Hoàng đế nhà Tây Sơn
HỊCH TRUYỀN QUAN LẠI, QUÂN DÂN CÁC PHỦ QUẢNG NGÃI, QUY NHƠN [1] (1792)
Tất cả các người, lớn nhỏ, từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta.
Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ [2]. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dũng, hiền tài để giúp rập triều đình. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất bại hoặc tan rã. Trẫm mở rộng chiến trận tới đâu, quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải khuất phục. Còn bọn dư đảng bỉ ổi của cựu triều [3], thì từ hơn ba chục năm nay trẫm chưa từng thấy chúng làm nổi trò trống gì. Trẫm đã đánh chúng hàng trăm trận, sĩ tốt của chúng phải tan tác, tướng lĩnh của chúng phải bỏ mạng, xương tàn của chúng tràn đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói đây, các người đều biết rõ, nếu mắt các người chưa được trông thì tai các người cũng đã từng nghe thấy.
Như tên Chủng [4] đê hèn kia, đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường ở phương Tây [5], thì có gì là đáng kể.
Còn như đám dân ươn hèn Gia Định [6], nay dám ngóc đầu dậy, mộ binh, tại sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế? Quân thủy
bộ của chúng tới đánh chiếm các hải cảng của các người như thế nào, các người không cảnh giác như thế nào, Hoàng đại huynh [7] đã có thư cho trẫm rõ cả rồi. Trẫm thấy sở dĩ chúng đánh chiếm được đất và giữ được đất của các người cho tới ngày nay, không phải vì chúng tài giỏi gì, mà chính là vì quan quân và dân chúng hai phủ đã không giám đánh nhau với chúng. Bộ binh của các người đã hèn nhát bỏ trốn [8].
Bây giờ, theo lệnh Hoàng đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai đường thủy bộ vào dẹp giặc. Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như đập tan một cành củi khô, một thanh gỗ mục. Còn nhân dân hai phủ, các người đừng lo âu, đừng sợ giặc. Các người hãy để mắt nhìn, để tai nghe, xem trẫm sẽ làm gì. Các người sẽ thấy rằng trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang, những mảnh xương tàn của cái thây ma Gia Định, cũng như Phú Yên đã từng là trung tâm chiến trường và suốt một dải từ Bình Thuận vào tới Chân Lạp, sẽ tức khắc được thu phục. Như thế để ai nấy hiểu rõ rằng trẫm và Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó.
Trẫm kêu gọi nhân dân, lớn nhỏ, hai phủ, hãy ủng hộ hoàng gia, trung thành với Hoàng đại huynh, chờ đợi quân ta vào quét sạch miền Gia Định, lấy lại đất về ta. Tiếng thơm hai phủ các người sẽ mãi mãi lưu truyền sử sách.
Các người chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mà chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết trôi từ biền Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu [9] của chúng thì có gì là kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết.
Để cho đại quân của ta tiến vào được dễ dàng, các xã dân hai phủ ở dọc bên đường hành quân hãy kíp sửa sang cầu cống.
Lệnh này truyền tới, nhân dân hãy vâng theo ý trẫm.
Khâm thử
Quang Trung năm thứ năm, ngày mồng l0 tháng Bảy [10]
(ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức 20 ngày trước khi Nguyễn Huệ mất - tác giả chú)
==============================
1. Bài hịch này, hiện nay, chưa tìm thấy nguyên văn, không rõ viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. ở đây, chúng tôi dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp của giáo sĩ De la Bissachère trong sách Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumesde Cambodge, Laos et Lac-tho xuất bản năm 1812. Bản dịch tiếng Pháp này còn trích in trong hai sách khác: 1. trong sách của Al. Faure: Les Francais en Cochinchine au XVIIIe siècle.Mgr Pigneau de Béhaine, évêque d' Adran, xuất bản năm 1891, ở đây chỉ trích dẫn một số đoạn, không in toàn văn - 2. trong sách của C.B. Maybon: La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, xuất bản năm 1920. Trong sách này trích in toàn văn bản dịch tiếng Pháp, nhưng ở đôi chỗ: lời, ý và cách viết chữ có khác với bản in trong tập sách xuất bản năm 1812 của De la Bissachère.
