Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Chuyện ly kỳ về anh bộ đội VN lưu lạc 28 năm ở CPC, khi “liệt sĩ trở về” muốn tự tử!

“Người rừng” trở về sau 28 năm là liệt sỹ 

(Dân trí) - Người liệt sỹ ấy những tưởng đã xa rời quê hương mãi mãi, cứ ngỡ phần xương cốt kia còn đang nằm đâu đó nơi rừng hoang núi thẳm, thì nay bất ngờ trở về sau 28 năm lưu lạc nơi đất khách quê người...
Chiến tranh tàn khốc đã biến một người lính khỏe mạnh, vạm vỡ thành một người sức cùng lực kiệt, với hàng chục vết thương trên cơ thể. 28 năm sau chiến tranh, ông Lê Xuân Hào (xã Trầm Lộng - Ứng Hòa – Hà Nội) mới xiêu vẹo tìm được đường về quê hương trong bộ dạng “thân tàn ma dại”. Hy sinh, cống hiến cho đất nước, nhưng nỗi trớ trêu kiệt cùng của số phận đã biến ông Hào thành người vô gia cư, đầy bệnh tật, quên quên nhớ nhớ và đằng đẵng những ký ức tang thương về đạn bom, chết chóc.  
Lưu lạc trong rừng sâu...
Câu chuyện hi hữu về người liệt sỹ được khắc tên trên bảng Tổ Quốc ghi công, được đơn vị gửi giấy báo tử về quê nhà, bất ngờ trở về khi chỉ còn ít ngày nữa là đến ngày giỗ thứ 29 của ông, đến bây giờ tuy đã gần 2 năm trôi qua, vẫn khiến người dân xã Trầm Lộng – huyện Ứng Hòa không khỏi xôn xao. Sự gặp gỡ, trùng phùng của những người tưởng ở hai bên kia đầu thế giới vỡ òa trong nước mắt, nhiều người chứng kiến đã phải thốt lên: “Đúng là chuyện cổ tích giữa đời thường...”.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà “vá chằng, vá đụp”, những miếng vữa xi măng cứ nối nhau rơi lả tả, để lộ rõ những hàng gạch ố màu rêu phong, ông Lê Xuân Hào – người “liệt sỹ” năm xưa không giấu được những giọt nước mắt. Nhắc lại năm tháng chiến tranh, gương mặt khắc khổ của ông đột nhiên co rúm lại, ông khóc nấc lên như một đứa trẻ. Ông tập tễnh bước đi, dò dẫm cho chúng tôi xem tập tài liệu ghi lại thời chiến binh của ông. Giấy “chứng tử” của đơn vị ghi tên ông được để lên trên cùng của tập tài liệu.  
Liệt sỹ trở về Lê Xuân Hào
"Liệt sỹ trở về" Lê Xuân Hào
Nhập ngũ tháng 3/1983 khi 21 tuổi, ông Hào được biên chế vào Đoàn 7704 và tham gia quân tình nguyện sang giúp nước bạn Campuchia. Năm 1984, trong một lần đi kiếm lương thực cho đơn vị, ông Hào cùng 6 chiến sỹ khác của Quân đội Nhân dân Việt Nam bị địch phục kích, đánh bom. Ông bị thương nặng nhưng may mắn được một gia đình dân tộc thiểu số ở Campuchia cứu giúp, bao bọc. 
Do vết thương ở đầu quá nặng, lại bất đồng ngôn ngữ nên ông không thể tìm lại được đơn vị của mình. Cũng từ đây, người cựu binh ấy bắt đầu cuộc sống lưu lạc đầy nước mắt và tủi hờn: “Vì là người của quân đội nên tôi luôn bị đối phương săn lùng, truy quét. Có đợt phải chạy trốn trong hang đá, giữa rừng. Đói quá, phải đào củ măng gặm sống để tồn tại. Khát nước thì cứ thế mà nhai lá rừng hoặc kiếm quả dại để ăn. Biết tôi là bộ đội Việt Nam, nên người dân Campuchia luôn tìm cách cưu mang, che chở. Tôi sống cùng một gia đình người dân tộc ở một quả núi heo hút trong rừng sâu. Không có điện, nước, cuộc sống bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài nên không có cách nào liên lạc lại với người thân ở Việt Nam...”.
