Th09 sưu tầm, tổng hợp theo ý đơn
giản dễ hiểu nhất, còn cãi nhau về học thuật địa chí dành cho các cụ râu
dài và bà con các dân tộc Tây Nguyên.
------------
Tiếng Êđê (ghi theo từ điển Êđê-Pháp của Durisbourne, Paris 1965)
Krông: suối, sông nhỏ
Buk : tóc (vậy Krông Buk có thể hiểu là "Suối tóc")
Ea: sông nói chung (đúng ra Ea là nước (eau/water), tiếng Jarai là Ya hay Ia)
Dak: sông lớn (tiếng Mnông thì Dak là nước)
Chư: núi (tiếng Chăm là Chơh)
Buôn: làng
Tiếng Bahnar (theo đại tự điển Bahar-Pháp của Gulleminet)
Dak : nước, sông
Kon: người, kẻ, làng, bản
Ngok: núi (thí dụ Ngok Ring , hiện phiên là Ngọc Linh, núi cao nhất Tây nguyên (2877m). Ngọk: núi, Ring: làng , vùng đất chung của tổ tiên
Plei: làng (do ảnh hưởng tiếng Jarai và Chăm là Pơlei)
Tiếng Stiêng
Bù: người, làng bản (Bù Đốp, Bù Đăng, Bù Gia Mập...)
Krông: suối, sông nhỏ
Buk : tóc (vậy Krông Buk có thể hiểu là "Suối tóc")
Ea: sông nói chung (đúng ra Ea là nước (eau/water), tiếng Jarai là Ya hay Ia)
Dak: sông lớn (tiếng Mnông thì Dak là nước)
Chư: núi (tiếng Chăm là Chơh)
Buôn: làng
Tiếng Bahnar (theo đại tự điển Bahar-Pháp của Gulleminet)
Dak : nước, sông
Kon: người, kẻ, làng, bản
Ngok: núi (thí dụ Ngok Ring , hiện phiên là Ngọc Linh, núi cao nhất Tây nguyên (2877m). Ngọk: núi, Ring: làng , vùng đất chung của tổ tiên
Plei: làng (do ảnh hưởng tiếng Jarai và Chăm là Pơlei)
Tiếng Stiêng
Bù: người, làng bản (Bù Đốp, Bù Đăng, Bù Gia Mập...)
___________
Ý nghĩa các địa danh cấp Tỉnh, Thành phố:
Kon Tum: tiếng dân tộc Ba Na có nghĩa là Làng Hồ.
Kon có nghĩa là buôn, làng, vùng
đất... Tum nghĩa là ao hồ, đầm lầy... Đây là vùng trũng dọc theo lưu vực
sông Đăk Bla, có nhiều ao chuôm nên được gọi nôm na như vậy. Xưa kia
khu vực này đã từng có một hồ lớn tại thành phố Kon Tum ngày nay. Ba Na
là dân tộc bản địa vùng đất Kon Tum. Chữ Kon Tum viết là Công Tum hay
Kontum là sai.
Gia Lai: là tỉnh đặt theo tên dân tộc Gia Rai.
Người Gia Rai hay Jarai, Djarai là một dân tộc nói tiếng Gia Rai
Người Gia Rai còn có các tên gọi khác Giỏ-rai, Chơ rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor
hay Gia Lai. Thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlinêxia
Dân số 240.000 người.
Cư trú Cư trú tập trung ở tỉnh Gia Lai, một bộ phận ở tỉnh Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
Pleiku: tiếng dân tộc Gia Rai có
nhĩa là Làng Đuôi. Plei (đúng tiếng Jrai là plơi) là làng, ku là cái
đuôi. Tạm dịch: Pleiku là làng có cái đuôi, gắn liền với truyền thuyết
của dân tộc ở thành phố này... Đây là nghĩa thông dụng, còn theo Kpă Pual là chưa thuyết phục về nguồn gốc, vì người Jrai không đặt
tên làng theo sự kiện mà chỉ đặt theo tên sông, núi, phương hướng, cây
cối... hoặc theo tên người lập làng. lẽ ra viết đúng là Plei Ku.
Đăk Lăk: tiếng dân tộc M'Nông có nghĩa là Hồ nước
Đăk = nước; Lăk = hồ. Đắk Lắk, Darlac hay Đắc Lắc.
Người M'Nông hay còn gọi là người
Bu-dâng, Preh, Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor, nhóm
M'Nông-Bu dâng, là sắc tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn-Khmer. Sống tập trung đông nhất là tại các huyện của tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk là một trong số các địa danh gây
nhiều tranh cãi nhất về cách viết, tùy theo góc độ nhìn nhận của ngôn
ngữ học, dân tộc học hay xã hội học.
