Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Chuyện ly kỳ về anh bộ đội VN lưu lạc 28 năm ở CPC, khi “liệt sĩ trở về” muốn tự tử!

“Người rừng” trở về sau 28 năm là liệt sỹ 

(Dân trí) - Người liệt sỹ ấy những tưởng đã xa rời quê hương mãi mãi, cứ ngỡ phần xương cốt kia còn đang nằm đâu đó nơi rừng hoang núi thẳm, thì nay bất ngờ trở về sau 28 năm lưu lạc nơi đất khách quê người...
Chiến tranh tàn khốc đã biến một người lính khỏe mạnh, vạm vỡ thành một người sức cùng lực kiệt, với hàng chục vết thương trên cơ thể. 28 năm sau chiến tranh, ông Lê Xuân Hào (xã Trầm Lộng - Ứng Hòa – Hà Nội) mới xiêu vẹo tìm được đường về quê hương trong bộ dạng “thân tàn ma dại”. Hy sinh, cống hiến cho đất nước, nhưng nỗi trớ trêu kiệt cùng của số phận đã biến ông Hào thành người vô gia cư, đầy bệnh tật, quên quên nhớ nhớ và đằng đẵng những ký ức tang thương về đạn bom, chết chóc.  
Lưu lạc trong rừng sâu...
Câu chuyện hi hữu về người liệt sỹ được khắc tên trên bảng Tổ Quốc ghi công, được đơn vị gửi giấy báo tử về quê nhà, bất ngờ trở về khi chỉ còn ít ngày nữa là đến ngày giỗ thứ 29 của ông, đến bây giờ tuy đã gần 2 năm trôi qua, vẫn khiến người dân xã Trầm Lộng – huyện Ứng Hòa không khỏi xôn xao. Sự gặp gỡ, trùng phùng của những người tưởng ở hai bên kia đầu thế giới vỡ òa trong nước mắt, nhiều người chứng kiến đã phải thốt lên: “Đúng là chuyện cổ tích giữa đời thường...”.

Tư liệu về Ấp chiến lược từ phía Mỹ

http://www.psywarrior.com/VNHamletPSYOP.html

PSYOP OF THE STRATEGIC
HAMLET IN VIETNAM


A Typical Vietnamese Hamlet

When the British fought the insurgency led by Chinese Communists in Malaya from 1948 to 1960, one of their weapons was to place the Malayans in fortified villages that could be guarded around the clock and thus separate the people from the guerrillas in the jungle. That was one very successful way to fight Mao Tse-Tung’s concept that “The guerilla must move amongst the people as a fish swims in the sea.”
Under the direction of the retired Lieutenant General Sir Harold Briggs, the shortcomings of the government were identified. These included the lack of population control measures. From these considerations, the “Briggs Plan” was formulated. The guerrillas would first be separated from the civilian population that sustained them, and then defeated through coordinated civil, military and police action.

Bức tranh ảm đạm của nông thôn miền Tây

Nguyenvantuan:

Hôm nay là ngày mồng Bốn. Hết tết rồi!  Tôi sẽ tiếp tục loạt bài ghi chếp cuối năm.  Lần này tôi muốn ghi lại một số cảm nhận cá nhân về nông thôn miền Tây nam.

Nói đến nông thôn, chúng ta thường hay nghĩ đến một vùng đất đồng ruộng và cây trái xanh tươi, gió mát trăng thanh, những con đường làng mơ mộng, dòng sông lửng lờ, những con người hiền lành mộc mạc, v.v… Nhưng bức tranh nông thôn mà tôi cảm nhận được trong những năm gần đây thì hoàn toàn tương phản với những hình ảnh mà chúng ta từng có trong tâm tưởng hay kí ức của một thời xa xăm.

Phát triển theo hướng thiếu qui hoạch
Tình trạng bùng nổ dân số dẫn đến mật độ dân số càng ngày càng cao.  Theo một thống kê gần đây thì vùng Đồng bằng sông Cửu Long có một dân số lên đến 17 triệu, tăng gần gấp 2 lần so với 20 năm trước đây.  Trong khi đó thì (dĩ nhiên) diện tích đất cố định, hay thậm chí diện tích đất cho cư dân càng ngày càng giảm.  Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy mật độ dân số ở các tỉnh miền Tây tăng một cách chóng mặt.  Nhà cửa ở vùng nông thôn mà san sát nhau, giống y chang như mật độ nhà cửa ở thành phố.

Thương quá Việt nam, tôi khóc cho quê hương mình!

Bông Hồng Cài Áo Trình bày: Thanh Tuyền      

Người hạ sát anh em ông Ngô Đình Diệm nói gì trước khi chết

Đăng Bởi -
Ngô Đình Diệm với tướng tá Mỹ trên đường phố Sài Gòn - Ảnh: TL
Ngô Đình Diệm với tướng tá Mỹ trên đường phố Sài Gòn - Ảnh: TL

Ai ra lệnh giết anh em ông Ngô Đình Diệm? Ai cầm súng cầm dao hạ sát hai ông ấy? Từ trước đến nay dư luận đều đổ vào cho hai người đó là tướng Dương Văn Minh và Đại úy Nguyễn Văn Nhung. Về tướng Dương Văn Minh có nhiều tài liệu đã viết. Còn chuyện đại úy quân đội VNCH Nguyễn Văn Nhung sống chết như thế nào chưa có nhiều người biết.

