La liệt những người chết đói bên đường - Ảnh tư liệu |
TT - Hơn 2 triệu người đã chết vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh
hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005
này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi
đau ấy...
hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005
này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi
đau ấy...
Chúng
ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta
cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những
người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục
kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã
chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói.
Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ.
Tiết
xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng
rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm
xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời.
Từ
thành phố Thái Bình xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ thì đến xã Tây
Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như
hội. Cảnh thái bình no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm
trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc...
Bàn chân quỷ đói
Ông
lão khoan thai quắc thước không giấu vẻ mãn nguyện của cảnh đề huề phúc
lộc. Ông là Lại Thanh Hằng, người thôn Trung Tiến, tuổi 77, sức vẫn
khang cường, vợ chồng yên ấm, nhà cửa đàng hoàng. Gần chục người con đều
đã nên gia thất, tài danh hưng vượng. Nhưng câu chuyện của 60 năm xa
xưa ấy đã làm ông bật khóc. Tiếng nấc khô khốc và giọt nước mắt người
già thấm qua những nếp nhăn sâu hằn, bật lên nỗi đau khổ tột cùng.
Ông
kể: Ngày ấy, gia đình ông cũng như bao nông dân khác nối đời sống bên
ruộng lúa, vườn khoai. Cái bóng của đồn Tây và cổng đình bao năm đè nặng
kiếp người. Đường làng khi in thêm dấu giày lũ Nhật lùn thì cuộc sống
ngày càng ngột ngạt bởi sưu cao thuế nặng. Cái khô ngái của giong,
khoai, củ chuối... ngày một đậm đặc trong nồi cơm.
Bố
mẹ ông bàn tính gì đó rồi mỗi bữa cơm cắt bớt phần gạo. Dần dần bớt cả
bữa ăn. Năm đó ông 17 tuổi, sức đương trai nhưng mỗi ngày cũng chỉ có
nửa bát cơm, hai củ khoai. Sau rồi mỗi sáng ông đi chăn trâu, mẹ ông cho
một nắm thóc rang vừa đầy một lòng bàn tay. Ông gói qua mấy lần lá rồi
vài tiếng lại lấy ra vã vào mồm nhai cả trấu, chia đều cho cả ngày dài.
Đêm
đêm gia đình ông hì hụp ngoài sông Sứ cất vó tép. Ba, bốn người ngoi
ngóp cả đêm may ra hôm sau đem ra chợ đổi được một chén thóc. Có hôm
không ai mua thì đem về đổ vào nồi nấu cháo. Đầu tháng giêng, mẹ ông bắt
đầu đem nồi đồng, mâm, ấm, lư hương, tủ thờ... đi bán.
Rồi
bố ông dắt trâu xuống huyện cầm cố đem về được 2 yến thóc. Mẹ ông giấu
lúa vào bì, lấy gỗ đá, cối xay chất lên làm sao để không ai có thể lấy
ra được. Chỉ mình bà biết một cái lỗ thông bằng mắt trâu có thể thọc tay
móc ra ít một. Thỉnh thoảng bố ông nói: “Bọn cướp đang rình nhà
mình...” rồi ông kê chõng ngủ bên ngoài với một cái thuổng sắc.
Nhà
ông bắt đầu phải giết chó, giết lợn, giết gà… Không chỉ để ăn, mà bởi
cũng không còn gì để nuôi nó. Có nhà phải giết chó mẹ và 4 chó con vừa
mở mắt. Hết gia súc, gia cầm, người ta đào củ chuối, hái rau rệu, rau
má, bẻ cây ngô, mò ốc, đào cua, bắt cà niễng, cào cào, châu chấu… để ăn.
Cầm cự đói, nhà ông cùng dân làng ra đồng bắt chuột.
Chuột
năm ấy chậm chạp, lại dạn người có lẽ cũng vì đói và liều nên rất dễ
bắt. Thời gian đầu còn chuột thì chúng được nấu giả cầy, nướng lá chanh,
hấp chấm muối, bó giò... Nhà ông còn kho đến mấy nồi đất toàn chuột nấu
đông ăn dần. Sau hiếm chuột. Bắt được một con cả nhà mừng như phá cỗ,
nướng qua loa rồi xé vội vàng ăn...
Tất cả các loại
cây đu đủ, dứa dại, chuối, giong... ngoài đường, trong vườn đều bị đốn
ăn không còn một mống. Có gia đình đói quá nghiền trấu, trộn mùn cưa vào
cháo ăn. Cháo ít hồ dần, cuối cùng toàn mùn cưa với trấu. Làng bên còn
có người ăn cả đất. Lại có người ngày nào cũng chạy theo mấy con ngựa
của Nhật, Tây để hốt phân của nó về đãi lấy hạt ngô chưa bị tiêu hóa để
ăn...
Cái đói giày vò, đày đọa con người đến cùng
cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Nó kéo
bàn chân lê khắp ruộng, khắp làng. Nhà mình đói, làng mình đói thì nhà
người ta, làng người ta cũng đói nên có gì đâu mà kiếm. Nhưng cái đói nó
không cho ngồi, nó bắt phải đi. Kể cả đi đến nơi mà hôm qua vừa bỏ về…
Theo
giáo sư Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học VN, ngoài các chính
sách tô cao thuế nặng, Nhật còn đưa ra một “chương trình kinh tế chỉ
huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của mình.
Cụ
thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế
yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm.
Bốn
năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đã ký bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô
cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng
sản lượng lương thực VN thời đó.
Để phục vụ chiến
tranh, phát xít Nhật còn cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có
sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đã bắt rất nhiều
vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.
Tài
liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp
chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu
mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này.
Cũng theo
tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến
50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải
bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm
khó khăn.
Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu:
than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa
gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người
dân vào thảm họa chết đói.
|
Làng
quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân nhà,
ngõ xóm. Tiếng trẻ con khóc như mèo hoang ai oán suốt đêm. Người người
đổ hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương,
bóng đêm đen đặc xuyên qua cái tết lúc nào chẳng hay… Cả thế gian là một
màu vàng vọt, xiêu vẹo của đói và đói... Bắt đầu đã có người chết đói
trong làng…
Người khiêng xác
Chỉ
ra vườn chuối phía sau nhà, ông Hằng nghẹn ngào nói: “Cái chết đau
thương nhất đối với tôi là bác Ngảnh, đó là bác ruột tôi và cũng là một
trong những người đầu tiên của thôn chết đói.
Thật
ra thì bắt đầu khoảng rằm tháng giêng đã có người chết đói ngoài chợ,
ngoài đồng. Những gương mặt phù thũng, những ánh mắt thất thần, những
thân hình tiều tụy dúm dó bên đống rạ, bụi chuối... đã mang nặng bóng
dáng của thần chết rồi.
Nhưng nửa đêm nghe tiếng
khóc khô khản vẳng ra từ nhà người thân thì tôi thật sự hãi hùng. Bác
Ngảnh chết lạnh cứng đờ, người co quắp trong ổ rơm. Lật thân hình da bọc
xương, dúm dó trong mấy miếng vải rách nát, tôi thấy mấy sợi rơm còn
vương trong miệng bác. Đó cũng là người đầu tiên trong họ nhà tôi chết
đói”.