Buôn Ma Thuôt: tiếng dân tộc E Đê có nghĩa là Làng Cha thằng Thuột
Buôn Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột, đúng tiếng Ê Đê nói là: Buôn Ama Thuôt
Buôn Ma Thuột gốc tiếng Ê Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Cha
Thuột", nó xuất phát từ tên gọi buôn của Ama Thuột (Ama là Cha; Thuột là
tên Con; người Ê Đê khi có con trai, thì họ gọi nhau bằng tên của con
trai mình, ở đây A ma Thuột nghĩa là Cha của Thuột và thường gọi là Cha Thuột)
- tên một vị tù trưởng giàu có và quyền uy nhất vùng; để rồi từ đây
hình thành nên các buôn làng xung quanh, phát triển thành thành phố Buôn
Ma Thuột ngày hôm nay. Còn
cha thằng Thuột có công trạng thế nào với vùng đất đó thì là câu chuyện
dài.
Tên Buôn Ma Thuột và Đăk Lăk: được viết và gọi bằng nhiều các khác nhau là điều khó thể chấp nhận về mặt hành chính.
Đắc Nông: tiếng M'Nông có nghĩa là Nước(đất) của người M'Nông.
Theo giải thích của một thành viên trên Diễn Đàn Viện Việt Học: Dak
Nông : vùng Đất (nước, lãnh thổ) của Con người (Mơnông). Đây là ý kiến
hợp lý (hiện chưa có tài liệu lý giải khác) vì Đắk Nông là vùng đất cổ,
nằm trên cao nguyên M’Nông. có đến 38,9 % tổng số người M’Nông tại Việt
Nam. Hổng biết mấy cha hôi đề nghị tách tỉnh khỏi Đắk Lắk dựa trên cơ sở
nào để đặt tên như vậy?
Gia Nghĩa: dịch nôm tiếng Việt là nhà của dân Quảng Ngãi.
Gia Nghĩa là nơi định cư của một số người Việt ở Quảng Ngãi. Gia Nghĩa là thị xã tỉnh lỵ tỉnh Đắk Nông.
Lâm Đồng: đơn giản là Rừng + Đồng (ruộng).
Vì tỉnh Lâm Đồng có gốc từ tỉnh Lâm Viên
(còn được gọi là Langbiang hay Lâm Biên) vài tỉnh Đồng Nai Thượng.
1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành
tỉnh Lâm Đồng
Đà Lạt: tiếng dân tộc Lạch (Cơ ho) có nghĩa là nước của người Lạch.
Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ
Đạ Lạch, tên gọi của dòng suối
Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, con suối Cam Ly chảy qua khu
vực Đà Lạt theo hướng bắc – nam, trong đó đoạn từ khoảng hồ Than Thở
tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người
Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi
Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát. Người Lạch
là một trong những nhóm thuộc dân tộc Cơ Ho ( Kơ ho). Cơ ho là dân tộc
bản địa vùng đất Lâm Đồng.
__________
Làng và ý nghĩa tên làng của người Bana ở Kon Tum
Thứ ba - 23/08/2016 21:48
Cũng như các dân tộc thiểu số khác ở Kon Tum, bên cạnh việc gọi làng là Plẽi, thì người Ba Na còn gọi làng là Kon, Đăk,… Mỗi Plei, Kon, Đăk đều có rào gỗ, tre bao bọc. Xưa kia có cổng ra, vào để ngăn thú dữ và giặc giã. Sáng mở cổng, chiều tối đóng cổng đôi khi cổng đóng suốt ngày, đó là thời gian làng có việc hệ trọng như dịch bệnh, cúng ma.
Mỗi làng đều có một tên riêng. Tên của làng thường gắn liền với đặc điểm địa danh, địa hình nơi ở hoặc theo tên núi, sông, hồ, nguồn nước uống của họ và cả những truyền thuyết, huyền thoại về vùng đất nơi lập làng. Đôi khi cũng có làng được gọi theo tên của người có uy tín nhất trong làng (thường là Già làng).
Ông A Thút, làng Đăk Wớt, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy cho biết: Hầu hết tên làng của người Ba Na ở đây thường gắn chặt với đặc điểm về nguồn nước sinh hoạt của mỗi làng, bởi yếu tố đầu tiên khi chọn một vùng đất để lập làng là phải có nguồn nước để tiện cho việc sinh hoạt của làng; sau đó mới tính đến những yếu tố khác như đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc canh tác và đấu tranh phòng thủ để bảo vệ làng hoặc các đặc điểm khác như: nơi có nhiều hoa, nhiều cây bông gòn, có cây Sung, có gò đất cao… Ví dụ: ở xã Hơ Moong có làng Đăk Wơk (Đăk là nước; Wơk là tên một già làng người Bah Nar, ông là người có uy tín trong làng và các làng lân cận nên được mọi người yêu mến, quý trọng và lấy tên đặt thành tên làng; Đăk Yo là tên một con suối; Kon Kơ Tol (làng ở giữa chừng).