Xe máy “Tàu” ngày ấy, bây giờ

Phá bĩnh và... mở đường (P.1)

Hơn 10 năm trôi qua đã vẽ nên bức tranh thú vị mà các loại xe máy có xuất xứ từ Trung Quốc là nhân vật trung tâm.
Xe máy “Tàu” ngày ấy, bây giờ: Phá bĩnh và... mở đường
Đầu thập niên 2000, những chiếc xe máy Trung Quốc (mà nhiều người vẫn quen gọi là xe “Tàu”) bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Hai thương hiệu nổi tiếng nhất và có vai trò mở đường là Loncin và Lifan.

Khi mới xuất hiện trên thị trường, những chiếc xe máy mang thương hiệu Loncin với kiểu dáng nhang nhác (thực tế là nhái gần như hoàn toàn) những chiếc Wave hay Dream của Honda đã thổi một luồng gió mới vào thị trường xe máy Việt Nam. Những chiếc xe này có giá bán khoảng 12-14 triệu đồng. Tiếp bước ngay sau đó là Lifan, những chiếc xe này thậm chí còn có giá bán thấp hơn, chỉ nhỉnh trên mức10 triệu đồng chút ít.

Nạn đói năm 1945, Tại sao chúng ta lại lãng quên ?

Kỳ 1: Thảm cảnh quê nhà

La liệt những người chết đói bên đường - Ảnh tư liệu
TT - Hơn 2 triệu người đã chết vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh
hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005
này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi
đau ấy...
Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói.
Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ.
Tiết xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời.
Từ thành phố Thái Bình xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ thì đến xã Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như hội. Cảnh thái bình no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc...
Bàn chân quỷ đói

Tản mạn về tính cách người mấy tỉnh Trung Quốc


Dương Danh Dy
Sau khi Tạp chí “Văn hóa Nghệ An” đăng trong 3 số liền (số 192, 193 và 194), bài “Tính cách người các tỉnh Trung Quốc” do tôi chuyển ngữ, đã có một số bạn đọc quan tâm đến vấn đề đặt câu hỏi: liệu sự tự đánh giá của người Trung Quốc về tính cách người 31 tỉnh, thành, khu tự trị của họ có chính xác không?
Đó là một câu hỏi rất hay và rất khó trả lời. Tuy vậy vì là người “khơi lên” vấn đề, tôi không thể không nói vài lời. Thế nhưng trong bài viết này tôi xin phép chỉ nói tới mấy ấn tượng ban đầu về tính cách người mấy tỉnh của Trung Quốc thôi. Sau này khi có dịp sẽ xin lần lượt trình bầy thêm.
Thú thật, mặc dù đã có tới mười mấy năm trú tại Trung Quốc(chưa kể những chuyến đi ngắn hạn một vài tháng hay mươi ngày khi còn làm việc hay khi đã nghỉ hưu), ở và tới nhiều nơi tại Trung Quốc(ngoại trừ Tây Tạng, Tân Cương, Lan Châu…)với nhiều cương vị khác nhau(viên chức ngoại giao, nhà nghiên cứu độc lập, khách du lịch Việt Nam hay trong vai người dân tộc thiểu số Trung Quốc ở gần biên giới Việt), những hiểu biết của tôi về tính cách người Trung Quốc chỉ như muối bỏ biển.

Nguyễn Huệ: "Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu của chúng thì có gì là lạ..."

Quang Trung statue 03.jpg 
Hoàng đế nhà Tây Sơn

HỊCH TRUYỀN QUAN LẠI, QUÂN DÂN CÁC PHỦ QUẢNG NGÃI, QUY NHƠN [1] (1792)

Tất cả các người, lớn nhỏ, từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta.

Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ [2]. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dũng, hiền tài để giúp rập triều đình. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất bại hoặc tan rã. Trẫm mở rộng chiến trận tới đâu, quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải khuất phục. Còn bọn dư đảng bỉ ổi của cựu triều [3], thì từ hơn ba chục năm nay trẫm chưa từng thấy chúng làm nổi trò trống gì. Trẫm đã đánh chúng hàng trăm trận, sĩ tốt của chúng phải tan tác, tướng lĩnh của chúng phải bỏ mạng, xương tàn của chúng tràn  đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói đây, các người đều biết rõ, nếu mắt các người chưa được trông thì tai các người cũng đã từng nghe thấy.

Như tên Chủng [4] đê hèn kia, đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường ở phương Tây [5], thì có gì là đáng kể.

Còn như đám dân ươn hèn Gia Định [6], nay dám ngóc đầu dậy, mộ binh, tại sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế? Quân thủy

bộ của chúng tới đánh chiếm các hải cảng của các người như thế nào, các người không cảnh giác như thế nào, Hoàng đại huynh [7] đã có thư cho trẫm rõ cả rồi. Trẫm thấy sở dĩ chúng đánh chiếm được đất và giữ được đất của các người cho tới ngày nay, không phải vì chúng tài giỏi gì, mà chính là vì quan quân và dân chúng hai phủ đã không giám đánh nhau với chúng. Bộ binh của các người đã hèn nhát bỏ trốn [8].