Khiêng người bác ra đồng chôn, về đến nhà lại
có người nhờ bố con ông Hằng đi chôn người chết. Và bắt đầu từ đấy
người chết đói trong làng đếm không xuể. Bố con ông Hằng là một trong số
ít người còn đủ sức để chuyên đi chôn người chết.
Hồi
tháng hai, tháng ba, người chết còn được chôn bó chiếu. Sau đến tháng
tư, năm cả làng chết đến mấy trăm người thì không ai còn sức, chẳng nhà
nào còn đủ chiếu chăn thì bó xác người bằng vó, bằng lưới, vùng biển thì
bằng mảnh buồm. Có khi bó một người lớn với hai ba đứa nhỏ trong một
tấm vó.
Ông Hằng thấp hơn nên thường đi trước. Ông
nhớ có hôm mình phải đi chôn 4-5 người, mệt quá không nhấc cao tay lên
được. Cái đầu người chết thả trễ xuống đất cứ đập bình bịch vào gót chân
ông theo mỗi bước đi. Ông Hằng trở thành người chuyên chôn xác đói lúc
nào không hay.
Bà Hoàng Thị Chén, 87 tuổi, người
thôn Hiên, nói: thôn này lúc cao điểm một ngày chết mấy chục người. Cả
người thôn mình lẫn người nơi khác đến đây rồi chết.
Cứ
sau mỗi đêm lạnh là lại la liệt xác người trong nhà ngoài ngõ, giữa
đồng. Tuần đinh lấy dây buộc vào cổ tay, cổ chân, cổ họng người chết rồi
kéo lê ra hố quăng xuống. Sau này chồng bà cùng những người khác đào hố
lên thấy có những đám cả 4-5 người bị chôn ở tư thế ngồi, họng còn thắt
sợi dây thép.
Ông Lê Văn Bình ở huyện Đông Hưng
còn kể: bấy giờ ở những khu phố hay cổng làng nhà giàu, quan lại người
ta còn phải thuê người đem xác dân chết đói đi chôn, tránh thối rữa
trong làng xã, khu phố. Giá ban đầu là một đồng một xác người, sau hạ
xuống 5 rồi 3 hào. Có tay làm ăn dối trá, đào hố nông choèn, vùi lấp qua
loa. Vài ngày chuột, quạ, sâu bọ lại bới lên thối không chịu được...
QUANG THIỆN
------------------
Kỳ 2: Dưới đáy của địa ngục
Xương người chết đói được cải táng từ những hố chôn tập thể - Ảnh: Võ An Ninh |
Nhà hoang - làng trắng
Trong
căn nhà bêtông lát gạch được tô điểm bằng những chậu hoa, cây cảnh điệu
đàng, gia đình ông Tô Văn Nuôi (xóm Trại, Tây Lương - Thái Bình) rộn rã
tiếng cười quanh đứa bé 5 tháng tuổi bụ bẫm đáng yêu như hòn ngọc quý.
Ông Nuôi là người đàn ông duy nhất trong dòng họ Tô của xóm Trại sống
sót qua nạn đói 1945.
Bà Duy - cô ruột của ông,
năm nay 87 tuổi - kể lại: “Chính trên nền đất này bố tôi đã chết hồi
tháng hai năm đó. Mấy tuần sau mẹ tôi chết cứng lạnh khi ba chị em tôi
vẫn ôm bà ngủ trong ổ rơm. Cả họ chết dần và đến tháng tư còn lại một
mình nó (ông Nuôi)...”.
Ông Nuôi khi ấy mới 5 tuổi
nhưng bà Duy cũng không biết làm thế nào giúp cháu. Thậm chí bà cũng
không còn nhớ là có một đứa cháu bị đánh rơi, bởi chính chồng con bà
cũng chết vì đói, bản thân bà cũng đã phù thũng mặt mày, nằm gục rồi lại
dậy, không biết còn sống đến hôm nào.
Ông Nuôi
cũng không còn nhớ chút gì về gương mặt, tình cảnh hay cái chết của bất
cứ ai trong nhà mình. Ông chỉ biết rằng một mình ông hết sáng lại tối,
không quần áo bò lê quanh nền bếp đầy rơm, muỗi và thạch sùng. Nhà không
một bóng người. Xóm cũng không ánh đèn, không tiếng người, tiếng chó.
Ông Nuôi không thể nhớ mình đã sống qua ngày ấy như thế nào, đó là địa
ngục hay trần gian.
Ông nói: “Có lẽ tôi bốc tất cả
những gì mình gặp để cho vào mồm. Khóc rồi bò. Bò rồi ngủ...”. Mãi 15
năm sau, khi ông lấy vợ thì căn nhà ấy mới có thêm một con người.
* Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình ghi:
năm 1945 cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số.
Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số như xã Tây Lương: 67%; Sơn
Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người
thì chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết
không còn một ai…
* Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 ghi:
Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh
Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ
chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939
người, Hà Nam: 50.398 người.
* Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học: nạn đói năm 1945 đã diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra.
Từ
năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên, có sự giúp đỡ
của hàng trăm cộng tác viên của các tỉnh, thành cùng sự trợ giúp của
nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản đã tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc,
tỉ mỉ và rất khoa học tại 23 điểm đại diện cho các tính chất dân cư
khác nhau về nạn đói này.
Kết quả trung bình cộng
cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15%. Dân số VN năm
1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người. Con số 2 triệu
người chết một lần nữa được khẳng định.
|
Bà
Hoàng Thị Chén (thôn Hiên, Tây Lương) kể rằng mỗi đêm làng lại thưa
thớt thêm vài ánh đèn. Ấy là khi lại có nhà chết hết hoặc chết gần hết
và bỏ đi. Thậm chí nhiều làng, nhiều xóm không còn một ai. Vườn chuối
nhà bà hôm nay, 60 năm trước là nhà ông Hoàng Bê, họ hàng của bà.
Một
hôm bà thấy mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, chạy sang thì cả sáu người
nhà ông Bê nằm chết dụi mỗi người một xó. Thây người thối rữa, chuột,
bọ, kiến, muỗi... nhâu nhâu. Dân làng đến kéo sập mái nhà vách đất rồi
châm lửa đốt... Ông Lại Thanh Hằng (thôn Trung Tiến, Tây Lương) cũng kể
khi nghe báo nhà bà Lụt chết cả ba mẹ con trong bếp, chuột ăn, bọ rúc
hết rồi..., dân làng lấy xẻng xúc đất lấp nhà bà Lụt.
Theo
điều tra của Viện Sử học, chuyện tương tự đã diễn ra ở cả ba gia đình
thuộc xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa. Đó là nhà ông Cao Nhuần
Sặng, Trình Văn Tự, Nguyễn Văn Tự đều chết cả nhà, không ai chôn được
nên làng kéo sập nhà vùi tại chỗ.
Dòng họ Tô của
ông Nuôi có 35 người thì chết 31 người. Dòng họ Hoàng của nhà ông Hoàng
Bê có 31 người - chết 26 người, còn hai người nữa sống chết nơi nào
chẳng rõ. Tình trạng chết cả nhà, cả dòng họ, cả xóm, thậm chí cả làng
không còn một người diễn ra ở không ít địa phương miền Bắc lúc bấy giờ.