Theo truyền thuyết, xưa kia ở vùng Hơ Moong có xảy ra dịch bệnh, già làng Hơ Moong sợ dân làng bị chết hết, nên nói với dân làng ai làm rẫy ở đâu thì về đó sinh sống để duy trì nòi giống. Do đó, một số hộ dân đến sinh sống và lập làng ở giữa vùng Hơ Moong và vùng Kroong nên đặt tên là Kon kơ Tol, nghĩa là làng ở giữa chừng. Ở xã Đăk Mar có các làng Đăk Mut (nước vào). Người Bah Nar ở Đăk Mut vốn dĩ là người Bah Nar ở vùng Bình Định chuyển lên do chạy loạn. Khi lên họ xin già làng cho nhập vào sinh sống ở vùng Hơ Moong. Sau đó làng phát triển mạnh nên già làng Hơ Moong đã tách làng và cho họ lập một làng mới ở nơi có nguồn nước chảy vào và đặt tên là Đăk Mut, nghĩa là nước vào; hay làng sống ở nơi có nhiều rừng gọi là Kon Gung: Nghĩa là làng rừng, nơi có nhiều rừng. Theo truyền thuyết kể lại, xưa kia người Bah Nar nơi đây rất khỏe mạnh, họ thường bám rừng, bám rẫy và săn bắt thú rừng. Kon Gung xưa kia thuộc vùng Hơ Moong, nhưng họ sống biệt lập trong rừng sâu, nơi có nhiều động thực vật quý hiếm.
Ở khu vực Thành phố Kon Tum có các làng với tên gọi và ý nghĩa như: Kon Kơ Tu: là làng cũ (Kon: là làng; Kơ tu: là cũ, xưa, cổ); Plẽi tơ Ngia: Ngày xưa ở vùng này có nhiều cây Kơ Nia (cây cầy), nên khi người Bah Nar lập làng ở đây thì lấy tên loại cây này đặt tên cho làng để dễ nhớ. Plẽi tơ Ngia:là làng có nhiều cây Kơ Nia; Plẽi Dõn: là làng ở trên cao (vùng đất cao, gò đất cao). Xuất phát từ việc xưa kia ở làng hồ có xảy ra tranh chấp giữa các cá nhân trong làng. Do quá trình xử lý không công bằng nên có một người đàn ông đã tự ái và bỏ làng đi lên sinh sống ở vùng cao hơn và lập làng mới đặt tên là Plẽi Dõn; Kon Rơ Bang: là làng có nhiều hoa. Đúng theo tiếng Bah Nar thì phải là Kon rơ Bông Bang. Vì “Bông Bang” có nghĩa là vùng có nhiều loài hoa. Sau này khi đặt tên thì họ gọi tắt là Kon rơ Bang; Kon Hơ Ngo: làng cây thông. Kon Tum kơ Pâng: làng hồ trên; Kon Tum kơ Nâm: làng hồ dưới; Kon Klor: làng bông gòn (Kon: làng; Klor: bông gòn) vì xưa kia khu vực này có nhiều cây bông gòn mọc. Người Bah Nar khi lập làng ở đây đã lấy tên loài cây này đặt thành tên làng; Kon kơ Tu: là làng cũ; Kon kơ Tu Klah: làng tách ra từ làng cũ (Kon: làng; kơ tu: cũ, xưa, cổ; Klah: tách ra); Kon Hra: Làng cây Sung. Xưa kia người Ba Na đến lập làng ở vị trí thấy có một cây Sung to lên sau đó đặt tên làng là Kon Hra; Plẽi kơ Năng: là làng ghè cổ. Vì khi người Ba Na đến đây lập làng, họ phát hiện có một cái ghè cổ nên sau khi lập làng liền đặt tên làng là kơ Năng; Plẽi Măng La: làng ở triền đồi.
Hiện nay, tại xã Ngọc Bay – TP. Kon Tum có hai làng mang tên Măng La là: Măng La Kơ Tu và măng La Klah. Măng La Kơ Tu là làng cũ, còn Măng La Klah là làng tách ra từ làng Mang La.
Ở Kon Tum, người Ba Na cư trú ở nhiều khu vực khác nhau, có những làng sống ở vũng trũng (khu vực Thành phố Kon Tum) gần các lòng hồ, sông, có những làng sống ở vùng cao hơn như người Ba Na ở Kon Rẫy. Bên cạnh đó, có nhóm người Ba Na sống ở khu vực bằng phẳng hơn như ở vùng Đăk La hiện nay.