2. Bản dịch tiếng Pháp viết là tỉnh, nhưng thời bấy giờ Quảng Ngãi và Quy Nhơn chỉ là hai phủ của dinh Quảng Nam.
3. Cựu triều: chỉ tập đoàn chúa Nguyễn ở Đàng trong.
4. Chủng là tên tục tức tên thường gọi của Nguyễn Ánh.
5. Không rõ nguyên văn là gì mà bản dịch tiếng Pháp viết là Europe (châu âu). Có thể là bản tiếng Pháp dịch sai. Nguyễn Ánh không trốn sang châu âu mà chỉ trốn sang Xiêm và các đảo ở phía vịnh Xiêm La, chắc chắn Nguyễn Huệ biết rõ điều đó. Xiêm và các đảo thuộc vịnh Xiêm La cũng là ở phía tây Gia Định.
6. Chỉ bọn phản động tay sai của Nguyễn Ánh ở Gia Định.
7. Hoàng đại huynh (notre frère l'Empereur) tức vua anh, chỉ Nguyễn Nhạc.
8. Theo bản dịch trong sách của Maybon thì câu này viết khác, đại ý là: "Quân của các người đã hèn nhát bỏ trốn, bộ binh trốn một nơi, thủy binh chạy một nẻo". Chưa rõ ý trong bản nào đúng với nguyên văn.
9. Khinh khí cầu là một thứ quả bóng tròn, lớn, làm bằng vải, cho hơi đốt hoặc khinh khí vào trong, có thể đưa bóng lên cao trên không được. Hai anh em Mông-gôn-phi-ê (Montgolfier), người Pháp đã sáng chế ra khinh khí cầu và đưa ra thí nghiệm lần đầu tiên ngày 5 tháng 6 năm 1783. Cách mấy năm sau, khoảng 1790 Boa-xơ-răng, một giáo sĩ Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh, đã làm thí nghiệm thả những khinh khí cầu lên trời để lòe bịp nhân dân Gia Định, Quy Nhơn về phép lạ của người Pháp. Nhưng sự lòe bịp ấy không có hiệu quả. Năm 1797, tên Boa-xơ-răng đã bỏ mạng ở Nha Trang, sau trận đi đánh Đà Nẵng trở về.
10. Bản trích dẫn trong sách của Al. Faure viết sai là ngày 10 tháng Năm âm lịch.
Tất cả các người, lớn nhỏ, từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta.
Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ [2]. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dũng, hiền tài để giúp rập triều đình. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất bại hoặc tan rã. Trẫm mở rộng chiến trận tới đâu, quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải khuất phục. Còn bọn dư đảng bỉ ổi của cựu triều [3], thì từ hơn ba chục năm nay trẫm chưa từng thấy chúng làm nổi trò trống gì. Trẫm đã đánh chúng hàng trăm trận, sĩ tốt của chúng phải tan tác, tướng lĩnh của chúng phải bỏ mạng, xương tàn của chúng tràn đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói đây, các người đều biết rõ, nếu mắt các người chưa được trông thì tai các người cũng đã từng nghe thấy.
Như tên Chủng [4] đê hèn kia, đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường ở phương Tây [5], thì có gì là đáng kể.
Còn như đám dân ươn hèn Gia Định [6], nay dám ngóc đầu dậy, mộ binh, tại sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế? Quân thủy
bộ của chúng tới đánh chiếm các hải cảng của các người như thế nào, các người không cảnh giác như thế nào, Hoàng đại huynh [7] đã có thư cho trẫm rõ cả rồi. Trẫm thấy sở dĩ chúng đánh chiếm được đất và giữ được đất của các người cho tới ngày nay, không phải vì chúng tài giỏi gì, mà chính là vì quan quân và dân chúng hai phủ đã không giám đánh nhau với chúng. Bộ binh của các người đã hèn nhát bỏ trốn [8].
Bây giờ, theo lệnh Hoàng đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai đường thủy bộ vào dẹp giặc. Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như đập tan một cành củi khô, một thanh gỗ mục. Còn nhân dân hai phủ, các người đừng lo âu, đừng sợ giặc. Các người hãy để mắt nhìn, để tai nghe, xem trẫm sẽ làm gì. Các người sẽ thấy rằng trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang, những mảnh xương tàn của cái thây ma Gia Định, cũng như Phú Yên đã từng là trung tâm chiến trường và suốt một dải từ Bình Thuận vào tới Chân Lạp, sẽ tức khắc được thu phục. Như thế để ai nấy hiểu rõ rằng trẫm và Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó.
Trẫm kêu gọi nhân dân, lớn nhỏ, hai phủ, hãy ủng hộ hoàng gia, trung thành với Hoàng đại huynh, chờ đợi quân ta vào quét sạch miền Gia Định, lấy lại đất về ta. Tiếng thơm hai phủ các người sẽ mãi mãi lưu truyền sử sách.