Riêng
ở xóm Bối Xuyên, xã Tây Lương có 51 hộ thì 40 hộ có người chết đói.
Trong đó 18 hộ chết không còn ai. Hai dòng họ Tô và Lại gần như bị xóa
sổ. Tỉ lệ chết đói là 62%. Đặc biệt xóm Trại ở thôn Thượng có 21 hộ, 82
nhân khẩu đều chết không còn một ai. Xóm bị xóa sổ.
Bi thương hơn chết đói
Ông
Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không
nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được
đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm
trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà
lang thang đi kiếm ăn.
Không kiếm được gì, người mẹ
biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp
người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì
thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà
đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng
kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ”.
Đoàn
cán bộ điều tra nạn đói của Viện Sử học cũng ghi lại rất nhiều chuyện
trẻ sơ sinh không người trông, tiếng khóc khi đói lả giống tiếng mèo nên
đã bị chó hoang ăn thịt như thế...
Họa diệt thân
năm ấy đến bằng đủ cách. Ông Hằng nhớ ở làng có gia đình nhà ông Tác rất
giàu có nhưng cũng chết đói cả nhà. Khi nạn đói ập đến, dân tình đem đủ
đồ đạc, của cải, đồ gia bảo ra chợ bán tống bán tháo để lấy tiền mua
gạo. Có cái nồi đồng bình thường đổi vài tạ thóc, lúc ấy chỉ đổi được
vài ống lúa.
Nhà ông Tác đem hết thóc lúa đổi của
cải. Khi hết lương thực dự trữ, ông bán đồ đạc thì không ai có tiền mua
nữa. Thế là cả nhà chết rục bên mấy kho của cải. Riêng xã Tây Lương cũng
có tới ba, bốn nhà giàu chết như vậy, như nhà ông Nguyễn Văn Tứ, Bùi
Văn Dị.
Ở Thanh Hóa còn có người đào được vàng năm
1934 và trở thành hào phú, nhưng vì mua sắm nhiều thứ của người đói bán
rẻ năm 1945 nên đến lúc hết tiền, bị đói không bán đồ được cũng chết.
Ông này khi chết còn mặc áo dài, đội khăn xếp co quắp ở gốc phi lao...
Bà Hoàng Thị Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) đứng trên nền đất nhà ông Hoàng Be - một gia đình chết sáu người không kịp chôn, phải kéo sập nhà để hỏa táng - Ảnh: Quang Thiện |
Ông Đót bị bắt
trói vào cột ven đường. Tên lính Nhật vung kiếm chẻ đôi vai, máu nhuộm
đỏ chiếc áo bông rách nát. Những người còn lại cũng dần bị bắt rồi chết
hết. Số lúa họ cướp được đem đi chôn ở đâu không ai biết. Tài liệu của
Viện Sử học còn ghi câu chuyện ông Nguyễn Văn Hợp (xã Quảng Đại, Quảng
Xương, Thanh Hóa) đi lĩnh cháo phát chẩn. Chen nhau, bị hương kiểm bắt
đánh đập, tẩm dầu vào tay đốt. Ông lết về đến nhà thì chết. Cả nhà cũng
chết theo không còn một ai…
Cũng ở xã này, vợ chồng
ông Viên Đình Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm
nhai mãi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết
theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi
chôn.
Ngoài thị xã Thái Bình có người bán cám cho
Nhật để chúng cho ngựa ăn. Loại cám này những người bán hàng đã pha mùn
cưa để bán cho người đói nhưng lính Nhật mua và cho rằng bị lừa nên đã
mổ bụng ngựa, giết chết người bán cám và nhét vào bụng con vật mà khâu
lại… Những câu chuyện rùng rợn và bi thương của nạn đói khiến nhiều
người ám ảnh suốt cuộc đời. Họ không muốn nhắc lại vì dường như sợ những
oan hồn ấy còn quanh quất đâu đây.
QUANG THIỆN
Kỳ 3: Hành trình của những “hồn ma”
Vợ chết rồi, chồng nhìn con, chờ đến lượt mình rồi con mình ngã xuống - Ảnh: Võ An Ninh |
Đoạn trường đày ải
Nghe
chúng tôi nhắc tới hình ảnh những người đói kéo nhau lên Hà Nội, bà
Chén (xã Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) cố ngước đôi mắt mù lòa, lẩy
bẩy đôi chân còm nhưng đã phù đỏ để đi ra ngõ. Bà nhớ từ cái ngõ này, 60
năm trước bà đã ôm con hòa cùng đoàn người lê theo sự dẫn dắt của cái
đói.
Đi đâu, về đâu thì không ai biết nhưng cứ
từng đoàn từng đoàn rách rưới, giơ xương, trũng mắt như quỉ đói âm thầm,
dắt díu nhau đi. Họ không phân biệt được nam nữ, già trẻ. Chỉ có thể
thấy những thân hình dài ngắn không đều mà đoán trẻ con hay người lớn mà
thôi. Họ đi chậm. Không ồn ào, không cười nói. Thỉnh thoảng có người đổ
gục xuống đường không giãy giụa. Nhiều thây người bất động, mắt mở
trừng trừng không biết sống hay chết.
Tại các cổng
chợ, ngã ba, đầu cầu, gốc cây họ nằm ngồi la liệt chìa tay ăn xin hay
bới tìm lục lọi. Ngay đầu chợ, một người đàn bà có vẻ giàu có đi ngang
qua, không hiểu bà ta kinh tởm hay ốm đau thế nào mà ôm bụng gập người
nôn thốc nôn tháo. Hai ba đứa trẻ vội lao vào tranh nhau bốc bãi nôn,
hối hả nhét vào mồm…
Bà Chén cũng gặp nhiều người
ôm con nhỏ như mình. Những đứa trẻ còn sức thì khóc, không còn thì lả
gục trên vai mẹ. Một người đàn bà xin được chút gì đó để ăn, bà ta kéo
đầu con để chia cho nó. Gọi hồi lâu người mẹ ấy mới biết con mình đã
chết tự khi nào. Trong góc chợ lại có một người đàn bà nhe răng, trợn
mắt nằm co quắp chết bên hai đứa trẻ.
Thằng bé
chắc chừng một tuổi không biết gì cứ hì hục nhay vú mẹ cho đến tận lúc
tối trời. Bà Chén đi hai ngày một đêm như thế thì đến thị xã Thái Bình…
Một số chết, một số ở lại, còn bà Chén và những đoàn người đói rách vô
hồn đó cứ như thế tiếp tục đi lên Hà Nội…
Trong
Viện Sử học VN có lưu một bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy
viết tháng 4-1945 tả về thảm cảnh của những cuộc hành trình này: “Họ
đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo
khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến
tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế.
Thỉnh
thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người trong bọn đã ngã và không bao
giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì
cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu
nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành
rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho
cái kiếp con người”.
Nhân tính tiêu tan... vì đói
“Ông
Kawai, đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ Nam ra Bắc qua tỉnh
Nam Định, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, phân phối trong
tỉnh, nói có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội.
Không những thế, tại một nhà thờ Thiên chúa giáo trong tỉnh gạo đầy ắp
trong kho. Ông đã thuyết phục cán bộ đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát
gạo nhưng họ không nghe…”.