Nghệ sĩ ưu tú A Đủh, làng Kon Trang mơ Nẫy, xã Đăk La, huyện Đăk Hà cho biết: Khu vực Đăk La là nơi sinh sống lâu đời của người Ba Na, mỗi làng ở đây đều có tên gọi gắn liền với sự hình thành của từng làng cũng như địa danh, địa hình nơi lập làng,…trong đó có các làng với tên gọi và ý nghĩa như: Kon Trang mơ Nẫy hay còn gọi là Kon trang Biôn (Biôn là tên của một già làng, ông rất có uy tín nên được mọi người yêu mến. Do đó, chỉ cần hỏi làng ông Biôn là người ta chỉ ngay, đó cũng chính là làng Kon Trang Mơ Nẫy): Tức làng bông lau bên suối Mơ Nẫy. Theo những người già trong làng kể lại: Xưa kia, làng Kon Trang (làng bông lau) là của người Xơ Đăng ở vùng Đăk Ui. Do trong làng có xảy ra chuyện không vui nên dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp. Một số người không hài lòng về kết quả việc xử lý nên đã bỏ làng đến vùng Đăk La hiện nay lập làng gần con suối Mơ Nẫy và đặt tên là Kon Trang Mơ Nẫy; Làng Long Loi ở thị trấn Đăk Hà hiện nay phải là Kon Trang Long Loi: Làng ở gần suối Long Loi. Theo người già trong làng kể lại: Xưa kia làng Kon Trang (làng bông lau) ở vùng Đăk Ui, vì trong làng có ông A Nhao đã yêu bà Y Ngut vợ của ông A Phai. Hai người yêu nhau, nhưng vì bị dân làng nói nên họ xấu hổ và rủ nhau đến vùng đất gần con suối Long Loi sống, lập làng và đặt tên là Kon Trang Long Loi; Đăk Ting (T’ieng): làng ở gần suối có nhiều cây soong mây (mây đá).
Hiện nay, tại xã Đăk La (tên đúng theo tiếng Bah Nar là Đăk Kơ La: Nghĩa là suối có nhiều tre, sau này người kinh đọc tắt thành Đăk La như ngày nay) có hai làng Đăk Ting, là Đăk Ting kơ Tu (Đăk Ting cũ) và Đăk Ting Klah (làng tách ra từ làng Đăk Ting kơ tu); Đăk Rơ Chất: Làng bên suối rơ chất; Kon Trang Kơ La: Làng có nhiều tre; Plei Kep (còn gọi là Kon Trang Kep): Làng được lập bởi các thành viên ở các làng khác gộp lại. Theo những người già kể lại: Trước đây do một số làng ở đây dân số phát triển nhanh nên không có đất để làm nhà, do đó một số hộ ở các làng này đã tự tách ra và đến vùng đất mới lập thành một làng đặt tên là Plei Kep,…
Bà Y Blưn, làng Kon Tum Kơ Pâng cho biết: Hầu hết các tên gọi của người Ba Na đều có ý nghĩa của nó. Xưa kia những người đứng ra lập làng đều chọn tên con sông, suối, hay loại cây, vùng đất, địa hình (cao, thấp, trùng,..) hoặc tên của già làng uy tín được mọi người yêu mến, truyền tụng qua các đời để đặt tên cho làng. Việc đặt tên như vậy, để sau này con cháu nhớ về vùng đất nơi ông bà, cha mẹ mình đã sinh sống. Vì bây giờ, rất nhiều làng đã chuyển từ vị trí cũ ra vị trí mới nên những làng cũ không còn nữa, bên cạnh đó, do dân số phát triển, diện tích đất lại không có nên dần dần họ đã tự tách ra lập làng mới và vẫn lấy tên làng cũ đặt tên cho làng, ví dụ như: Kon Kơ Tu (làng cũ), sau này tách thêm làng gọi là Kon Kơ Tu klah (làng tách ra từ làng cũ). Cũng có những làng, xưa kia lập làng ở một vị trí, sau đó họ lại chuyển sang vùng đất lập làng, rồi thời gian sau họ quay về vị trí lập làng ban đầu sinh sống. Ví dụ: Kon Hra (làng Sung), xưa kia ở bờ Bắc Đăk Bla, sau đó họ chuyển sang bờ Nam Đăk Bla sinh sống đặt tên là Kon Hra Klah. Nay họ lại trở về vùng đất ban đầu sinh sống và lập làng gọi là Kon Hra Chôt: Kon Hra (làng Sung) Chôt (quay về),…
Tên làng của người Ba Na ở Kon Tum có một vị trí và ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của họ. Việc đặt tên làng thường được cả cộng đồng làng bàn bạc và quyết định. Dù tên làng được đặt theo tên sông, suối, hồ, các loại cây hay địa hình,…thì nó vẫn được đồng bào trân trọng, nên khi tách ra thành lập làng mới thì họ vẫn lấy tên làng cũ đặt tên cho làng mới lập và thêm vào sau đó là tên địa danh, địa hình hay loại cây,… để phân biệt giữa làng cũ với làng mới. Do đó, khi nói đến tên làng là người ta có thể biết được ý nghĩa, sự hình thành và phát triển của ngôi làng đó./.
Tác giả bài viết: Mai Văn Nhưng
Nguồn: Baotangkontum
Đôi điều bàn về địa danh ở Đắk Lắk
Lần theo sự xuất hiện địa danh....
Dak Lak
là tỉnh có bề dày lịch sử rất phong phú và đa dạng, với nhiều tộc người
anh em cùng nhau làm ăn, sinh sống. Theo dòng thời gian, các tộc người
xuất hiện trên quê hương này gồm người Êđê, người M’Nông, người Jrai… Kế
đến là người Việt, người Bru, Vân Kiều và gần hầu hết các tộc người
thiểu số phía Bắc như Tày, Thái, Mường, Mông, Dao…
Các địa danh trên địa bàn theo đó lần lượt được hình thành ở nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu có thể có 2 loại, loại dựa vào ngôn ngữ của các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở Dak Lak và loại cải biên tên gọi đã có hoặc gắn với tên địa phương của dân mới đến.