“Thỉnh thoảng anh tôi lại ôm đầu hét lớn”
Ông Lê Xuân Vui - người em trai thứ 2 của ông Hào ngồi bên cạnh thỉnh thoảng phải khẽ quay đi lau vội dòng nước mắt. “Ngày trở về, anh tôi ốm yếu, đen như nõ điếu, trông không còn ra hình người. Mái tóc bạc trắng, lưa thưa xòa cả xuống mặt. Chiếc áo tả tơi, vá chằng, vá đụp. Bước đi cứ xiêu vẹo, khập khễnh, cám cảnh đến mức, đến đôi dép anh tôi cũng chẳng có mà đi...”. 
Ngày ấy, vừa trông thấy người đàn ông tập tễnh bước xuống xe, người em gái tên Miền đã reo lớn: “Anh Hào, có phải anh Hào con bố Mạnh đấy không?”. Người đàn ông tiều tụy kia, môi chỉ hấp háy không lên lời, mắt ầng ậc nước, gật đầu lia lịa. Ông Vui xúc động cho biết, tuy hàng chục năm không gặp nhưng ông vẫn nhận ra anh mình qua ánh mắt và nụ cười. 
Cả gia đình cứ thế ôm lấy nhau mà khóc. Người nắn chân, người nắn tay để tin rằng ông Hào – người anh “liệt sỹ” vẫn còn sống trở về bằng da bằng thịt sau bao nhiêu năm xa cách. “Hồi mới về, có ngày anh Hào cứ đi lang thang khắp làng, thỉnh thoảng đang đêm ngủ, anh tôi lại bật dậy, ôm đầu la lớn: quân địch đến, quân địch đến, làm người nhà thương đến thắt lòng...”, ông Vui xót xa cho biết. 
Ngày ông Hào nhập ngũ, người bố của ông đã đưa ông đến tận nơi giao quân, vẫy tay chào và hẹn ngày gặp lại. Sau 28 năm ông Hào tìm về cố hương, bố ông đã nằm dưới ba thước đất. Tay run run thắp nhang lên bàn thờ, ông Hào nức nở như một đứa trẻ: “Bố ơi, con Lê Xuân Hào không kịp báo hiếu bố trọn một ngày, không kịp nhìn mặt bố lần cuối. Nay con trở về quê hương, trở về với anh em, con xin tạ lỗi với bố”. Người anh trai ông Hào – ông Lê Xuân Bạc cũng nghẹn ngào: “Trước khi bố tôi qua đời, ông cầm tay từng người một dặn dò phải tìm thấy xương cốt em tôi, dù chỉ là một nắm đất đen cũng phải đưa về quê cha đất tổ. Sau bao nhiêu năm tháng, nay em tôi trở về, nguyên vẹn, lành lặn...” 
Liệt sỹ trở về Lê Xuân Hào
Do bị “cách ly” trong rừng sâu đã lâu nên mọi sinh hoạt của cuộc sống hiện đại khiến ông Hào lạ lẫm. Đến bữa cơm, người thân gắp thịt ông cứ chối đây đẩy mà chỉ xin ít muối và rau luộc ăn kèm. Nghe tiếng vô tuyến truyền hình ông sợ hãi đến mức “trốn biệt” trong nhà. Đến nhà vệ sinh tự hoại, anh em trong nhà cũng phải thay nhau “hướng dẫn” nhiều lần ông mới thuộc “quy tắc”. Những năm tháng lưu lạc nơi đất khách quê người cũng khiến cho vốn tiếng mẹ đẻ của ông Hào bị mai một. Ông không thể nói trôi chảy tiếng Việt mà chỉ lẩm nhẩm từng câu. 
Có lẽ, điều an ủi lớn nhất với người cựu binh là đứa con gái với người vợ quá cố ở Campuchia cũng trở về cùng ông trong hành trình sum họp.