Các người chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mà chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết trôi từ biền Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu [9] của chúng thì có gì là kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết.
Để cho đại quân của ta tiến vào được dễ dàng, các xã dân hai phủ ở dọc bên đường hành quân hãy kíp sửa sang cầu cống.
Lệnh này truyền tới, nhân dân hãy vâng theo ý trẫm.
Khâm thử
Quang Trung năm thứ năm, ngày mồng l0 tháng Bảy [10]
(ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức 20 ngày trước khi Nguyễn Huệ mất - tác giả chú)
==============================
1. Bài hịch này, hiện nay, chưa tìm thấy nguyên văn, không rõ viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. ở đây, chúng tôi dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp của giáo sĩ De la Bissachère trong sách Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumesde Cambodge, Laos et Lac-tho xuất bản năm 1812. Bản dịch tiếng Pháp này còn trích in trong hai sách khác: 1. trong sách của Al. Faure: Les Francais en Cochinchine au XVIIIe siècle.Mgr Pigneau de Béhaine, évêque d' Adran, xuất bản năm 1891, ở đây chỉ trích dẫn một số đoạn, không in toàn văn - 2. trong sách của C.B. Maybon: La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, xuất bản năm 1920. Trong sách này trích in toàn văn bản dịch tiếng Pháp, nhưng ở đôi chỗ: lời, ý và cách viết chữ có khác với bản in trong tập sách xuất bản năm 1812 của De la Bissachère.
2. Bản dịch tiếng Pháp viết là tỉnh, nhưng thời bấy giờ Quảng Ngãi và Quy Nhơn chỉ là hai phủ của dinh Quảng Nam.
3. Cựu triều: chỉ tập đoàn chúa Nguyễn ở Đàng trong.
4. Chủng là tên tục tức tên thường gọi của Nguyễn Ánh.
5. Không rõ nguyên văn là gì mà bản dịch tiếng Pháp viết là Europe (châu âu). Có thể là bản tiếng Pháp dịch sai. Nguyễn Ánh không trốn sang châu âu mà chỉ trốn sang Xiêm và các đảo ở phía vịnh Xiêm La, chắc chắn Nguyễn Huệ biết rõ điều đó. Xiêm và các đảo thuộc vịnh Xiêm La cũng là ở phía tây Gia Định.
6. Chỉ bọn phản động tay sai của Nguyễn Ánh ở Gia Định.
7. Hoàng đại huynh (notre frère l'Empereur) tức vua anh, chỉ Nguyễn Nhạc.
8. Theo bản dịch trong sách của Maybon thì câu này viết khác, đại ý là: "Quân của các người đã hèn nhát bỏ trốn, bộ binh trốn một nơi, thủy binh chạy một nẻo". Chưa rõ ý trong bản nào đúng với nguyên văn.
9. Khinh khí cầu là một thứ quả bóng tròn, lớn, làm bằng vải, cho hơi đốt hoặc khinh khí vào trong, có thể đưa bóng lên cao trên không được. Hai anh em Mông-gôn-phi-ê (Montgolfier), người Pháp đã sáng chế ra khinh khí cầu và đưa ra thí nghiệm lần đầu tiên ngày 5 tháng 6 năm 1783. Cách mấy năm sau, khoảng 1790 Boa-xơ-răng, một giáo sĩ Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh, đã làm thí nghiệm thả những khinh khí cầu lên trời để lòe bịp nhân dân Gia Định, Quy Nhơn về phép lạ của người Pháp. Nhưng sự lòe bịp ấy không có hiệu quả. Năm 1797, tên Boa-xơ-răng đã bỏ mạng ở Nha Trang, sau trận đi đánh Đà Nẵng trở về.
10. Bản trích dẫn trong sách của Al. Faure viết sai là ngày 10 tháng Năm âm lịch.
HỊCH XUẤT QUÂN ĐÁNH NHÀ TRỊNH (1786)
Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư;
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách.
Hội thuận ứng thế đừng được chửa?
Việc chinh tru lòng há muốn ru!
Đây:
Bẩm khí trời Nam, Vốn dòng họ Nguyễn,
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn;
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào Man dòm vạc Hán.
Giận quốc phó ra lòng bội thượng, nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé;
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than.
Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân, ắt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ,
Nào biết ngôi đời có bảy, giặc họ Trương toan phiến biến muời tuần;
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước.
Thế bạng duật đương còn đối mặt; thói đường lang sao khéo lắng tai!