Các địa danh trên địa bàn theo đó lần lượt được hình thành ở nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu có thể có 2 loại, loại dựa vào ngôn ngữ của các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở Dak Lak và loại cải biên tên gọi đã có hoặc gắn với tên địa phương của dân mới đến.
1/
Những địa danh được gọi bằng ngôn ngữ Êđê, M’Nông, Jrai… thường mượn từ
tên gọi các địa hình, địa vật – núi, đồi, sông, suối, ao hồ, vùng tự
nhiên hoặc tên người trong truyền thuyết, trong lịch sử:Theo tên gọi đồi
núi: (huyện) C|ư Ju\t, (huyện) C|ư\ Mgar hoặc (xã) Nâm Nung, Nâm Ka,
Yôk Yu, Yôk Rling…
- Theo tên gọi sông suối: (Huyện) Krông Knô, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Dak Mil, Dak Nông, (xã) Ea Tlinh.
- Theo tên gọi một con thác: (Buôn) Drai H’ling, Drai Săp.
- Theo tên gọi sông suối: (Huyện) Krông Knô, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Dak Mil, Dak Nông, (xã) Ea Tlinh.
- Theo tên gọi một con thác: (Buôn) Drai H’ling, Drai Săp.
- Theo tên gọi vùng tự nhiên: Buôn Trăp, Buôn C|uah, Buôn C|uôr, Buôn Đôn…
- Theo
tên gọi nhân vật trong truyền thuyết, lịch sử: (Buôn) MaThuột, (huyện)
M’Drak, Ea H’Leo, Krông H’Năng, Buôn Niêng, Suối ÊaNiêng (tên của người
lập buôn Niêng), Buôn DrangFôk (tên chủ buôn đầu tiên là Y Drang và vợ
là H’Fôk)
2/ Những địa danh cải biên hoặc đặt theo cách gọi của người Việt và các dân tộc khác, có thể được hình thành theo nhiều cách.
- Cách Việt hóa địa danh sở tại như Đức Minh việt hóa từ tên gọi Dak Mil, Nam Đà việt hóa từ tên gọi Nâm Đa, Đức Lập mượn tên nhánh suối Dak Rlăp….
- Cách dịch nghĩa địa danh như Trúc Sơn (xã của huyện C|ư\ Ju\t) là dịch nghĩa của địa danh C|ư\ Ju\t, trong đó C|ư\ theo tiếng Êđê có nghĩa là Núi (Sơn), Ju\t có nghĩa là Cây trúc.
- Gắn tên địa phương gốc của đồng bào mới đến để tạo thành địa danh mới như xã Hòa Thắng là nơi định cư của một số đồng bào Mường quê ở Hòa Bình, Gia Nghĩa là nơi định cư của một số người Việt ở Quảng Ngãi, một số địa danh bắt đầu từ chữ Quảng do người Việt quê ở các xứ Quảng đặt (xã Quảng Điền, huyện Krông Ana), Thôn Hòa Nam (xã Ea Nuôl), thôn Mường (ở xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn)…
- Đặt các địa danh với các ngụ ý cầu mong điều tốt đẹp như phường Thắng Lợi, phường Thống Nhất, xã Xuân Phú, xã Hòa Phong, xã Đoàn Kết…
- Cách Việt hóa địa danh sở tại như Đức Minh việt hóa từ tên gọi Dak Mil, Nam Đà việt hóa từ tên gọi Nâm Đa, Đức Lập mượn tên nhánh suối Dak Rlăp….
- Cách dịch nghĩa địa danh như Trúc Sơn (xã của huyện C|ư\ Ju\t) là dịch nghĩa của địa danh C|ư\ Ju\t, trong đó C|ư\ theo tiếng Êđê có nghĩa là Núi (Sơn), Ju\t có nghĩa là Cây trúc.
- Gắn tên địa phương gốc của đồng bào mới đến để tạo thành địa danh mới như xã Hòa Thắng là nơi định cư của một số đồng bào Mường quê ở Hòa Bình, Gia Nghĩa là nơi định cư của một số người Việt ở Quảng Ngãi, một số địa danh bắt đầu từ chữ Quảng do người Việt quê ở các xứ Quảng đặt (xã Quảng Điền, huyện Krông Ana), Thôn Hòa Nam (xã Ea Nuôl), thôn Mường (ở xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn)…
- Đặt các địa danh với các ngụ ý cầu mong điều tốt đẹp như phường Thắng Lợi, phường Thống Nhất, xã Xuân Phú, xã Hòa Phong, xã Đoàn Kết…
Giao
lưu văn hóa ngày một mạnh mẽ diễn ra giữa đồng bào các tộc người trong
tỉnh, các địa danh cũng có khi được hình thành trên cơ sở của sự giao
lưu giữa tên gọi của người Êđê và người M’Nông, Êđê và Jrai, giữa người
Việt và các tộc người “tại chỗ” (như vùng C|ư\ Phiang đặt tên là xã Hòa
Phong). Những sự giao lưu đó góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của
địa danh tỉnh Dak Lak, đồng thời cũng tạo nên cả sự “phức tạp” trong
việc sử dụng những địa danh này.