Bây giờ, theo lệnh Hoàng đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai đường thủy bộ vào dẹp giặc. Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như đập tan một cành củi khô, một thanh gỗ mục. Còn nhân dân hai phủ, các người đừng lo âu, đừng sợ giặc. Các người hãy để mắt nhìn, để tai nghe, xem trẫm sẽ làm gì. Các người sẽ thấy rằng trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang, những mảnh xương tàn của cái thây ma Gia Định, cũng như Phú Yên đã từng là trung tâm chiến trường và suốt một dải từ Bình Thuận vào tới Chân Lạp, sẽ tức khắc được thu phục. Như thế để ai nấy hiểu rõ rằng trẫm và Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó.

Trẫm kêu gọi nhân dân, lớn nhỏ, hai phủ, hãy ủng hộ hoàng gia, trung thành với Hoàng đại huynh, chờ đợi quân ta vào quét sạch miền Gia Định, lấy lại đất về ta. Tiếng thơm hai phủ các người sẽ mãi mãi lưu truyền sử sách.

Các người chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mà chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết trôi từ biền Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu [9] của chúng thì có gì là kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết.

Để cho đại quân của ta tiến vào được dễ dàng, các xã dân hai phủ ở dọc bên đường hành quân hãy kíp sửa sang cầu cống.

Lệnh này truyền tới, nhân dân hãy vâng theo ý trẫm.

Khâm thử

Quang Trung năm thứ năm, ngày mồng l0 tháng Bảy [10]
(ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức 20 ngày trước khi Nguyễn Huệ mất - tác giả chú)
==============================
1. Bài hịch này, hiện nay, chưa tìm thấy nguyên văn, không rõ viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. ở đây, chúng tôi dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp của giáo sĩ De la Bissachère trong sách Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumesde Cambodge, Laos et Lac-tho xuất bản năm 1812. Bản dịch tiếng Pháp này còn trích in trong hai sách khác: 1. trong sách của Al. Faure: Les Francais en Cochinchine au XVIIIe siècle.Mgr Pigneau de Béhaine, évêque d' Adran, xuất bản năm 1891, ở đây chỉ trích dẫn một số đoạn, không in toàn văn - 2. trong sách của C.B. Maybon: La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, xuất bản năm 1920. Trong sách này trích in toàn văn bản dịch tiếng Pháp, nhưng ở đôi chỗ: lời, ý và cách viết chữ có khác với bản in trong tập sách xuất bản năm 1812 của De la Bissachère.
2. Bản dịch tiếng Pháp viết là tỉnh, nhưng thời bấy giờ Quảng Ngãi và Quy Nhơn chỉ là hai phủ của dinh Quảng Nam.
3. Cựu triều: chỉ tập đoàn chúa Nguyễn ở Đàng trong.
4. Chủng là tên tục tức tên thường gọi của Nguyễn Ánh.
5. Không rõ nguyên văn là gì mà bản dịch tiếng Pháp viết là Europe (châu âu). Có thể là bản tiếng Pháp dịch sai. Nguyễn Ánh không trốn sang châu âu mà chỉ trốn sang Xiêm và các đảo ở phía vịnh Xiêm La, chắc chắn Nguyễn Huệ biết rõ điều đó. Xiêm và các đảo thuộc vịnh Xiêm La cũng là ở phía tây Gia Định.
6. Chỉ bọn phản động tay sai của Nguyễn Ánh ở Gia Định.
7. Hoàng đại huynh (notre frère l'Empereur) tức vua anh, chỉ Nguyễn Nhạc.

8. Theo bản dịch trong sách của Maybon thì câu này viết khác, đại ý là: "Quân của các người đã hèn nhát bỏ trốn, bộ binh trốn một nơi, thủy binh chạy một nẻo". Chưa rõ ý trong bản nào đúng với nguyên văn.
9. Khinh khí cầu là một thứ quả bóng tròn, lớn, làm bằng vải, cho hơi đốt hoặc khinh khí vào trong, có thể đưa bóng lên cao trên không được. Hai anh em Mông-gôn-phi-ê (Montgolfier), người Pháp đã sáng chế ra khinh khí cầu và đưa ra thí nghiệm lần đầu tiên ngày 5 tháng 6 năm 1783. Cách mấy năm sau, khoảng 1790 Boa-xơ-răng, một giáo sĩ Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh, đã làm thí nghiệm thả những khinh khí cầu lên trời để lòe bịp nhân dân Gia Định, Quy Nhơn về phép lạ của người Pháp. Nhưng sự lòe bịp ấy không có hiệu quả. Năm 1797, tên Boa-xơ-răng đã bỏ mạng ở Nha Trang, sau trận đi đánh Đà Nẵng trở về.
10. Bản trích dẫn trong sách của Al. Faure viết sai là ngày 10 tháng Năm âm lịch.