Nhớ lại những năm tháng trong rừng sâu ở đất nước Campuchia, ông Hào nghẹn ngào: “Bây giờ nhắm mắt lại, thỉnh thoảng tôi vẫn bị giật mình bởi những ký ức u ám đó. Nhà tôi chon von dựng trên đỉnh núi, trên những dốc đá lởm chởm, để mưu sinh tôi phải đi săn thú rừng, đào măng, bắt cá... 28 năm lưu lạc, là bấy nhiêu năm tôi chưa được sống đúng nghĩa một con người...”.
Hiện tại để mưu sinh, ông Hào cùng con gái đi thu mua lông gà, lông vịt và bao tải rách để đắp đổi qua ngày. Ngày nhiều nhất kiếm được 1 trăm nghìn, ngày ít thì vài chục bạc, bố con đùm bọc, đắp đổi qua ngày. Khi được hỏi về mong ước lớn nhất của mình, ông Hào đưa đôi mắt trầm buồn nhìn xa xăm: “Tôi chỉ ước được một lần đi khám bệnh cho khỏi hết chứng đau đầu và đau chân để mỗi khi trái gió trở trời, khỏi phải phiền đến anh em họ hàng. Người thân của tôi ai cũng khó khăn cả...”.
Điều đáng nói, theo người nhà ông Hào, mặc dù đã về địa phương được gần 2 năm, chính quyền xã và các ban ngành địa phương chưa có một lời thăm hỏi, động viên hoặc xem xét chính sách cho ông Hào. Ông Lê Văn Vui (em trai ông Hào) bức xúc: “Anh tôi thực hiện nghĩa vụ vì dân, vì nước, do lưu lạc mà rơi vào tình cảnh trớ trêu này. Lúc anh tôi trở về, chính quyền xã cắt luôn chế độ với gia đình liệt sỹ nhưng không có một câu thăm hỏi, động viên...”.


(Dân trí) - Khi được hỏi về công tác thăm hỏi, động viên sau khi "liệt sỹ" Lê Xuân Hào trở về, lãnh đạo chính quyền địa phương cho biết: “Đấy không phải trách nhiệm của xã mà thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội nên xã cũng không nắm được”. 
Người cựu binh già bật khóc bên bia mộ khắc tên mình
Kể về những năm tháng lưu lạc ở đất nước Campuchia, ông Lê Xuân Hào (Trầm Lộng - Ứng Hòa – Hà Nội) – người cựu binh già vừa trở về sau 28 năm là “liệt sỹ” cho biết: Sau khi bị địch phục kích bắn, ông bị thương nặng, mê man bất tỉnh giữa rừng. Đến khi thoi thóp thở lại thì thấy mình đang nằm trong căn nhà sàn của một người dân tộc thiểu số tại Campuchia.
Không có thuốc men chữa trị, hàng ngày gia đình người dân tộc này đi lấy búp chuối non và lá rừng, giã nát ra rồi đắp vào vết thương cho ông Hào. Khỏi bệnh, ông tập tễnh trở lại địa điểm đóng quân thì được biết đơn vị mình đã chuyển đi nơi khác. Không biết tiếng địa phương, không một đồng tiền dính túi, ông đành quay trở lại nhà người ân nhân xin nương tựa nhờ. Sau này, để trả ơn cứu mạng, ông Hào đã kết hôn với con gái của gia đình ân nhân tên là Khơ Môn. Vì cuộc sống khó khăn, nghèo đói, sau đó người vợ này không may mất sớm.
Về phía đại đội 12, tiểu đoàn 4 (trực thuộc Đoàn 7704), cứ ngỡ ông Hào đã hi sinh trong trận tập kích của địch nên làm các thủ tục báo tử về gia đình. Trong tờ giấy báo tử có ghi: "Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Lê Xuân Hào đã cùng đồng đội nêu cao tinh thần anh dũng chiến đấu, vượt qua khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ được giao và đã hy sinh vẻ vang tháng 3/1984. Cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị vô cùng thương tiếc và tự hào có người đồng chí, đồng đội đã làm rạng rỡ thêm truyền thống tốt đẹp của Quân đội Nhân dân Việt Nam". Tờ giấy báo từ được gửi về gia đình ông Hào ngày 25/6/1992.