Hiện trạng của việc sử dụng địa danh ở tỉnh ta.
Tại các cấp từ tỉnh đến tận các xã, thôn, buôn, đều có một hiện trạng khá phổ biến của việc sử dụng địa danh. Đó là:
Sự
không thống nhất cách viết, cách đọc các địa danh. Nói đúng hơn là sử
dụng sai từ gốc do nghe, nói không chuẩn và đọc viết không đúng từ địa
phương.
Krông KNô được viết và gọi là Krông Nô, Crông Nô, Krông Knô.
Buôn Ma Thuột có lúc được viết và gọi là Ban Mê, rồi Ban Mê Thuột, Buôn Mê Thuột, Buôn Ma Thuật và Buôn Ma Thuột.
Dak Lak
được viết và gọi bằng nhiều các khác nhau: Đắc Lắc, ĐăkLăk, Dăk Lăk,
Đắk Lắk và Dak Lak. Có lúc được viết 2-3 cách khác nhau ngay cùng một
tài liệu hoặc một tờ báo.
Cũng là
địa danh được mở đầu bằng chữ Êa (tiếng Êđê, có nghĩa là Sông, suối,
nước), song lại được viết và gọi bằng nhiều cách khác nhau: Ia (xã Ia
lốp) Ya (xã Ya Tơ Mốt của huyện Ea Sup) và Ea.C|ư\ (tiếng Êđê), hầu hết
không được viết đúng chữ Êđê vì trong hệ thống máy tính văn phòng không
có “phông” chữ này nên các bộ phận văn thư thường chỉ đánh ra chữ Cư,
một từ không có nghĩa trong tiếng Êđê, và nếu đọc theo kiểu người Việt
thì không thể có âm gần đúng chữ C|ư\ – núi của người Êđê. Nếu phiên âm
ra tiếng Việt để có cách đọc gần đúng chữ C|ư\, chúng ta phải phiên âm
thành Chứ (dấu sắc thay cho dấu ˇ trên chữ ư).
Vậy thì
C|ư\ Ju\t có thể viết thành Chứ Jut. Cũng như vậy, C|ư\ Yang Sin có thể
viết thành Chứ Yang Sin. Nâm nghĩa là núi (tiếng M’Nông) hiện đều bị
viết sai, đọc sai thành Nam (Nam Nung, Nam Ka,…).
Những địa danh phức tạp, hầu như đều được gọi không đúng, làm sai hẳn ý nghĩa của từng địa danh. Buôn Kmrơng Prông A có nghĩa là buôn Rừng lớn A… bị bỏ gần hết các chữ, chỉ còn Krông A… trở nên vô nghĩa hoặc thành “Sông A”!... Dliê Yang thành Lê Yang, Cư Dliê Mnông thành Chư Lê Mông, DakBokSo viết thành Dak Bu So, buôn Mghan (Mờ khan) thành Buôn Khanh, buôn Ea M’Dha trở thành Lâm Tha, thậm chí tên người: Ông Y Dhăm (Y Thâm) đọc ra Y Dờ Hăm. Có những địa danh, để cho dễ đọc người ta đã bỏ bớt các phụ âm, nhất là phụ âm rung, phụ âm kép, các phụ âm không có trong tiếng Việt như W, j, Z… khiến các địa danh đó không còn cả ý nghĩa nguyên thủy của nó như Bon SaPa ở xã Thuận An, huyện Dak Mil, có tên gọi đúng là Srê Pa, theo tiếng Mnông Preh, thành phần người chủ yếu ở vùng này, nghĩa là cánh đồng ba ba (các già làng cho biết, xưa kia, ở đây có nhiều đầm lầy có loài ba ba sinh sống) Đèo Hà Lan, có tên gọi đúng là Hlang có nghĩa là cỏ tranh (đèo cỏ tranh) chứ không có một yếu tố gì nhắc nhở đến cái quốc gia ở Bắc Âu kia! Có địa phương, đã tự ý xóa bỏ các địa danh cổ, và thay vào đó là các con số lạnh lùng: thôn 1, thôn 2, thôn 3.. mặc cho ai nhớ ai quên những cái tên làng buôn, ngọn núi, con sông… đã từng gợi nhớ, gợi thương và nối nhịp cuộc sống từ ngàn đời nay của họ…!