HỊCH XUẤT QUÂN ĐÁNH NHÀ TRỊNH (1786)

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư;
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách.
Hội thuận ứng thế đừng được chửa?
Việc chinh tru lòng há muốn ru!
Đây:
Bẩm khí trời Nam, Vốn dòng họ Nguyễn,
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn;
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào Man dòm vạc Hán.
Giận quốc phó ra lòng bội thượng, nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé;
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than.
Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân, ắt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ,
Nào biết ngôi đời có bảy, giặc họ Trương toan phiến biến muời tuần;
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước.

Thế bạng duật đương còn đối mặt; thói đường lang sao khéo lắng tai!
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngữ binh điếu phạt,
Trong sáu chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly.
Cung đài thành quách phá lâng lâng, súng ống thuyền bè thu thảy thảy!
Cơn gấp khúc chằng thương lòng ngoại tộc, đã cùng rừng đuổi thú thời thôi;
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?
So chữ bạo, lửa nồng quá Hạng, dò lòng người, nước chảy về Lưu.
Chúng điêu tàn mang cờ nghĩa về đầu, khiến quân số một ngày một thịnh,
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, nên binh uy càng thấm càng thêm.
Quảng Nam đà quét sạch bụi trần, Thuận Hóa lại đem về bờ cõi.
Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện?
Cảm công đức vua Lê dám phụ, lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng;
Tội hoàng sừ chẳng có, ... lòng trinh thêu dệt vào bình.
Hiệu Đoan Vương [1] càng tỏ dạ vô quân,
Mưu thoán đoạt lại gây lòng bội phụ.
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành?

Điện Đô [2] tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải?
Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh, mặt nào trông vào chốn tử cung?
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất,
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời!
Ví tôn phù ủng bức chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó?
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
Vì phế lập muốn mình cho ích, để khuynh nguy làm nước phải lo.
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn;
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra.
Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn,
Binh tức khắc lại dương buồn Bắc Hải;
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sử chính dẹp tà,
Vào đất Quan hét ngựa Hán hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo.
Sắp sửa vốn nguyên lòng thật, vỗ về phải ngỏ lời ngay.
Chữ "hướng minh" phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế,
Máy "trợ thuận" hẳn nhiều kẻ biết.
Tần lại dân ngưu tửu nữa ta.
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng Hạ chúng hề tô;
Ta chả phụ dân lành, ắt bốn chữ thu hào vô phạm.

Thói bội phản chớ quen như trước, phút thái bình đều hiểu về sau.
Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn;
Lửa cháy đá nở hòa lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.
Ân với uy ngỏ cáo lời hằng, thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.
==============================
1. Đoan vương: Đoan nam vương, tước hiệu của Trịnh Khải.
2. Điện đô: Điện đô vương, tước hiệu của Trịnh Cán.




CHIẾU LÊN NGÔI VUA CỦA NGUYỄN HUỆ (1788)

Trộm nghĩ: năm đời đế đổi họ mà chịu mệnh, ba đời vương gặp thời mà mở vận, đạo có thay đổi, thời cũng biến thông, đấng thánh nhân vâng theo đạo trời để làm chủ tể trong nước, làm cha mẹ dân, chỉ có một nghĩa mà thôi.

Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay, thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất chính quyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm nay, kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm gần dây, nam bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than. Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh [1] rong ruổi việc nhung mã, gây dựng nước ở Tây Thổ, vỗ yên các nước Xiêm La, Cao Miên, đánh lấy Phú Xuân, tiến ra Thăng Long, cố ý quét
sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa, rồi sau trả lại nước cho họ Lê, trả đất về đại huynh, trẫm sẽ dung xiêm thêu hia đỏ ngao du hai nơi làm vui mà thôi. Nhưng việc đời dun dủi, trẫm không theo được cái chí xưa đã định.

Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, chỉ trông mong vào trẫm, về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Qui Nhơn, tự nhún xưng là Tây vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm. Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì rộng, nhân dân thì nhiều, ngẫm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như dây cương mục chỉ huy sáu ngựa.

Vừa rồi đây, văn võ tướng sĩ, trong ngoài thần liêu, đều muốn trẫm sớm lên ngôi báu để giữ chặt lòng người, đã hai ba lần dâng thư khuyên trẫm lên ngôi, tờ biểu suy tôn, không ai bàn tính với ai mà đều cùng một lời tán thành.

Nay xem khí thần rất hệ trọng, ngôi trời thật khó khăn, trẫm chỉ lo không kham nổi, nhưng ức triệu người trong bốn bể đều xúm quanh cả vào thân trẫm, đó là ý trời đã định, không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường.

Trẫm chọn ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung năm đầu, truyền bảo cho trăm họ muôn dân phải tuân theo giáo lệnh của nhà vua. Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người, trẫm nay cùng dân đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước, lấy giáo hóa trị thiên hạ.

Một là: mười ba đạo các xứ địa phương, vụ đông năm nay, các khoản "tô, dung, điệu" chỉ thu năm phần mười, nơi nào bị nạn binh hỏa, cho phép các quan chức đến nơi xét thực, tha miễn tất cả.