Trong những lúc tuyệt vọng, ông Hào cũng từng nghĩ đến cái chết để giải thoát
Trong những lúc tuyệt vọng, ông Hào cũng từng nghĩ đến cái chết để giải thoát Khi được hỏi, tại sao trong ngần ấy năm lưu lạc không tìm cách về quê, ông Hào ngậm ngùi: “Nỗi nhớ quê hương ám ảnh tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ. Có đêm nằm mơ thấy rõ từng vết rêu trên cái cổng tre quê nhà, cả tiếng bà con mình í ới gọi nhau bên bờ ao, giếng nước. Tỉnh dậy thì thấy nước mắt chảy ướt gối từ bao giờ”. Cuộc sống ở vùng sâu, giữa rừng, không có điện thoại, không có bưu điện. Gần như 100% người dân mù chữ nên ông Hào không biết nhờ cậy vào ai để tìm được cách liên lạc về quê nhà.
Trong những lúc tuyệt vọng, ông Hào cũng từng nghĩ đến cái chết để giải thoát: “Nhiều khi liều mình ra đến vách núi định nhảy xuống chết quách đi cho rồi, nhưng tôi lại tự nhủ, sống đã chịu cảnh lưu lạc tha hương thì khi chết nhất định tôi phải được chôn ở quê cha, đất tổ. Thế là tôi lại quyết tâm quay về, tiếp tục cố gắng để sống, với hi vọng ngày nào đó sẽ tìm được đường về quê hương...”.
Cuộc gặp định mệnh
Nhớ về cuộc gặp gỡ định mệnh, giúp tìm lại được “người anh liệt sỹ” thất lạc trong rừng sâu, ông Lê Xuân Vui (người em trai thứ 2 của ông Lê Xuân Hào) kể lại: Cuối năm 2011, ông Vui bất ngờ được một người thanh niên tìm gặp và cho biết đang nắm giữ thông tin về người anh “liệt sỹ” của gia đình. Quá đỗi bất ngờ, như không tin được vào tai mình, ông Vui phải liên tục hỏi lại: “Có thật là anh tôi còn sống không? Chắc chắn là anh tôi đấy chứ?”. Người thanh niên kia quả quyết và kể lại, trong một lần vào rừng tìm gỗ làm nhà, người chú ruột anh đã gặp ông Hào đang sống trong một bản nghèo tại Khsach Laet, xã Onsachambork, huyện Krakor.
Ông Hào có tên Campuchia là Chea Hay. Người thanh niên này cũng quả quyết chính bản thân anh cũng đã được người chú mình cho nói chuyện với ông Hào qua điện thoại nhờ tìm giúp gia đình ở Việt Nam. Mất vài phút trấn tĩnh, ông Vui mới lập cập hỏi được tên, địa chỉ của vị ân nhân.
Ngay ngày hôm sau, điện thoại của ông Vui đổ chuông: “Nhìn vào mã điện thoại lạ, tim tôi đã đập nhanh liên hồi, toàn thân run bắn. Thế nhưng, khi tôi bấm nghe máy và “alo” thì đầu bên dây kia chỉ im lặng. Vài phút trôi qua, chỉ nghe những tiếng nấc nhẹ, rồi tắt máy. Ngay lập tức, tôi gọi lại và hỏi: “Có phải anh Hào người xã Trầm Lộng - Ứng Hòa đấy không?” thì nghe thấy tiếng “ừ, anh Hào đây” bằng giọng lơ lớ, ngọng nghịu. Như không tin vào tai mình, tôi phải yêu cầu anh nhắc lại 3 lần, rồi mừng quá, nước mắt tự nhiên cứ chảy dài ra. Sau khi hỏi vài thông tin thì tôi chắc chắn đến 90% người đầu dây kia là anh trai mình thật”.