Những địa danh phức tạp, hầu như đều được gọi không đúng, làm sai hẳn ý nghĩa của từng địa danh. Buôn Kmrơng Prông A có nghĩa là buôn Rừng lớn A… bị bỏ gần hết các chữ, chỉ còn Krông A… trở nên vô nghĩa hoặc thành “Sông A”!... Dliê Yang thành Lê Yang, Cư Dliê Mnông thành Chư Lê Mông, DakBokSo viết thành Dak Bu So, buôn Mghan (Mờ khan) thành Buôn Khanh, buôn Ea M’Dha trở thành Lâm Tha, thậm chí tên người: Ông Y Dhăm (Y Thâm) đọc ra Y Dờ Hăm. Có những địa danh, để cho dễ đọc người ta đã bỏ bớt các phụ âm, nhất là phụ âm rung, phụ âm kép, các phụ âm không có trong tiếng Việt như W, j, Z… khiến các địa danh đó không còn cả ý nghĩa nguyên thủy của nó như Bon SaPa ở xã Thuận An, huyện Dak Mil, có tên gọi đúng là Srê Pa, theo tiếng Mnông Preh, thành phần người chủ yếu ở vùng này, nghĩa là cánh đồng ba ba (các già làng cho biết, xưa kia, ở đây có nhiều đầm lầy có loài ba ba sinh sống) Đèo Hà Lan, có tên gọi đúng là Hlang có nghĩa là cỏ tranh (đèo cỏ tranh) chứ không có một yếu tố gì nhắc nhở đến cái quốc gia ở Bắc Âu kia! Có địa phương, đã tự ý xóa bỏ các địa danh cổ, và thay vào đó là các con số lạnh lùng: thôn 1, thôn 2, thôn 3.. mặc cho ai nhớ ai quên những cái tên làng buôn, ngọn núi, con sông… đã từng gợi nhớ, gợi thương và nối nhịp cuộc sống từ ngàn đời nay của họ…!
Một vài suy nghĩ về hướng giải quyết.
Do sự
đa dạng, phức tạp của địa danh Dak Lak, việc chưa thống nhất, thậm chí
dùng chưa đúng địa danh trên địa bàn tỉnh Dak Lak, đang là một vấn đề
phổ biến, là một việc dễ hiểu và có thể thông cảm, đặc biệt đối với đông
đảo người Việt chưa quen cách đọc những từ đa âm tiết, những phụ âm
gió, phụ âm rung khá phổ biến trong cách phát âm tiếng Êđê, M’Nông…
Song, chưa thống nhất, dùng sai tên địa danh chắc chắn sẽ có nhiều tác
hại khó lường, đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Tác hại nhỏ là việc thông tin liên lạc, thư từ sẽ gặp nhiều khó khăn vì
sai lạc nơi đi, nơi đến. Tác hại lớn là việc lưu trữ, hệ thống hóa các
hồ sơ, dữ liệu trên máy tính, việc truy cập kho lưu trữ, các hệ thống hồ
sơ, dữ liệu có liên quan sẽ hoàn toàn sai lạc, nhầm lẫn nếu người nạp
dữ liệu và người truy dữ liệu viết sai “địa chỉ”.
Về mặt
văn hóa, địa danh của các tộc người bản địa cư trú trên địa bàn tỉnh Dak
Lak lưu trữ trong cái vỏ ngôn ngữ là tình yêu đối với quê hương xứ sở,
những huyền thoại, cổ tích, những phong tục tập quán, theo dòng thời
gian có địa danh còn mang đậm cả truyền thống lịch sử hiếm có của một
vùng quê mà đồng bào đã hình thành, giữ gìn và lưu truyền từ đời này
sang đời khác, trở thành niềm tự hào chính đáng của xứ sở. Gọi sai, viết
sai và tệ hại hơn nữa là việc xóa bỏ các tên gọi đó, vốn gần gũi, thân
thương đối với mỗi người dân ở đây để thay thế bằng những tên gọi xa lạ
thậm chí là những con số vô nghĩa, là việc làm cần nhanh chóng xem xét,
khắc phục. Theo suy nghĩ bước đầu của chúng tôi, việc thống nhất cách
viết, cách gọi địa danh trên địa bàn tỉnh Dak Lak cần tuân thủ theo
những hướng sau đây:
1/ Cố
gắng giữ nguyên cách viết và cách phát âm của tộc người chủ thể của địa
danh đó (trong đó có cả việc sử dụng đúng cách viết chữ của đồng bào như
sử dụng dấu ˇ, ~ cách viết các phụ âm liền nhau, cách dùng phụ âm đặc
biệt không có trong tiếng Việt như W, j, Z…) đảm bảo cách viết, cách đọc
đúng từ, đúng ngữ thể hiện chính xác nội dung, ý nghĩa văn hóa, xã hội,
lịch sử… hàm chứa trong mỗi địa danh.
Hiện
nay chúng ta đã có phông chữ “TNKey” (phông chữ của người Tây Nguyên).
Vì vậy, các tổ chức hành chính cần áp dụng phông chữ này để viết về các
địa danh.
Nếu
không tuân thủ nguyên tắc này thì trong một tương lai không xa, chúng ta
sẽ không còn chữ Êđê, M’Nông, Jarai… nữa và nếu còn thì cũng sẽ không
diễn tả đúng nghĩa của nó.