Hai là: bầy tôi và nhân dân cựu triều hoặc bị vạ lây đã phải kết tội nặng, trừ tội đại nghịch bất đạo, còn thì đều cho đại xá.

Ba là: các đền thờ dâm thần đều bãi bỏ đi không được liệt vào tự điển, còn các đền thiên thần và trung thần, hiếu

tử, nghĩa phụ, trước đã được các đời bao phong thì nay đều cho thăng trật.

Bốn là: quan viên văn võ cựu triều, hoặc vì tòng vong trốn tránh, cho phép được về nguyên quán, người nào không muốn ra làm quan cũng cho tùy tiện.

Năm là: nhân dân Nam Hà, Bắc Hà, cách ăn mặc cho được theo tục cũ, dùng áo mũ triều nghi thì nhất luật phải theo qui chế mới.

Than ôi! Trời vì hạ dân đặt ra vua, đặt ra thầy, cốt là để giúp thần thượng đế, yên vỗ bốn phương. Trẫm nay có thiên hạ sẽ dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi dài xuân. Vậy tất cả mọi người thần dân đều yên chức nghiệp, chớ có theo đòi những việc sai trái; người làm quan giữ đạo công liêm, người làm dân vui theo lệ tục, giáo hóa thấm nhuần, đi đến con đường chí thận, để vãn hồi lại thịnh trị của năm đời đế ba đời vương, để kéo dài phúc lành của tôn miếu, xã tắc không có bờ bến, chả là tốt dẹp lắm ru!

(Nguyên văn chữ Hán trong Hàn các anh hoa Theo bản dịch tiếng Việt của Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, quyển III (Hà Nội 1963)
============================
1. Hoàng đại huynh: chỉ Nguyễn Nhạc.

 Nguồn: Ketnoivip

*****

Miệt u minh

Xuân Bình:
(viết xong vào ngày khởi công thủy điện Xayaburi, 19-4-2011)

Có những khoảnh khắc miền Tây khiến ta chợt nhận thấy trần gian, thiên đường, địa ngục được nối liền với nhau không chỉ bởi những dòng sông?
Mấy chục năm qua, chỉ còn duy nhất một nơi tôi chưa đi: Đất Mũi. Tôi đã lặng lẽ lần theo dấu vết Mê Kong từ thượng nguồn Tây Tạng xuôi qua Myanmar, Trung Quốc, Lào, Campuchia thì hà cớ gì ngại đi tận cùng đất Việt? Hành trình khám phá dòng chảy vỹ đại góp phần tạo nên đồng bằng Nam bộ này rất cần một khoảng bỏ ngỏ, thiếu hụt, chưa tròn đầy, không khép kín. Cũng là để dành chỗ cho một ước mong, hy vọng dù rất mong manh.
Nhưng cuối cùng thì một run rủi cũng đưa đẩy tôi tới cực Nam. Đất Mũi đã mau mắn bê tông hóa một câu thơ ngổn ngang sự tô vẽ. Cà Mau xây đắp, công kênh một con thuyền không đủ năng lực tạo nên dù chỉ là ảo giác chuyển động. Chòi lên cao hơn rừng đước, rừng tràm là cái tháp canh rất xấu. Nó chỉ giúp người ta trèo cao. Không có nhiều chất liệu để gây men cảm xúc tự hào về Tổ Quốc. Thiếu hụt một vị thế để tạo nên tầm nhìn vượt xa hơn biên cương. Cụt hẫng, cứng đờ một góc hình hài đất nước.
Nếu ai từng tới Kudat, một điểm cực Đông của Malaysia cách Đất Mũi chừng 1300km về phía Đông Nam, khi so sánh, đối chiếu với Đất Mũi chỉ thấy nghẹn đắng thất vọng và tủi.
Ký ức mây trắng?