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngữ binh điếu phạt,
Trong sáu chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly.
Cung đài thành quách phá lâng lâng, súng ống thuyền bè thu thảy thảy!
Cơn gấp khúc chằng thương lòng ngoại tộc, đã cùng rừng đuổi thú thời thôi;
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?
So chữ bạo, lửa nồng quá Hạng, dò lòng người, nước chảy về Lưu.
Chúng điêu tàn mang cờ nghĩa về đầu, khiến quân số một ngày một thịnh,
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, nên binh uy càng thấm càng thêm.
Quảng Nam đà quét sạch bụi trần, Thuận Hóa lại đem về bờ cõi.
Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện?
Cảm công đức vua Lê dám phụ, lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng;
Tội hoàng sừ chẳng có, ... lòng trinh thêu dệt vào bình.
Hiệu Đoan Vương [1] càng tỏ dạ vô quân,
Mưu thoán đoạt lại gây lòng bội phụ.
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành?
Điện Đô [2] tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải?
Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh, mặt nào trông vào chốn tử cung?
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất,
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời!
Ví tôn phù ủng bức chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó?
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
Vì phế lập muốn mình cho ích, để khuynh nguy làm nước phải lo.
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn;
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra.
Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn,
Binh tức khắc lại dương buồn Bắc Hải;
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sử chính dẹp tà,
Vào đất Quan hét ngựa Hán hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo.
Sắp sửa vốn nguyên lòng thật, vỗ về phải ngỏ lời ngay.
Chữ "hướng minh" phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế,
Máy "trợ thuận" hẳn nhiều kẻ biết.
Tần lại dân ngưu tửu nữa ta.
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng Hạ chúng hề tô;
Ta chả phụ dân lành, ắt bốn chữ thu hào vô phạm.
Thói bội phản chớ quen như trước, phút thái bình đều hiểu về sau.
Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn;
Lửa cháy đá nở hòa lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.
Ân với uy ngỏ cáo lời hằng, thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.
==============================
1. Đoan vương: Đoan nam vương, tước hiệu của Trịnh Khải.
2. Điện đô: Điện đô vương, tước hiệu của Trịnh Cán.
Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư;
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách.
Hội thuận ứng thế đừng được chửa?
Việc chinh tru lòng há muốn ru!
Đây:
Bẩm khí trời Nam, Vốn dòng họ Nguyễn,
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn;
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào Man dòm vạc Hán.
Giận quốc phó ra lòng bội thượng, nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé;
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than.
Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân, ắt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ,
Nào biết ngôi đời có bảy, giặc họ Trương toan phiến biến muời tuần;
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước.
Thế bạng duật đương còn đối mặt; thói đường lang sao khéo lắng tai!
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngữ binh điếu phạt,
Trong sáu chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly.
Cung đài thành quách phá lâng lâng, súng ống thuyền bè thu thảy thảy!
Cơn gấp khúc chằng thương lòng ngoại tộc, đã cùng rừng đuổi thú thời thôi;
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?
So chữ bạo, lửa nồng quá Hạng, dò lòng người, nước chảy về Lưu.
Chúng điêu tàn mang cờ nghĩa về đầu, khiến quân số một ngày một thịnh,
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, nên binh uy càng thấm càng thêm.
Quảng Nam đà quét sạch bụi trần, Thuận Hóa lại đem về bờ cõi.
Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện?
Cảm công đức vua Lê dám phụ, lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng;
Tội hoàng sừ chẳng có, ... lòng trinh thêu dệt vào bình.
Hiệu Đoan Vương [1] càng tỏ dạ vô quân,
Mưu thoán đoạt lại gây lòng bội phụ.
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành?
Điện Đô [2] tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải?
Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh, mặt nào trông vào chốn tử cung?
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất,
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời!
Ví tôn phù ủng bức chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó?
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
Vì phế lập muốn mình cho ích, để khuynh nguy làm nước phải lo.
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn;
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra.
Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn,
Binh tức khắc lại dương buồn Bắc Hải;
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sử chính dẹp tà,
Vào đất Quan hét ngựa Hán hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo.
Sắp sửa vốn nguyên lòng thật, vỗ về phải ngỏ lời ngay.
Chữ "hướng minh" phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế,
Máy "trợ thuận" hẳn nhiều kẻ biết.
Tần lại dân ngưu tửu nữa ta.
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng Hạ chúng hề tô;
Ta chả phụ dân lành, ắt bốn chữ thu hào vô phạm.