(Trích: Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta của Minami Yoshizawa - Nhật Bản)
|
Lục
tìm trong tâm khảm sâu thẳm, đau đớn nhưng chắc hẳn còn sáng rõ của
mình, bà Chén nói: “Ánh mắt người đói lúc đó không có màu, không có
thần. Nhiều lúc họ xử với nhau như thú đói, không nhân tính...”. Bà Chén
lúc ấy bế một đứa con nhỏ trên tay. Dành dụm suốt từ đầu vụ đói, bà còn
được mấy hào trong túi để dành cho chuyến đi này.
Chợ
Bo (thị xã Thái Bình) lúc đó là một bãi đất được căng lên những mảnh
nilông, đay hay lá khô trên những chiếc cọc tre xiêu vẹo. Cả một biển
người nằm ngồi lê la bới rác, xin ăn chập chờn như những bóng ma. Vài
người ngồi xổm ánh mắt láo liên đầy cảnh giác bên những cái thúng úp mẹt
và thường là có thêm một, hai người đàn ông to khỏe dựng đòn gánh đứng
bên.
Đó là những người bán hàng. Khoai, ngô, hay
bánh cám, bánh đúc… trộn đầy trấu hoặc mùn cưa… Ai mua hàng phải chìa
tiền. Đứng tới nửa ngày bà Chén mới cảm thấy có thể an toàn để lại gần
người bán bánh hỏi mua. Thế nhưng đang định xé bánh cho con thì cả đám
người đang nằm như thây ma vùng dậy vồ lấy mẹ con bà, tranh nhau chiếc
bánh.
Những ngày sau, trên dặm hành trình địa ngục
ấy, tất cả số tiền bà có đủ để mua ba chiếc bánh thì bà đều bị cướp
hết. Cuối cùng bà cũng chỉ còn cách chờ nhặt rác rưởi, cọng rau, xin ăn
và tham gia cướp của kẻ khác như họ đã cướp của bà để ăn. Bà không nhớ
mình đi mấy ngày, mấy tuần hay mấy tháng thì tới Hà Nội.
Con
trai bà Chén năm nay cũng đã ngoài 60 tuổi. Anh nói: “Những câu chuyện
cướp bóc, thú tính trong nạn đói, 60 năm qua mẹ tôi không bao giờ muốn
nhắc lại. Chỉ có một lần bà kể cho tôi nghe một câu chuyện kinh hoàng:
khi bế con đi Hà Nội, qua sông Long Hầu bà thấy có hai bố con nhà nọ đói
lả, phù thũng, chắc là sắp đến lúc chết. Người con chừng 7-10 tuổi.
Không
hiểu lúc ấy họ kiếm được thứ gì, chắc là có thể ăn được nên hai người
tranh nhau rất dữ. Đứa con co cả người nắm chặt tay bố. Hồi lâu đẩy con
ra không được, người cha liền co chân đạp con xuống cầu. Đứa trẻ cố níu
lấy thành cầu, hai mắt không rời miếng ăn trên tay bố. Người cha lúc ấy
kiên quyết hơn và ông ta đã đạp được đứa con rơi xuống nước rồi ngấu
nghiến nhét thứ đó vào mồm...”.
Theo điều tra của
Viện Sử học tại xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa: ông Viên Đình Hữu
đói quá quẳng con trai 4 tuổi xuống sông Đơ. Ông Hoàng Bảo ở xóm Cháy
(Đông Hưng, Thái Bình) thấy bố của ông Bắc (cùng xóm) thổi nồi cơm. Ông
Bắc bóp cổ bố đến chết để ăn một mình...
Suốt
chặng đường khổ ải từ quê nhà lên Hà Nội, bà Chén còn gặp rất nhiều cảnh
mẹ bỏ rơi con, chồng chạy trốn vợ, rồi cướp bóc, giết chóc lẫn nhau vì
miếng ăn một cách đau thương và rùng rợn như vậy. Nhưng Hà Nội lúc này
cũng là địa ngục...
Hà Nội - điểm hẹn sinh tồn
Ông
Nguyễn Ngọc Liên, 82 tuổi, hiện trú tại phòng 105, nhà C6, khu tập thể
Kim Liên, Hà Nội kể: “Ngày đó nhà tôi ở 233 phố Huế. Bắt đầu từ mùa đông
năm 1944, tôi đã thấy những đoàn hình nhân vô cùng thảm hại ùn ùn dắt
nhau qua các phố.
Áo quần họ là miếng giẻ buộc túm
dính vào những bộ xương lắc lư. Những cái đầu trơ sọ, đính hai con mắt
vàng trũng thất thần. Ban đầu người hàng phố cho họ ăn những thứ có thể,
nhưng càng ngày họ đến càng đông, hết lớp này đến lớp khác. Họ nằm, bò,
lê và chết gục khắp đường, ngõ, vỉa hè...
Ai còn
sống thì cứ lang thang xin ăn, không ít trường hợp cướp giật, móc mồm
người khác giành ăn. Của bố thí không thể đủ cho đoàn người đói khát. Họ
chết ngày một nhiều. Một buổi sáng tôi vừa mở cửa thì hai xác chết lạnh
cứng đổ ập vào tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được cảm giác
hãi hùng và xót thương lúc đó”.
Ông Đặng Văn Cự -
87 tuổi, hiện ở phường Giáp Bát, Hai Bà Trưng (Hà Nội) - nói: “Ban đầu
cũng chia sẻ với bà con nhưng chúng tôi cũng đói, lương thực cạn kiệt và
trước cảnh tàn ác của Pháp - Nhật thì cũng không dám chắc mai này mình
có thoát cảnh ma đói hay không.
Trong thành phố,
nhiều thanh niên, nhà hảo tâm thành lập đoàn khất thực có trung tâm ở
phố Hàng Da, quyên góp cơm cháo chia cho bà con. Nhưng vì số lượng quá
lớn, tổ chức chỉ là tình cảm của một số người có điều kiện nên đoàn khất
thực tồn tại không được bao lâu.
Chúng tôi cũng
bị cướp giật bánh trái, ngô khoai, nhưng không ai nỡ đánh đập người đói
mà chỉ tránh né. Người làng tôi bán bánh thì làm bằng đất bày ở quầy,
mẹt, thúng. Ai mua thì mới đến chỗ khác lấy bánh thật ra. Ai cướp thì
chỉ cướp được bánh đất mà thôi”.
Cảnh người đói
sinh trộm cướp và bị giết chóc thì nhiều lắm. Ông Liên nhớ: một buổi
chiều trên đường Trần Quang Khải bây giờ. Một đoàn bốn chiếc xe bò chở
những bì lúa chất cao 3-4m. Mỗi xe có một người kéo và bốn người đẩy.
Phía trước và sau có 9-10 tên lính Nhật súng gươm tuốt trần áp tải.
Một
người trong đám phu xe, bí mật dùng một chiếc dùi thép chừng 20 phân
đâm một lỗ nhỏ vào bao lúa và gí một chiếc túi vải con vào hứng dòng lúa
chảy. Tên lính Nhật phát hiện. Không nói gì, hắn dùng mũi kiếm đâm
xuyên lưng người móc gạo. Nạn nhân rú lên một tiếng rồi đổ gục xuống
đường, lênh láng máu. Đoàn xe vẫn tiếp tục đi...