Nhiều năm qua, với riêng tôi, không gian miền Tây là một tứ giác rộng lớn với bốn tọa độ: đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu, Cần Giờ và Đất Mũi. Cực Nam chỉ là một phần không thể thiếu, nơi ấy không có sông hồn, rừng linh, đất thiêng nhưng luôn cho ta một cảm nhận lạ lùng.
Trong những lần trở về miền Tây, có khi tôi khởi phát từ dấu vết của nền văn hóa Giồng Phệt, điểm tiếp nối giữa di sản của sông Đồng Nai và Cửu Long. Có đôi lúc trôi xuôi theo con nước ròng sông Hậu hay ngược lên biên giới Tây Nam cùng con nước nổi Đồng Tháp. Không dự định, không kế hoạch hay toan tính, cứ để cảm xúc xuôi dòng hay tan chảy về khắp miền đồng bằng đúng như cách mà các dòng chảy đã bền bỉ tạo hình châu thổ.
Trong những hành trình đó, tôi ký thác niềm tin vào những khảo sát kỹ lưỡng của Lê Quang Định viết trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806 ) hay ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia định thành thông chí (1820).
Quá đỗi yêu thương một khúc Dạ Cổ Hoài lang của Cao Văn Lầu. Phải mất thật nhiều thời gian và công phu để trở thành nhịp 8 và tình khúc này đã lan tỏa khắp mọi ngóc ngách vui buồn, sướng khổ của đồng bằng châu thổ.
Trân trọng biết bao những trầm tích sống được lắng đọng từ Hương rừng Cà Mau, Vạch một chân trời…và từ một thân phận Sơn Nam héo hon.
Tôi ước rằng mình cũng có một tấm lòng như Nguyễn Hiến Lê khi ông để lại cho cuộc đời hàng trăm công trình khoa học. Học giả đã dành hơn 40 năm để viết “Con đường thiên lý” một tiểu thuyết duy nhất. Phía sau tác phẩm văn học là cuộc truy tìm về gốc tích, căn nguyên của một thân phận Việt. Một Trần Trọng Khiêm vật vã trốn chạy khỏi Bắc Kỳ trong một số kiếp lang bạt kỳ hồ. Một Lê Kim dứt bỏ châu Âu hoa lệ, “thung lũng vàng” xứ Hoa Kỳ để trở về làm vị tiền hiền khai phá đất hoang, đặt nền móng cho làng Hòa An- Cao Lãnh.
Thực sự cảm phục Đoàn Giỏi khi ông vượt qua những xô bồ của hiện thực Hà Nội trong những năm đầu kết thúc chiến tranh để tái hiện Đất rừng phương Nam. Làm thế nào để suy tư khi mỗi ngày phải khắc khoải bên cạnh bãi bia Cổ Tân, một nỗ lực tiêu biểu cho sự nghiệp nhậu nhẹt vỹ đại. Làm cách gì để mạch văn vẫn mượt mà khi sống chung với tiếng thử phanh lộng óc của xe tải trước cửa Nhà hát lớn…? Trong sâu thẳm ký ức Đoàn Giỏi, thiên nhiên Nam bộ vẫn bén rễ và trỗi dậy, vươn lên. Khi thoát khỏi một con người tuyên huấn, khi dừng mô tả, phân tích tính cách cũng như xây dựng nhân vật chính diện hay sự nghiệp họ theo đuổi, nhà văn rạng rỡ, bay bổng, quyến rũ như tâm hồn trẻ thơ. Chẳng bạn đọc nào có thể quên những đêm câu rắn, những lần tìm kiếm mật ong rừng hay chuyến bắt cá sấu…
Nhưng tôi cũng hoài nghi và nhiều lần tự hỏi điều gì thôi thúc Xuân Diệu viết bài thơ Mũi Cà Mau hay Hoàng Hiệp sáng tác ca khúc Đất Mũi Cà Mau? Mau hay chậm một lối tiếp cận hiện thực đời sống, một quá trình hoài thai tác phẩm? Khẩu hiệu nhiều hơn thơ? Tụng ca lấn át tình ca? Tình người láng coóng và cảm xúc trơ truội? Nhàn nhạt?
Nhiều ngày trở về từ Đất Mũi, trong tôi vẫn chỉ ám ảnh một nụ cười Nguyễn Ngọc Tư. Một dư âm tưởng như hồn nhiên, trong sáng, không gì vướng bận nhưng đôi khi mơ hồ cảm thấy cái… “không thật” như tác giả “tự thú” trong ghi chép “Đất Mũi mù xa”. Nụ cười mỏng mảnh ấy như muốn lan tỏa lớn rộng để che, giấu đi những điều đau buồn bất tận của những cánh đồng, những kiếp người?

Đổi dòng!


Trước khi vào Đất Mũi, gia đình tôi có ghé qua Cổ Tân. Con phố rất nhỏ, rất ngắn, hơi méo và nằm đối diện với Nhà hát lớn Hà Nội. Phố chỉ có hai số nhà. Căn phòng rất chật hẹp ở số 4, nơi Đoàn Giỏi từng kê giấy lên một cái gường để viết Đất rừng phương Nam đã không còn tồn tại, đã biến mất. Con tôi chạy dọc đường Tràng Tiền, Cổ Tân, gặp ai nó cũng thử dò hỏi. Anh ơi, cho em hỏi đường đi đến Cổ Tân? Dạ thưa chị: nhà ông Đoàn Giỏi ở chỗ nào? Bác cho cháu hỏi: Tác giả Đất rừng phương Nam từng ở đâu? Nhiều cái lắc đầu ngơ ngơ và… không có một câu trả lời đúng. Có lẽ nhiều người Hà Nội không biết Cổ Tân cũng như một nhân vật khá nổi tiếng từng ngụ cư nơi này.
Ngay lúc đó, một suy nghĩ cứ ám ảnh tôi: Đất Mũi, miền Tây sẽ còn lại những gì như đã tái hiện trong văn học? Hà Nội còn nhốn nháo, suy kiệt. Đà Nẵng vẫn tiếp tục loay hoay. Sài Gòn quá xộc xệch, hỗn loạn. Trong cơ đày ấy, miền Tây liệu có như Tây Bắc, Tây Nguyên?
Khi đã trườn mình trên kênh rạch Đầm Dơi, Cái Nước, Đông Thới, Năm Căn, An Đông, Ngọc Hiển…nào đâu còn lưu hương rừng Cà Mau? Không còn nhiều cơ hội biết đến một miền Tây như những ghi chép của Sơn Nam:
“Sậy mọc khỏi đầu. Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u ? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.”
Bỗng thấy nhớ và thương đám bạn trẻ con ngày trước, đến bây giờ có đứa vẫn đọc cho con cháu nghe văn của Đoàn Giỏi:

“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối.”
Không nhiều hiện thực hôm nay dám bảo chứng cho những điều mà các nhà văn, nhà văn hóa đã ghi chép, để lại.
Thấy buồn hơn khi đọc những chia sẻ của Nguyễn Ngọc Tư: “Đất Mũi thiệt tình không có núi cao, không có biển xanh, cát trắng, không cung đình cổ kính lại càng không có phổ cổ đìu hiu. Đất Mũi chỉ có bùn sình, rừng thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục ngầu phù sa nhưng ở đây nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải, biển bên trái. Bình minh, mặt trời từ biển quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về, mặt trời chín đỏ già nua lại ngụp về biển sau một ngày tự cháy.”
Mấy chục năm qua, môi trường nhân văn đổi thay theo chiều hướng không thuận thiên đã kéo theo quá nhiều hệ lụy. Một thời gian dài, người ta dư thừa tự tin với ý thức cải tạo thiên nhiên, thay trời, ngăn sông, mở đất, dịch chuyển giang sơn. Tư duy…Trị… thủy sông Hồng rất hồn nhiên, ngang nhiên tạo nên sóng thần ở miền Tây. Thuật ngữ “Mùa nước nổi” được “phiên dịch”, “chuyển ngữ” thành mùa ngập lụt. Sự hình thành tự nhiên của kênh rạch được định nghĩa như một nguy cơ gây nhiễu loạn dòng chảy. Ơn cao dày của trời đất, cơ may của đồng bằng châu thổ lại được hiểu là “thảm họa”. Nhiều kênh đào hiện hình để kỳ vọng nắn nước, đổi hướng phù sa bồi đắp cho vịnh Thái Lan. Những dòng chảy cũ được khơi sâu. Đê bao vươn dài, bưng kín, khu biệt những đô thị mới. Các ốc đảo này gần như ngưng nhịp thở hài hòa với đồng bằng. Tất cả để cho nước Mekong rút tháo nhanh ra biển với mục tiêu thau chua, rửa phèn hay “giải phóng” tình trạng cô lập cho những vùng thấp dễ ngập lụt?!?!
Năm đầu tiên của thiên niên kỷ, chẳng hiểu sao rất nhiều người hoảng sợ và những tờ báo có ảnh hưởng lớn nhất cũng liên tục báo động vì tình trạng nước lên cao? Chỉ 10 năm sau, khi thủy điện lạ mọc lên dày đặc trên thượng nguồn, mọi cảnh báo đã phải đổi chiều. Nguồn nước dần suy kiệt. Hậu quả nhãn tiền là mất con nước nổi, cháy rừng tăng cao, hệ sinh thái thay đổi, nhịp sinh học tự nhiên bị biến dạng. Hàng loạt chương trình phát triển nông nghiệp, thủy sản đã và sẽ có nguy cơ phá sản…
Sau chiến tranh, tiếp theo những tham vọng ấu trĩ, tính toán may rủi cùng nhiều quyết định liều lĩnh, đen bạc thì sự hiện hình của những thủy điện Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn, Tiểu Loan, Cảnh Hồng của Trung Quốc, Xayaburi của Lào… thực sự là hiểm họa rất gần với miền Tây. (nơi cung cấp hơn 50% lượng lúa gạo, hơn 70% thủy sản và hơn 70% trái cây cho cả nước.) Thêm một lần nữa, khi nguồn nước bị chặn lại, đổi dòng từ những nơi rất xa thì người miền Tây có nhiều nguy cơ bơ vơ trên cánh đồng, lạc lối trong miệt vườn.