2/
Riêng người Việt đối với các nguyên âm có các ký hiệu đặc biệt như C|
(đọc thành Ch), có thể thay thế bằng Ch, C|ư\ viết thành Chư, Krông Pac\
viết thành Krông Pach, hoặc Pách nhưng không nên viết thành Pắch (sẽ
sai nghĩa và nghe rất nặng tai).
3/
Không sử dụng ký hiệu số thay cho tên thôn, buôn. Nếu thành lập thôn,
buôn mới, nên sử dụng các địa danh có ý nghĩa văn hóa, xã hội, lịch sử
tốt đẹp đặt cho thôn, buôn đó và cấp có thẩm quyền phải xem xét.
4/ Đối với những người quen dùng chữ K thay C đều không thể sử dụng nó khi viết chữ đồng bào dân tộc bản địa.
Ví dụ
Krông Pac\ không thể viết thành Krông Pak được (chỉ có thể hoặc Krông
Pac\ hoặc Krông Pach). Cũng cần lưu ý trong tiếng Êđê có hai chữ C hoàn
toàn khác nhau (C| và C). Ví dụ Ea Pôc\, không thể viết thành Ea Poc
càng không thể thành Ea Pôk; vì Pôc\ (Pôch) và Poc khác nhau hoàn toàn
về nghĩa và nếu là địa danh thì Ea Pôc\ (Pôch) ở Huyện C|ư\ Mgar còn Ea
Pôk ở huyện Krông Pac\. Như vậy chữ C| nằm ở cuối từ nhất thiết khi viết
phải giữ nguyên hoặc thành Ch, không thể thay bằng C hoặc K.
Cũng như vậy, đối với những người hay gọi sai, viết sai chữ L và N cần sử dụng thật đúng chúng nhất là khi L và N ở cuối từ.
Ví dụ
Ea Khăl, Durkmăn… không thể viết thành Ea Khăn, Ea Khanh, Durkmanh, hoặc
Durkmal được, Ea Răl không thể thành Ea Ran hoặc Ea Răn.
Giữ gìn các địa danh, dùng thống nhất, chính xác các
địa danh, không chỉ là một việc làm khoa học mà trước hết, đó là thể
hiện sự có biết trân trọng hay không một truyền thống lịch sử của một
dân tộc, của quê hương đất nước, là sự giữ gìn những ý tưởng tốt đẹp của
vùng đất đó, dân tộc đó, và cũng chính là sự thể hiện trên thực tế
những gì ta thường nói: bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam…
Nguyễn Hữu Trí - PCT. Liên hiệp các Hội KH $ KT tỉnh Dak Lak
Dakusta.org
Đà Lạt: tiếng dân tộc Lạch (Cơ ho) có nghĩa là nước của người Lạch.
Đăk Lăk: tiếng dân tộc M'Nông có nghĩa là Hồ nước.
Đắc Nông: tiếng M'Nông có nghĩa là Nước(đất) của người M'Nông.
TC tóm tắt địa danh phổ biến:
Các dân tộc Tây Nguyên do cùng sống chung trên một vùng đất giao lưu với nhau nên ảnh hưởng ngôn ngữ lẫn nhau, có thể dân tộc này cũng gọi tên địa danh như dân tộc khác. Ví dụ một số địa danh phổ biến, như:
Kon: người, kẻ, làng, bản
Plei, Bù: làng
Chư, Cư, Ngok: núi
Dak : nước, sông
Ea: sông
Krông: suối
Drai: Thác, làng
Drai: Thác, làng
Kon Tum: tiếng dân tộc Ba Na có nghĩa là Làng hồ nước.
Đắk Tô: tiếng dân tộc Xơ Đăng có nghĩa suối nước nóng.
Măng Đen: âm gốc T’ Măng Deeng tiếng dân tộc Mơ Nâm có nghĩa là Vùng đất bằng phẳng.
Kon Rẫy: âm gốc Kon Braih, tiếng Xơ Đăng có nghĩa là Làng Cát.
Đắk Bla: âm gốc Đăk Blăh tiếng Ba Na là sông (nước) hung dữ, cuồng nộ.
Gia Lai: âm gốc là tên dân tộc Gia Rai, người Việt gọi trại ra.
Pleiku: tiếng dân tộc Gia Rai có nhĩa là Làng Đuôi.
Biển Hồ: tên gốc T’nưng theo tiếng dân tộc Ê-đê, có nghĩa là hồ nước không bao giờ cạn (nếu giả thích "biển trên núi" thì vô lý vì người dân tộc TN thời xưa chưa biết đến biển).
Mang Yang: Cổng thần linh.
Đà Lạt: tiếng dân tộc Lạch (Cơ ho) có nghĩa là nước của người Lạch.
Đăk Lăk: tiếng dân tộc M'Nông có nghĩa là Hồ nước.
Buôn Ma Thuôt: tiếng dân tộc E Đê có nghĩa là Làng ông Ama Thuột.
Đắc Nông: tiếng M'Nông có nghĩa là Nước(đất) của người M'Nông.
Gia Nghĩa: dịch nôm tiếng Việt là nhà của dân Quảng Ngãi.
ST