Những
dòng người khất thực đã kéo nhau đi trong đói lả vật vờ... Rồi họ cũng
tìm đến điểm cuối cùng của cuộc hành trình - nơi chấm dứt mọi nỗi dày vò
đau đớn của một kiếp người. Của triệu kiếp người...
QUANG THIỆN
Kỳ 4: Chặng cuối của cuộc đọa đày
Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện (Hà Nội) - Ảnh: Võ An Ninh |
Nơi đóng cửa trần gian
Dưới
chân cầu vượt là một ống cống lớn bắc qua sông Sét, chảy cắt ngang
đường. Sau ống cống đó là một ngã ba có con phố rẽ tay phải dẫn đến
những khu nhà đang hối hả xây dựng. Đó là những khu dân cư, các công ty
và kho hàng. Ít ai biết 60 năm trước đây là điểm tụ tập đông nhất những
sinh linh trước giờ chết đói: trại tế bần.
Ông Đặng
Văn Cự, người dân gốc ở làng Tám (Giáp Bát), nay 87 tuổi, kể lại: thời
đó làng Tám là ngoại ô, thuộc tổng Thịnh Liệt, Thanh Trì. Khu bến xe, ga
tàu, bệnh viện Bạch Mai bây giờ là cánh đồng mênh mông với con sông Sét
chảy vắt ngang. Từ Hà Nội đi qua cống Phố Hàn (nay là cống sông Sét nằm
trên đường Giải Phóng) khoảng 20m có khu gia binh rộng 25 mẫu.
Theo Báo Bình Minh
ra ngày 12-4-1945, những người VN hảo tâm khi thành lập đoàn khất thực
để cứu trợ đồng bào đã chọn khu gia binh làm trại tế bần. Bắt đầu từ
ngày 9-4, có 2.000 người ăn xin đã được đưa xuống đó, được phát cháo và
nghỉ ngơi. Sau đó, những người ốm đau, hấp hối cũng được đưa về trại
bằng xe bò.
Khi người đói chưa nhiều, trại còn có
ngày hai bữa phát chẩn. Nhưng chỉ sau vài tuần số người tự tìm đến đã
đông hàng vạn. Lương thực dù có nhiều đến mấy cũng không đủ cho mỗi
người một bát cháo/ngày.
Ông Nguyễn Văn Điền ở
Giáp Bát kể: mọi ngả đường chết đói của thành phố đều dồn về đây, từng
đoàn từng đoàn những hình nhân tưởng như bất tận. Họ ngồi chật kín trại,
kín cổng trại, kín cả đường vào trại và vật vờ, xiêu vẹo trên cống Phố
Hàn, gặp ai cũng chìa tay xin ăn. Từ đây trại Giáp Bát trở thành nơi
chứa người chết đói.
Báo Tin Mới số ra
ngày 29-4-1945 viết: “Tấm bảng treo trước cổng trại ghi: ngày 26-4: buổi
sáng số người còn lại 3.020 - số người chết 16. Buổi chiều, số người
mới vào 2.000, số người chết 18”. Ông Điền kể: đó là số người trong
trại, còn những người chờ chực bên ngoài thì nhiều vô kể và họ chết bất
cứ lúc nào. Ông nhớ mãi hình ảnh một cụ già tuy đã đói khổ nhiều ngày
nhưng nhìn rất quắc thước, đạo mạo.
Cụ ngồi trên
cống Phố Hàn giống mọi người. Nhưng điều rất đặc biệt là cụ không xin ai
một câu nào. Ai cho thì nhận. Ánh mắt cụ rất buồn, long lanh chứ không
vàng nhợt vô hồn. Cụ ngồi đó mấy ngày rồi không ai thấy nữa. Người
trong và ngoài trại chết ngày một nhiều. Khẩu phần lương thực phân phát
cho người đói thành muối bỏ biển và tạo nên những cuộc tranh giành thảm
khốc. Nhưng rồi hàng vạn sinh linh ấy cũng “gặp nhau” trong những cuộc
mai táng đau thương...
Những hố chôn tập thể
Suốt
60 năm sau, bà Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) vẫn sống trên mảnh
đất quê nhà Tây Lương. Bao dâu bể đổi dời, tâm khảm không ngừng muốn
xóa nhòa quá khứ đau thương, khiến nhiều câu chuyện, nhiều dấu tích của
nạn đói đã không còn lưu giữ trong bà. Nhưng bà vẫn biết rằng dưới ba
thước đất, trong lòng đất quê hương, những ánh mắt trẻ, những tiếng khóc
già cùng sự quằn quại của những linh hồn đói khát vẫn còn đó.
Còn
đó trong những nấm mồ chôn vùi hàng chục, hàng trăm sinh mạng không
hương khói, không mộ chí, không gỗ ván - ở quê hương bà đó là gò Ông
Cảm, gò Lâu nằm giữa cánh đồng thôn Hiên bát ngát cánh cò...
Bà
nhớ khi người chết đói quá nhiều, trai đinh, lính tuần khuân xác người
trong những manh chiếu, mảnh vó buộc túm hai đầu, quăng xuống những cái
hố to như cái ao rồi lấp. Hôm nay lấp hố này, mai lại lấp hố khác. Khi
không còn chiếu, còn vó, còn bao bố và không còn cả sức người thì họ lấy
dây thừng, dây thép buộc vào cổ, vào tay, chân những thây người khô
khẳng đó, cho trâu, bò kéo lê theo đường ruộng hoặc trên bùn ướt rồi
quăng xuống hố.
Trong tài liệu của Viện Sử học,
rất nhiều địa phương như Hải Phòng, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định... đã
đặt tên cho những hố chôn tập thể như thế thành cồn Ma, mả Quán, mả
Đói, gò Ma... Tuy nhiên nhắc đến hố chôn tập thể thì khủng khiếp nhất
vẫn là ở Hà Nội.
Ông Nguyễn Ngọc Liên (khu tập thể
Kim Liên) kể: ngày ngày sếp đội mặc quần soóc, chạy ra phố huýt một
tiếng, đám đông khất thực liền chạy ùa lại. Sếp chỉ tay vào chiếc xe kéo
thùng gỗ hai bánh, nói vài câu rồi chia hai người một xe kéo rong ruổi
suốt từ phố Hàm Long đến chợ Mơ, rồi dọc tuyến Hàng Đẫy, Tràng Tiền...
về gần cầu Giấy đi nhặt xác người.
Mới đầu người
ta còn bọc chiếu, sau thì chỉ túm đầu, túm chân quẳng lên thùng xe. Trẻ
con, người già, đàn bà, đàn ông, đầu, tay chân... lủng lẳng hoặc kéo lê
trên đất. Ngày nào cũng vài chục xe như vậy rong ruổi. Mấy người kéo xe
kể: nhiều hôm họ quăng xác chết lên xe, trong xe có tiếng thều thào… Có
anh xe dừng lại bới đống xác thì không thấy ai kêu nữa. Có anh xe thì
nói vọng vào: “Thôi đằng nào cũng ra nghĩa địa thì đi đi kẻo mai không
ai chôn”.