Ngay lập tức, một cuộc họp gia đình đã được tiến hành khẩn cấp, 5 người em của ông Hào quyên góp tiền để đón người anh mà gần 30 năm qua, họ đã lập bàn thờ hương khói mỗi ngày. Người em họ tên Khiêm (đang làm việc tại Bình Phước) nghe thông tin tìm thấy ông Hào, đã “xung phong” thuê xe để đón ông Hào trở về. Do địa hình hiểm trở, lại không thông thuộc đường, chuyến đi đầu tiên đã thất bại. Lần thứ 2, rút kinh nghiệm, anh Khiêm thuê xe và nhờ một người phiên dịch tiếng Campuchia đi cùng để hỏi thông tin.
Nhớ lại khoảnh khắc gặp lại người thân, anh Khiêm xúc động: “Anh tôi đứng bên vệ đường, thất thểu trong tà áo rách. Lúc anh Hào đi bộ đội tôi mới lẫm chẫm biết đi, ngần ấy năm xa cách chưa một lần được gặp mặt nhưng khi vừa nhìn thấy khuôn mặt anh, đôi mặt ầng ậc nước, hiền từ giống i như khuôn mặt bố tôi, thì hai anh em cứ ôm nhau mà khóc...”.
Được công nhận công dân Việt Nam sau hơn 10 nghìn ngày lưu lạc
28 năm lưu lạc mới tìm được đường về quê hương nhưng hành trình tìm lại quyền công dân của ông Hào cũng đầy chông gai. Người cựu binh già nghẹn ngào nhớ lại, thời gian đầu mới trở về ông đến gặp chính quyền để hỏi về thủ tục “làm người còn sống”: “Họ bảo tôi, ông chết rồi, giấy báo tử vẫn còn lưu một bản ở đây, hộ khẩu ông cũng bị cắt rồi, giờ muốn xin lại chúng tôi không đủ thẩm quyền giải quyết!. Rồi họ bảo tôi về. Hết lần này đến lần khác đều thấy, sao để được làm người còn sống mà cũng khổ quá. Tôi đã nóng giận, cởi áo, sắn quần cho họ xem những vết sẹo chi chít, dấu tích của thời trận mạc khói lửa. Tôi bảo họ: Đây, vết sẹo này là tôi bị đạn của địch găm vào, còn vết sẹo này là tôi bắn máy bay địch, bị một mảnh bom văng vào, gây thương tích. Tôi lưu lạc xa quê do bệnh tật vì tôi không có đủ vài triệu bạc thuê xe về, nay về được quê hương, tôi chỉ có ước mơ được công nhận lại là công dân Việt Nam, mà các anh cũng gây khó dễ. Thế mà họ cũng không nghe, họ xua tôi về không thương tiếc”.
Đến tháng 8/2013, ông Hào mới được cầm tấm Chứng minh thư nhân dân mang tên mình. Nhớ lại giây phút ấy, ông Hào rưng rưng kể: “Ngày cầm chứng minh thư, có ảnh, tên mình tôi bật khóc như đứa trẻ. Vậy là cuối cùng, niềm mơ ước cuối đời của tôi cũng thành hiện thực. Tôi đã trở về quê hương, được là một công dân Việt Nam theo đúng nghĩa”.
Đến tháng 8/2013, ông Lê Xuân Hào đã được cấp Chứng minh thư nhân dân và Sổ hộ khẩu
Đến tháng 8/2013, ông Lê Xuân Hào đã được cấp Chứng minh thư nhân dân và Sổ hộ khẩu
Lãnh đạo Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh (PA72) – CA Thành phố Hà Nội chia sẻ: Ngay khi nhận được thông tin từ địa phương gửi lên về trường hợp ông Lê Xuân Hào, Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh (Công an Thành phố Hà Nội) đã khẩn trương xác minh, kiểm tra để giải quyết thủ tục nhập hộ khẩu về địa phương và cấp chứng minh thư nhân dân cho ông Hào. Đối với con gái ông Hào, Phòng PA72 cũng đã hướng dẫn làm thủ tục xin cấp thẻ thường trú và báo cáo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh – Bộ Công an (A72) xem xét giải quyết như đối với trường hợp không quốc tịch nhằm tạo điều kiện cho trường hợp này được ở lại, sinh sống tại Việt Nam và thuận lợi cho việc xin nhập quốc tịch Việt Nam sau này.
