sống ở đây khó nhọc hơn, nhưng đức hạnh của con người cũng tốt đẹp hơn, phẩm giá con người cao hơn. Tuy nhiên con người cần có một sự sung túc tối thiểu, nếu không họ sẽ có nguy cơ bị suy thoái. Nếu đất đai quá xấu, sự nghèo khốn sẽ đến mức ngăn cản mọi tiến hóa xã hội. Ðấy là trường hợp người Cil, lạc hậu nhất trong các tộc người Tây Nguyên.
Ði từ phía bắc vào, trước tiên ta gặp người Xơđăng, người Rơngao, người Bana, những tộc người ở trên núi sống trên một vùng đất hiểm trở, phủ rừng, ít thuận lợi cho việc trồng lúa nước, có năng suất cao hơn lúa rẫy. Ngày xưa các tộc người này rất dễ đi đánh nhau để cướp bóc và kiếm lấy của cải để sống. Ðặc biệt là người Xơđăng, giỏi làm ra vũ khí hơn là sản xuất trên đất đai nghèo nàn, vào "thời trung cổ" nổi tiếng đến tận phương nam là những chiến binh hung dữ và hiếu chiến. Ðến tận ngày nay, một người da trắng cẩn trọng không dám phiêu lưu một mình quá sâu vào vùng đất của họ. Hiện nay các giáo sĩ ở Kontum đã biết rõ về người Xơdăng, Rơngao, Bana và Giarai, họ có đến hai mươi nghìn con chiên trong các tộc người này.
Người Êđê ở Ðaklak. Ở đây, nhất là ở tỉnh lỵ Buôn Ma Thuột, ta gặp những người Tây Nguyên tiến bộ, có học, khá giả hơn cả. Nhiều người đã rời bỏ quê hương, trở thành giáo viên, y tá v.v. ở các tộc người khác.
Ở phía nam vùng Êđê, người Bih nói ngôn ngữ Chàm, trung gian giữa người Noang và người Êđê.
Người Mạ làm thành một nhóm quan trọng ở về phía tây-bắc con đường đi từ Sài Gòn lên Ðà Lạt. Ta có thể phân biệt những tiểu nhóm như người Mạ Ja ở Liang Biang; nhưng họ là một nhóm tộc người thống nhất do có cùng một phương ngữ chung, một cách thức giống nhau trong việc xây dựng các ngôi nhà sàn, những trang trí giống nhau. Họ là những chuyên gia trong nghề làm những tấm chăn bằng bông, những trang phục thêu, những vòng đeo tai bằng ngà rất đẹp.
Người Stiêng sống ở phía tây người Mạ, ngày xưa được các nhà thám hiễm đầu tiên, và Hội truyền giáo bấy giờ đóng ở Brölam nghiên cứu kỹ hơn cả. Rồi cuộc suy thoái đã ngăn cản sự phát triển của họ. Người Stiêng là những người gần với những người Khơme láng giềng hơn cả, về mặt địa lý và văn hóa, trong số các tộc người chúng ta nghiên cứu; họ đã chịu một thời đô hộ của người Khơme, còn được chứng minh trong các sản phẩm nghệ thuật của họ. Họ vẫn còn giữ nhiều mối quan hệ với người Phnong, tức những người "Mọi" ở Cămpuchia.
Tộc người Mạ là trung gian giữa những người Tây Nguyên Khơme hóa này và tộc người Srê, mà họ cùng chia xẻ cao nguyên Ðồng Nai Thượng. Người Srê ở Djiring, đúng như tên gọi của họ [2] , là những người làm ruộng nước ở đồng bằng; điều đó khiến họ khác với các tộc người khác hầu như chỉ làm rẫy trên núi, và khiến họ là một tộc người tiến bộ hơn cả, trước khi có ảnh hưởng của người Pháp đến vùng Êđê. Xứ sở Djiring có nhiều vùng bằng phẳng mênh mông, phần lớn đã được khai phá, ở phía nam đường 20 và dọc theo các thung lũng chạy ngược lên giữa các dãy núi về phía đông-nam.
Ở phía đông người Srê, người Noang và Churu, bị Chàm hóa rất mạnh, còn lưu giữ các kho báu, các kiệt tác của nền văn minh ở nơi khác chỉ còn là một ký ức ấy. Cũng như vậy, người Raglay, ở phía nam, còn giữ các kho báu Chàm và có họ hàng gần gũi với người Noang, vùng đất này thuận lợi cho các mối tiếp xúc vì địa hình ít hiểm trở hơn.
Giữa người Noang và người Raglay, không có đỉnh núi cao nào ngăn cách, trong khi một dãy núi cao gần 2000 mét chia cách họ với người các tộc người phía tây.
Trên những sườn núi đó, dù sườn núi dốc đến đâu, đất đai cằn cỗi và rừng rậm đến đâu, vẫn là nơi bám ở của người Cil, một tộc người khốn khổ rất lạc hậu, chỉ sống bằng một ít gạo và ngô. Về mọi phương diện, đây là những người Tây Nguyên cuối hạng. Họ sống cực kỳ phân tán, khiến không thể tiếp xúc được với họ một cách có hiệu quả để nâng cao mức sống của họ.
Ðể cho đầy đủ, còn có một chùm các tộc người nhỏ phải nói đến: người Noup, người Köyon, người Dala, v.v. Tính cách của họ là kết quả ảnh hưởng của các tộc người láng giềng: Mạ, Srê, Raglay; cho nên chúng tôi không nghiên cứu về họ.

Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội 2003



[1] "Ngày xưa người Mọi chỉ gồm có một tộc người sống ở ven biển Ðông, phía mặt trời mọc" Truyền thuyết Stiêng do Gilbert và Malleret kể lại trong Tập san SEI, quý 2, năm 1946.
[2] Srê: Ruộng.
Nguyên Ngọc dịch
 Nguồn: Vnthuquan


*****

Tìm kiếm Blog này