Mọi chuyến xe đều đổ về hai nghĩa trang
Hợp Thiện và Phúc Thiện nằm ở cánh đồng ngoại ô hai đầu nam - bắc thành
phố. Nay Hợp Thiện thuộc quận Hai Bà Trưng, bám bên sông Kim Ngưu. Phúc
Thiện nằm trong công viên Thủ Lệ. Tại nghĩa trang người ta đào những cái
hố sâu 3-4m, dài rộng hàng chục mét, quẳng xác chết xuống đó rồi rắc
vôi bột lên trên và lấp. Từ khi xuất hiện trại tế bần Giáp Bát với lượng
người chết 30-50 người mỗi ngày thì cánh đồng xung quanh cũng trở thành
những hố chôn người.
Ông Điền kể rằng sau nạn
đói, cánh đồng Giáp Bát lúa năm ấy không trồng nhưng từ những gốc rạ vẫn
trổ đòng xanh ngăn ngắt. Người ta tranh nhau đi gặt. Gặt xong cày bừa,
tung lên bao nhiêu đầu lâu, chân tay. Còn ở cánh đồng thôn Hiên, những
đêm đông rét buốt hoặc những buổi trăng rằm sương lạnh trước vụ mùa, bà
Chén vẫn như nghe thấy ngoài gò Ông Cảm xôn xao tiếng người như họp chợ.
Phiên chợ của những hồn ma đói khát...
Khi chúng ta no ấm
Bia tưởng niệm nạn nhân chết đói tại đường Kim Ngưu (Hà Nội) - Ảnh: Q.T. |
Cây
số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội nay là một cụm công nghiệp,
thương mại sầm uất của thành phố Thái Bình với những hàng quán ăn uống
đặc sản đủ món Tây, Tàu. Nếu không được nghe những câu chuyện của 60 năm
trước thì không ai nghĩ từng có hàng vạn con người đói rách quằn quại
tụ tập ở đây mà hy vọng một con đường sống.
Bảo
tàng tỉnh Thái Bình đang hoàn thành giai đoạn cuối những hạng mục xây
dựng tân thời. Thật khang trang, quy mô và cũng khá phong phú các hiện
vật trưng bày. Thế nhưng rất tiếc, về nạn đói đau thương nhất lịch sử
dân tộc và lịch sử Thái Bình thì nơi này chỉ trưng bày 5-6 tấm ảnh của
nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh.
Trở về Hà Nội, tìm đến
nơi từng là nghĩa trang Phúc Thiện, nấm mồ tập thể chôn vùi hàng vạn con
người không gỗ ván, không hương khói, mộ chí, tôi lạc vào công viên Thủ
Lệ, được nhìn thấy những con người đang hạnh phúc nô cười trong tiết
thanh xuân. Đi tìm nghĩa trang Hợp Thiện tôi phải mất mấy ngày dò hỏi
mới đoán được khu vực cần đến.
Đó là khu tập thể
Nhà máy dệt 8-3, quận Hai Bà Trưng. Nghĩa trang đã bị xóa dấu tích hoàn
toàn. Những căn nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người bán nước nói: thỉnh
thoảng người ta làm đường, xây nhà cũng gặp hàng núi đầu lâu, chân tay
người chất chồng trong lòng đất. Họ thắp nén hương rồi gạt xương ra và
tiếp tục đào...
Theo lời chỉ dẫn của những người
già, tôi tìm vào một hẻm nhỏ trên đường Kim Ngưu, rẽ vào ngách 559 với
những dãy nhà cao vút nhưng chỉ chừa đủ chỗ cho một chiếc xe luồn lách.
Bên phải cái ngách này là đường cụt. Nhìn thật kỹ mới thấy cổng vào rộng
chừng 1,5m của khu tưởng niệm những nạn nhân 1945. Khu tưởng niệm lọt
thỏm trong những bức tường nhà kiên cố.
Công trình
lớn nhất ở đây là tấm bia đá khắc bài tế của giáo sư Vũ Khiêu cho những
vong hồn xấu số. Kế bên là bức tường đắp dòng chữ “Nơi an giấc ngàn năm
của đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói 1944 - 1945” và vài bệ đặt bát
hương. Coi giữ nơi này là một người đàn bà luống tuổi, không ngớt mồm
quảng cáo về chuyện âm hồn, linh ứng để mời khách đặt lễ...
Có
lẽ công việc công phu nhất của người còn sống khi ghi lại dấu ấn này
chính là những tấm ảnh của nghệ sĩ Võ An Ninh và công trình khoa học đầy
đặn của giáo sư Văn Tạo và các cộng sự. Tuy vậy công trình nghiên cứu
trên mới chỉ in vài trăm cuốn một lần vào năm 1995.
Nước
ta nay đã là một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế
giới. Xóm Trại, xã Tây Lương - nơi đã chết gần hết số dân sở tại - nay
cũng đã là một làng quê giàu có, thanh bình. Bữa cơm của gia đình ông Tô
Nuôi hôm nay dù đã hết dư vị ngày tết nhưng vẫn thịnh soạn, thơm ngon.
Lịch sử dân tộc cũng như cuộc sống mỗi người đã sang trang mới tốt lành,
sáng đẹp. Nhưng như giáo sư Văn Tạo nói: chúng ta không được quyền quên
kỷ niệm đau thương và rùng rợn nhất đó của lịch sử!
Không
quên được, không cách gì tan biến được nỗi đau ấy trong ký ức của người
từng đói cơn đói Ất Dậu. GS Phong Lê - nguyên viện trưởng Viện Văn học,
năm ấy 7 tuổi, nhưng nỗi khổ nhục của cả làng xã đã mãi mãi khắc dấu
vào tâm trí ông. Ông gọi đó là “tri thức của tôi trong năm đói 1945” -
một “tri thức” đau đớn, chỉ dạy con người cái cách phải ăn những gì để
sống.
QUANG THIỆN
Kỳ 5: Sống qua cơn đói
Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung (1945) - Ảnh: Võ An Ninh |
Cái đói không của riêng ai
Tôi
là cháu trai nên được bà rất chiều, còn mẹ - khỏi phải nói. Chợ về bao
giờ cũng có quà. Quà phiên chợ đói mẹ đưa về cho chúng tôi lúc tấm mía
gầy, lúc mấy củ khoai lang còi cọc. Mấy đứa em xúm quanh nhìn tôi bóc
khoai, bóc cẩn thận cho thật hết vỏ.
Khoai được
chia cho hai em phần lớn, còn tôi phần nhỏ hơn bởi tôi còn được tất cả
phần vỏ còn lại, vun một nắm cho vào miệng nhai ngon lành. Vỏ khoai là
thứ xưa nay không ai ăn vì nào có tiêu được, ăn vào bụng rồi trả lại cho
đất mà thôi. Mấy anh em xúm quanh mấy củ khoai, trịnh trọng bóc và hăm
hở nhai cả vỏ - đó là kỷ niệm về đói tôi không bao giờ quên.
Cả
làng hiu hắt, vườn cổng đóng kín. Thế mà vẫn có người chui được vào nhà
vì không còn chó. Người không có cái ăn thì chó cũng chết hết để làm
cái ăn cho người. Người làm mướn cho ông bà tôi, một người đàn bà góa
rất nghèo, đến thăm ông bà, ngồi ở góc nhà, mắt nhìn khắp trần nhà, dưới
nhà. Không phải đến bây giờ mà ngay từ lúc ấy tôi đã thấy mắt của người
đói rất đặc biệt.