Lãnh đạo Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh cũng bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng, các tổ chức, cá nhân trong xã hội có sự giúp đỡ để ông Hào có cuộc sống tốt hơn.
Lý giải về thông tin cho rằng chính quyền xã gây khó dễ cho ông Hào trong việc giải quyết các thủ tục, ông Lê Quang Cảnh - Phó Chủ tịch xã Trầm Lộng - Ứng Hòa – Hà Nội cho biết: Do di chứng của chiến tranh nên có lúc đầu óc ông Hào không được bình thường, có những lời lẽ không hay đối với cán bộ và gây hiểu lầm giữa các bên.
Khi được hỏi về chế độ đối với ông Hào, cũng như công tác thăm hỏi, động viên sau khi "liệt sỹ" này trở về, ông Cảnh cho biết: “Đấy không phải trách nhiệm của xã mà thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội nên xã không nắm được. Từ khi ông Hào trở về, chính quyền đã ngay lập tức cắt chế độ dành cho gia đình liệt sỹ của gia đình ông Hào. Tuy nhiên, vấn đề hỗ trợ cho ông Hào sau này thì không thuộc thẩm quyền của xã nên chúng tôi không thể giải quyết...”.



Xuân Ngọc - Hà Trang


Khi “liệt sĩ trở về” muốn tự tử!
Đỗ Doãn Hoàng

Ông Hào trong căn nhà rách nát cùng giấy tờ 30 năm tuổi Đảng của bố và bằng công nhận liệt sĩ của mình.
Ông Lê Xuân Hào, một cựu binh nhập ngũ tại thôn An Hòa (xã Trầm Lộng, huyện Ứng Hòa, nay thuộc thủ đô Hà Nội) từ 28 năm trước đi làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Campuchia. Năm 1992, đơn vị đã gửi giấy báo tử, bằng “Tổ quốc ghi công” để tri ân “liệt sĩ Lê Xuân Hào”. Nghĩa trang xã Trầm Lộng, chùa trong xã đều có tên “liệt sĩ” Hào, bàn thờ trong nhà cụ Lê Đức Mạnh (bố ông Hào) có “di ảnh” và bát nhang thờ người quá cố Lê Xuân Hào. Đùng một cái, sau hơn 27 năm được thờ cúng, Lê Xuân Hào đen đúa, rách rưới, ốm o, sầu tủi trở về, anh dắt theo 1 đứa con gái với cái tên “vọng cố hương” là Lê Thị Thùy Dương.
Bên Campuchia, xứ sở mà anh lưu lạc hơn 20 năm qua, còn 4 người con gọi bằng “bố Hào” nữa. Nếu chuyện chỉ dừng ở đoạn này, thì đã đau đớn, chua xót, ám ảnh nỗi đau chiến tranh và thời hậu chiến lắm rồi. Và cái mô típ “liệt sĩ” trở về cũng đã diễn ra nhiều, khá quen thuộc trên cả nước.
Tuy nhiên, người viết bài này và bà con Trầm Lộng lại đang day dứt, xôn xao bởi một chủ đề khác: Liệt sĩ trở về Lê Xuân Hào đã uất ức muốn mua xăng về tự tử vì “thủ tục làm người còn sống”, con gái ông cũng vì “vướng thủ tục” đó mà không thể đăng ký kết hôn, cháu đã chính thức… uống thuốc ngủ để chết. May mà Bệnh viện Bạch Mai rửa ruột cứu mạng kịp thời.
Tờ giấy in công văn gửi cho gia đình liệt sĩ giá bao nhiêu tiền?
Nghe những gì ông Hào và cháu Thùy Dương nói, chúng tôi thật sự sốc. Sau khi xác tín “tin dữ” từ gia đình, xóm mạc, cả trưởng thôn An Hòa, cả Phó Chủ tịch UBND xã, rồi cả Phó Giám đốc Sở LĐTBXH Hà Nội, Trung đoàn Thủ đô, tôi mới ngã ngửa: Hóa ra thủ tục làm người còn sống khó thật.