Từ những mắt thuyền…

Dù ở thời đại hồng thủy của Noe hay trong bộ phim giả tưởng 2012 của Roland Emmerich thì phương tiện giải cứu con người vẫn là những chiếc thuyền.
Điều này càng đúng hơn với một miền đất có khoảng 55000 km sông rạch. Nhà chỉ là chỗ tạm dừng, có thể bỏ. Hoàn cảnh sống sẽ tiếp tục biến đổi cực kỳ phức tạp. Nhưng trong tương lai vài trăm năm nữa, trung tâm, đặc trưng không gian sống miền Tây không phải là ngôi nhà. Bản thiết kế hay triết lý cho mọi kiến trúc miền Tây phải được chiết xuất từ những thông điệp lớn của những con thuyền. Triết lý ấy là sống thuận với trời đất, lựa theo con nước, ưa sự dịch chuyển, luôn thay đổi. Sơn Nam từng nhận xét: những con thuyền và nghề thương hồ đã tạo ra miền Tây.
Từ xa xưa miệt sông nước này có thật nhiều loại tàu thuyền, ghe, xuồng, phà, chẹt, bè. Xuồng có loại ba, năm lá, xuồng máy. Ghe có loại bơi chèo, chống, ghe lườn, ghe chài, ghe hầu, ghe bầu, ghe tam bản mui ngắn, ghe tam bản mui dài … Ghe lườn còn gọi là ghe độc mộc, thon nhẹ, bụng nhỏ và dài, không cong ở mũi và lái. Ghe chài dùng cho người sống trên sông nước, buôn bán đường dài. Ghe hai tầng, chia làm hai phần chứa hàng hóa và sinh hoạt. Di chuyển nhanh, chở nhẹ có ghe lưới. Chở hàng có ghe bè, ghe lồng. Đánh bắt tôm có ghe cào tôm. Chở cá thì có ghe cá, ghe rổi. Ghe hầu là loại ghe lớn có trang trí rồng, sơn son thếp vàng dùng cho gia đình giàu sang. Ghe bầu được đưa từ miền Trung vào Nam bộ những năm giữa thế kỷ 18. Ghe có lườn rộng, cấu trúc vững chãi, chịu sóng gió, sức chứa lớn.
Ngày trước, vật liệu tốt nhất để đóng ghe bầu là gỗ sao ( Hopea Odorata). Gỗ sao chịu được thay đổi của thời tiết, chống được côn trùng, dễ làm, dễ uốn dẻo, dễ sơn, chịu va đập mạnh. Nguồn gỗ sao quý nhất là ở rừng Quang Hóa thuộc Gia Định(nay thuộc huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh). Thuyền đóng bằng gỗ sao có thể dùng trong 60 năm.
Từ cuối thế kỷ 18 khi nhu cầu buôn bán gạo của Việt Nam- Thái Lan và Trung Quốc tăng đột biến, từng đoàn ghe bầu tấp nập trên các kênh rạch góp phần tạo nên hình ảnh một thương cảng, đầu mối giao thông nhộn nhịp bậc nhất châu Á cho đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay, hình ảnh của những con tàu cũng xộc xệch đổi thay từ những điều rất nhỏ. Mắt thuyền là điếm nhìn ấn tượng nhất của mỗi con thuyền. Vị trí đầu mũi, trán thuyền là một không gian được thiêng hóa. Vẽ mắt thuyền là một hiện tượng văn hóa phổ biến. Ngày trước thuyền ngự Long Lân, Trân Châu… của vua nhà Nguyễn thường chạm, khắc, vẽ long, phụng, hổ phù. Thuyền của các cự phú thì sơn son thếp vàng mô típ hoa lá, chữ phúc lộc…. Ghe xuồng của dân đều vẽ mắt để trấn áp thủy quái. Nhiều ghe trang trí rồng hoặc mô típ rắn thần Naga ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Ấn Độ. Biểu tượng đó cũng đồng hiện với tín ngưỡng thờ sông, thờ nước.
Nhưng hôm nay trên rất nhiều vỏ lãi chế tạo từ nhựa tổng hợp đã mất dần đi biểu tượng linh thiêng đó. Ngay đầu mũi thuyền là hình con Cơ, con Nhép đỏ trong quân bài Tây. Du nhập đầu tiên vào Việt Nam ở vùng núi cực Bắc, poker mau chóng trở thành tú lơ khơ, ích xì những phương tiện không thể thiếu của những cuộc tá lả, xì lát, xì dách, xì tố, tiến lên, bài tấn, xập xám…Quân Nhép phiên trại âm từ trèfle vốn là tên gọi của một thứ cỏ ba lá. Quân Cơ là phiên âm từ coeur (gốc Latinh: cor) có nghĩa là trái tim.
Sau hơn 60 năm theo dòng người Bắc di cư, Nhép trở thành một định nghĩa mới về những may mắn, tài lộc, tài chính, tiền bạc. Cơ là biểu tượng mới cho may mắn, tình duyên, son đỏ, hên. Những lá bài may rủi đã trở thành những tín hiệu vật linh. Tiền và Tình trở thành tín ngưỡng, tôn giáo mới. Ở những chốn xa xôi, heo hút nhất, cái quá bình thường của văn hóa phương Tây lại được tôn vinh trên bề mặt những vật dụng thiết thân. Văn hóa vật chất lấn lướt văn hóa tâm linh. Cái thực dụng dẫn đầu, định hướng những giá trị tinh thần.
Từ một chi tiết nhỏ bé vẽ in trên vỏ thuyền lại có thể dự báo tương lai gần của Đất Mũi, miền Tây? Bao đời nay miền đất này vẫn chấp chới, nhập nhòa giữa đôi bờ hay hai lộ trình sáng- tối, phải- trái, động- tĩnh, dục- lý, nghĩa- lợi, hỷ- nộ, ai- lạc…Trôi dạt hay ngưng đọng…khi nước ngọt suy kiệt, thủy triều mặn dâng cao qua vùng biên giới Tây Nam?

1, 0994, 0996: không ảnh sông nước Nam bộ
8662- Ghe bầu Nam Bộ. Tranh do J.B. Piétri vẽ trong sách Contrôleur des Pêches de l’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương).
8695- Nam bộ trong tranh khắc người Pháp TK18
8699- tàu thuyền của vua Tự Đức 1862
8700- một cảng sông 1883

*****

Tìm kiếm Blog này