Quan sát bà làm mướn và quan sát
những người trong làng tha thẩn ngoài đường, ngoài ngõ tôi thấy họ thân
hình thì khô quắt, chỉ còn da bọc xương, đi đứng không vững, cử động
thì chậm chạp, nhưng mắt lại rất tinh. Cặp mắt săm soi nhìn khắp mặt đất
và đảo khắp chung quanh để tìm.
Tìm một mầm xanh
của cây lá để ngắt; tìm một cái gì còn động đậy để vồ lấy, bất kể đó là
con chuột, con nhái, con cào cào, thậm chí là con kiến, con gián. Tôi
nhớ lần ấy bà làm mướn có nói với mẹ tôi là gián ăn cũng được, và còn
ngon là đằng khác. Người đói ăn được cả gián, đó là tri thức của tôi
trong năm đói 1945.
Sau này xem phim Papillon - người tù khổ sai
khi thấy Papillon nằm bẹp trên nền đất, tay quờ quạng, ráo riết bắt cho
được một con gián dưới quầng sáng của ánh đèn phòng biệt giam, tôi lại
nhớ đến câu chuyện mẹ tôi được nghe từ một người đói ngày ấy.
Rồi
lại nhớ đến lần đón khách Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1972, ở khách sạn
Métropole, Hà Nội, khi thấy một con gián lấp ló ở góc phòng, ông bạn
giáo sư Hans Kortum bỗng kinh hãi và đòi đổi phòng ngay. Bởi, với ông,
gián là thứ insecte (côn trùng) kinh tởm nhất.
“Nghệ thuật làm no”
Đói quá phải ăn cả thịt chuột - Ảnh: Võ An Ninh |
Cái
năm Dậu ấy tôi được thấy, hoặc được nghe kể biết bao người trong làng
đã cố níu lấy sự sống bằng tất cả những gì có thể ăn được. Thân và gốc
cây chuối và cây đu đủ. Gốc củ ráy (ngứa vô cùng). Rau má và tất cả các
loại rau dại mọc ở rìa làng. Kể cả cây choóc - ngứa không kém củ ráy, ở
ngoài đồng. Tất cả bỗng dưng trơ trụi, rồi biến hết. Bởi rau cỏ là thứ
lành bụng.
Nhà tôi còn có cơm ngày hai bữa, mỗi
bữa một lon sữa bò hai lạng rưỡi gạo, cho trộn với một rổ rau má to, xóc
đều, rồi chia ra bốn cái bát lùm lùm, ai nấy lào xào ăn, chỉ một lúc
sau lại đói meo. Một loại thức ăn khác là cám và khô dầu. Cám là thứ cho
lợn, bây giờ làm thành bánh cho người. Cám được xem là bùi bùi, thơm
thơm và nhất là no lâu. Ăn một cái bánh cám, uống một bát nước thì cứ là
lưng lửng cả ngày.
Cũng như cám, khô dầu là bã
của các loại hạt béo như lạc, đỗ sau khi đã ép hết nước dầu. Khô dầu
đóng thành bánh bán ở chợ để chăn nuôi gia súc, bây giờ người tranh nhau
mua để thay cơm. Khô dầu ăn nhiều tức bụng, ăn ngày này qua ngày khác
có thể sưng bủng ra mà chết. Không phải chết đói mà là chết... no. Tôi
lại nhớ Một bữa no của Nam Cao.
Tôi đã thấy bao
người đói đi lại quanh quẩn, vùng này qua vùng khác để tìm cái ăn. Đồng
ruộng bạc phếch, không một màu xanh. Vườn tược hoang phế, không còn cây
cối. Làng mạc hết cả tiếng chó sủa, tiếng gà gáy. Những người chết thì
đã được bó vào chiếu đưa ra đồng. Cho đến lúc chiếu cũng không còn để mà
bó. Những người sống thì tha thẩn trong nhà ngoài ngõ, hoặc vất vưởng
trên đường, đi đứng liêu xiêu, dáng hình lểu đểu... mới thấy khủng khiếp
đến thế nào cái đói của cả làng, cả nước.
Bây giờ nghĩ lại chuyện đời thấy sao dân ta khổ quá. Đọc truyện Một làng chết của Thanh Tịnh (trong tập truyện Quê mẹ) và Quái dị
của Nam Cao ta hiểu cái chết do dịch tễ gây ra cho một làng. Dịch tễ
như đậu mùa, dịch hạch, dịch tả, kiết lỵ... khiến cả “một làng chết”, ít
còn ai sống sót, không còn người đi chôn.
Đọc Nghệ thuật làm no...
của Ngô Tất Tố ta biết người nông dân quê ông đã có cách ăn đất sét để
đánh lừa dạ dày khi cả một vùng đồng bãi phía bắc sông Hồng bị nhận chìm
trong lũ lụt - một thứ lũ lụt ngâm rất lâu khiến cây cỏ khó mà sống
sót...
Còn cái đói và chết năm Ất Dậu là đói và
chết trên cả một địa bàn rộng lớn gồm cả trung du và đồng bằng Bắc bộ,
lan vào cả một nửa miền Trung, trong đó có quê tôi. Cái chết của 2 triệu
người do hậu quả của biết bao chính sách thâm hiểm và tội ác của Nhật -
Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng.
Hai
triệu người, tức là ngót 1/10 dân số VN lúc ấy; và có thể còn chết thêm
nữa nếu không có khẩu hiệu phá kho thóc do Việt Minh đưa ra - vậy là
thóc vẫn còn ở các kho; rồi tổng khởi nghĩa tháng tám, cả dân tộc từ Bắc
đến Nam rùng rùng chuyển động trong cả một rừng cờ đỏ sao vàng. Một nạn
đói khủng khiếp, và tiếp đó, một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc - đó
là ấn tượng và ký ức Ất Dậu 1945 mà một đứa trẻ lên bảy như tôi đã được
chứng kiến và trải nghiệm để in sâu vào bộ nhớ cho đến suốt đời.
Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh giữa những ngày tháng thương
tâm ấy của năm Ất Dậu. Chỉ một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân,
ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, vấn đề
cứu đói đã được đưa ra: “Nhân dân ta đang đói... Những người thoát chết
đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”.
Và nhà nước non trẻ đã tìm ra giải pháp...
GS PHONG LÊ
Kỳ cuối: Chống giặc đói
Lễ phát động Ngày cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội |
TT
- Một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân tại quảng trường Ba Đình,
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải
quyết ngay.
Trong sáu vấn đề đó, vấn đề số 1 là cứu
đói: “Nhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị
đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống” (Hồ Chí Minh toàn tập).
Có hai giải pháp chống giặc đói.
Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc
ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm
mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin
đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày
nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để
cứu dân nghèo”.
Ngay từ giữa tháng chín, Chính phủ
đã tổ chức một lễ phát động phong trào cứu đói. Buổi lễ này được tổ chức
long trọng tại Nhà hát lớn. Cụ Ngô Tử Hạ, người cao tuổi nhất trong
Quốc hội, là chủ tịch buổi lễ, đã long trọng đọc lời kêu gọi toàn dân
hãy nhường cơm sẻ áo, mỗi nhà bớt một chút gạo để cứu giúp những người
đang đói. Chính cụ cầm càng một chiếc xe bò tượng trưng để đi các phố
phường, nhân dân ai có chút gạo chút ngô đều mang ra đóng góp vào phong
trào cứu đói.