Thói bội phản chớ quen như trước, phút thái bình đều hiểu về sau.
Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn;
Lửa cháy đá nở hòa lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.
Ân với uy ngỏ cáo lời hằng, thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.
==============================
1. Đoan vương: Đoan nam vương, tước hiệu của Trịnh Khải.
2. Điện đô: Điện đô vương, tước hiệu của Trịnh Cán.
CHIẾU LÊN NGÔI VUA CỦA NGUYỄN HUỆ (1788)
Trộm nghĩ: năm đời đế đổi họ mà chịu mệnh, ba đời vương gặp thời mà mở vận, đạo có thay đổi, thời cũng biến thông, đấng thánh nhân vâng theo đạo trời để làm chủ tể trong nước, làm cha mẹ dân, chỉ có một nghĩa mà thôi.
Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay, thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất chính quyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm nay, kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm gần dây, nam bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than. Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh [1] rong ruổi việc nhung mã, gây dựng nước ở Tây Thổ, vỗ yên các nước Xiêm La, Cao Miên, đánh lấy Phú Xuân, tiến ra Thăng Long, cố ý quét
sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa, rồi sau trả lại nước cho họ Lê, trả đất về đại huynh, trẫm sẽ dung xiêm thêu hia đỏ ngao du hai nơi làm vui mà thôi. Nhưng việc đời dun dủi, trẫm không theo được cái chí xưa đã định.
Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, chỉ trông mong vào trẫm, về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Qui Nhơn, tự nhún xưng là Tây vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm. Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì rộng, nhân dân thì nhiều, ngẫm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như dây cương mục chỉ huy sáu ngựa.
Vừa rồi đây, văn võ tướng sĩ, trong ngoài thần liêu, đều muốn trẫm sớm lên ngôi báu để giữ chặt lòng người, đã hai ba lần dâng thư khuyên trẫm lên ngôi, tờ biểu suy tôn, không ai bàn tính với ai mà đều cùng một lời tán thành.
Nay xem khí thần rất hệ trọng, ngôi trời thật khó khăn, trẫm chỉ lo không kham nổi, nhưng ức triệu người trong bốn bể đều xúm quanh cả vào thân trẫm, đó là ý trời đã định, không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường.
Trẫm chọn ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung năm đầu, truyền bảo cho trăm họ muôn dân phải tuân theo giáo lệnh của nhà vua. Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người, trẫm nay cùng dân đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước, lấy giáo hóa trị thiên hạ.
Một là: mười ba đạo các xứ địa phương, vụ đông năm nay, các khoản "tô, dung, điệu" chỉ thu năm phần mười, nơi nào bị nạn binh hỏa, cho phép các quan chức đến nơi xét thực, tha miễn tất cả.
Hai là: bầy tôi và nhân dân cựu triều hoặc bị vạ lây đã phải kết tội nặng, trừ tội đại nghịch bất đạo, còn thì đều cho đại xá.
Ba là: các đền thờ dâm thần đều bãi bỏ đi không được liệt vào tự điển, còn các đền thiên thần và trung thần, hiếu
tử, nghĩa phụ, trước đã được các đời bao phong thì nay đều cho thăng trật.
Bốn là: quan viên văn võ cựu triều, hoặc vì tòng vong trốn tránh, cho phép được về nguyên quán, người nào không muốn ra làm quan cũng cho tùy tiện.
Năm là: nhân dân Nam Hà, Bắc Hà, cách ăn mặc cho được theo tục cũ, dùng áo mũ triều nghi thì nhất luật phải theo qui chế mới.
Than ôi! Trời vì hạ dân đặt ra vua, đặt ra thầy, cốt là để giúp thần thượng đế, yên vỗ bốn phương. Trẫm nay có thiên hạ sẽ dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi dài xuân. Vậy tất cả mọi người thần dân đều yên chức nghiệp, chớ có theo đòi những việc sai trái; người làm quan giữ đạo công liêm, người làm dân vui theo lệ tục, giáo hóa thấm nhuần, đi đến con đường chí thận, để vãn hồi lại thịnh trị của năm đời đế ba đời vương, để kéo dài phúc lành của tôn miếu, xã tắc không có bờ bến, chả là tốt dẹp lắm ru!
(Nguyên văn chữ Hán trong Hàn các anh hoa Theo bản dịch tiếng Việt của Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, quyển III (Hà Nội 1963)
============================
1. Hoàng đại huynh: chỉ Nguyễn Nhạc.
Nguồn: Ketnoivip
*****