Chính phủ còn phái một ủy ban vào
Nam bộ điều tra và cấp tốc tổ chức việc vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ
cũng hô hào các hội buôn và tư nhân tham gia công việc vận chuyển này.
Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9-1945,
với tổng số không quá 30.000 tấn. Từ sau khi Pháp gây chiến ở Nam bộ,
con đường vận chuyển bằng đường sắt bị khó khăn và không bao lâu sau thì
tắc nghẽn.
Giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất
Tăng
gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn
là cơ sở cho toàn bộ chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN.
“Thực túc thì binh cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc
đất tấc vàng thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia
sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu
của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền
tự do độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập).
Để
phục vụ tăng gia sản xuất, điều cấp bách trước mắt là phải hàn khẩu xong
các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới.
Việc này không thể chỉ dùng nhân lực mà còn cần có những chuyên gia. Nhà
nước quyết định cho đấu thầu việc đắp đê. Chủ thầu phải là những chuyên
gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Cụ Nguyễn
Xiển, lúc đó là chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ, là người trực tiếp
điều hành việc đắp đê, kể lại trong bài hồi ký về sự nghiệp đắp đê sau
cách mạng: “Cách làm đó lại gặp những mắc mớ về quan điểm. Có người nói:
“Làm cách mạng mà còn dùng thầu khoán? Thầu khoán là bóc lột nhân
công”. Chính Bác Hồ, trong một chuyến đi thị sát đắp đê, đã giải đáp vấn
đề này: “Thầu khoán đắp đê lúc này là yêu nước”. Câu trả lời trên đã
giải tỏa được những vướng mắc”.
Cho đến đầu năm
1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn
thành. Đó là một bằng chứng về trách nhiệm, năng lực và sức sống của
chính quyền mới.
Bà
Ngô Thị Hoàn, nguyên trưởng phòng tổ chức Viện Kinh tế học, kể lại :
“Lúc đó tôi mới 10 tuổi, trong đội nhi đồng, được đi theo chiếc xe của
cụ Ngô Tử Hạ, đánh trống, phất cờ, hô khẩu hiệu để vận động đồng bào cứu
đói.
Cụ Ngô Tử Hạ kéo chiếc xe qua phố Tràng
Tiền. Nhà nào cũng có người chờ sẵn bên hè phố, người thì bơ gạo, người
thì đấu ngô, người thì góp tiền.
Đi chưa hết một vòng bờ hồ thì xe gạo đã đầy.
Về
đến Nhà hát lớn gặp Bác Hồ, cụ Ngô Tử Hạ chỉ cho Bác Hồ xem chiếc xe
chở gạo lẫn lộn đủ các thứ: gạo đỏ, gạo trắng, gạo nếp, ngô, lại có nhà
thêm mấy ống đỗ.
Bác Hồ nói: “Đấy mới là gạo đại đoàn kết. Nước ta có nhiều thứ gạo ngon, nhưng bây giờ thì đây là thứ gạo ngon nhất...”.
|
Đồng
thời với việc đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu
hiệu “tấc đất tấc vàng”. Chính quyền tất cả các địa phương quyết định
cho phép sử dụng những đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ
đê để trồng trọt.
Chính quyền còn vận động cả tư
nhân cho sử dụng tạm các vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Mỗi
địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất.
Lương thực làm ra được dùng để cứu tế...
Ở Hà
Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè, bất cứ nơi nào đất
trống. Viên chức cuốc vườn trong công sở để trồng ngô, khoai... Thanh
niên thủ đô chia thành những đội tăng gia đi trồng sắn ở bờ đê, bãi
sông, lề đường.
Bộ trưởng Bộ Lao động lúc đó là Lê
Văn Hiến kể lại: “Vào khoảng tháng 11-1945, tôi được Bác gọi sang giao
nhiệm vụ mới là thay mặt Bác đi kinh lý các tỉnh phía Nam. Tôi đã báo
cáo với Bác tình hình bộ trước khi đi. Bác nghe xong hỏi luôn: “Chú còn
quên không báo cáo một chuyện nữa”.
Tôi ngớ người,
vì trước khi gặp Bác tôi đã chuẩn bị rất đầy đủ những tài liệu về công
việc của Bộ Lao động trong hai tháng qua. Chẳng lẽ mình còn thiếu sót
gì?
Tôi nói: “Thưa Chủ tịch, còn chuyện gì nữa?”.
Bác bảo: “Chú quên không nói về tình hình tăng gia sản xuất. Ở trước cửa
bộ chú có một vườn rất rộng để không, dân thì đói, tại sao không cuốc
lên trồng khoai trồng sắn để cứu đói. Trước khi đi công tác chú phải
nhắc nhân viên làm việc đó”.
Trên đường trở về bộ,
tôi thầm nghĩ: Bác quả là người thấu đáo, không quên một việc gì. Một
việc nhỏ như thế, mình là bộ trưởng cũng không để ý tới, Bác ở tận xa mà
Bác còn biết. Tôi liền triệu tập anh em trong bộ, nói ý kiến của Bác.
Hôm sau mọi người đến sớm, người thì dao, người thì cuốc, thuổng, ào ào
xới đất lên để trồng khoai...”.
Mặt trận quyết
định nhất của tăng gia sản xuất cuối năm 1945 đầu 1946 là trồng màu. Lúa
không còn kịp thời vụ nữa, phải dành phần lớn đất đai để tranh thủ
trồng liên tiếp hai vụ màu bù cho phần thiếu hụt về lúa. Đây là giải
pháp sáng suốt. Phải trồng màu ngay từ tháng 11-1945 để tháng giêng đã
có thu hoạch khoai lang. Tháng hai đã có thu hoạch ngô, đậu.
Ngay
sau đó, trồng tiếp một vụ nữa có thể cho thu hoạch bổ sung vào tháng ba
và tháng tư để chịu đựng được suốt thời kỳ giáp hạt cho đến vụ thu
hoạch lúa chiêm vào tháng năm.
Kết quả sản lượng
màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng
từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là
506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm
1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà
lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.
* * *
Trong
lễ kỷ niệm một năm độc lập, Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
Nguyên Giáp tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật
là một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Trong hoàn
cảnh nghiệt ngã lúc đó, lụt và hạn hoành hành, giặc ngoại xâm hoành
hành, tiền và phương tiện gần như không có gì, giống má cạn kiệt, trâu
bò chết gần hết…, mà đánh thắng được giặc đói, thắng một cách oanh liệt
thì quả là một kỳ công. Kỳ công đó không thuộc riêng ai. Đó là sự nỗ lực
của toàn dân. Nhưng không chỉ đơn giản là như vậy.
Cũng
là toàn dân Việt Nam đấy mà năm trước đó thôi tại sao hàng triệu người
vẫn chết đói? Còn phải kể đến một nhân tố vô cùng quan trọng nữa: nhờ có
chính quyền cách mạng, nhờ tài tổ chức của chính quyền đó.
Đó là sự thật. Đó cũng là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đã theo Việt Minh.