Thủ tục “hành là… chính” với quan niệm của không ít cán bộ thời này là gì? Có lẽ là “chuyện dễ mà không làm cho khó, thì làm gì có thịt… chó mà ăn”. Hành là chính với công dân bình thường đã là đau đớn, đằng này lại “hành” cả một cựu binh cống hiến cả tuổi trẻ, cả máu xương, sẵn sàng “vị quốc vong thân” như ông Hào thì quá khó hiểu!
Ông Hào và bữa cơm nấu ở góc sân.
Ông Hào và bữa cơm nấu ở góc sân.
Sau khi trở về, gỡ tấm ảnh thờ của mình ra khỏi bàn thờ ẩm mốc trong ngôi nhà cũ rách nát, ông Hào lập cập leo xuống, nằm góc nhà cứ rúc lên từng hồi. Bà nội chết, mẹ chết, bố chết. Lúc anh đi lính, bà và bố vẫn khỏe lắm. Ngôi nhà xưa thuộc quyền sở hữu của ông anh trai sống tít mãi Sơn La, đã bỏ không, rêu mốc.“Chỗ này, là nơi đặt hòm gỗ, phủ cờ đỏ sao vàng, cử hành lễ truy điệu mày đây, Hào ạ. Bằng tổ quốc ghi công, giấy báo tử của mày đây. Tao phải dẫn bố mày lên huyện dò hỏi mãi mới biết mày đã “hy sinh” đấy”. Chứ cứ để yên thì bây giờ mày vẫn vào loại mất tích trong im lặng” – cậu ruột Lê Xuân Hào rành rọt.
Than ôi, cái giấy tờ của Sở LĐTBXH Hà Tây (cũ), do ông Phó Giám đốc ký về chuyện Hào hy sinh, rồi gia đình hưởng chế độ “mai táng phí” gì đó, sao mà nó thê thảm thế. Giấy về một tử sĩ, gửi cho bố của liệt sĩ, mà gạch xóa nham nhở. Thậm chí “phôi” giấy cũ mèm, có từ thời Hà Tây còn thuộc về tỉnh cũ Hà Sơn Bình, người ta cứ bừa phứa gạch xoẹt chữ “Hà Sơn Bình”, viết đè đen thui lên đó một chữ “Hà Tây” (4 lần gạch xóa viết đè trong một văn bản vô cùng quan trọng), rồi chỗ nào cần xóa là xóa, cần đè là đè.
Một tờ giấy và công viết một công văn về liệt sĩ, gửi cho gia đình liệt sĩ nó đắt đỏ và khó khăn thế ư? Thế mà Phó Giám đốc sở cũng nỡ đặt bút ký và… đóng giấu vào đấy được ư? Mà có phải thời chiến tranh hay bao cấp đói nghèo gì, cái giấy về lễ tang với “mai táng phí” ấy mới được ký và gửi vào ngày 25.5.1993!
Trốn trong hang đá, ngủ ngoài bìa rừng, chui trong bồ đựng thóc
Chưa hết. Lê Xuân Hào nhập ngũ năm 1983, sau khi huấn luyện kỹ, được “phiên” vào tiểu đội 2, trung đội 4, đại đội 12, tiểu đoàn 4, đoàn 7704, mặt trận 497, Campuchia. Tháng 3 năm 1984, trong một lần đi hái rau phục vụ đơn vị thì bị lọt vào ổ phục kích, bị địch bắn trọng thương ở đùi, mảnh đạn pháo văng vào đầu bất tỉnh. Anh từ cõi chết tỉnh lại thì thấy mình nằm trên nhà sàn, trong nhà một gia đình ở miền núi Campuchia.
Họ dùng lá rừng, nước muối và cháo loãng chăm sóc anh hồi phục. Khi đang tập tễnh lên da non các vết thương, Hào đã đòi các ân nhân cứu mạng đưa mình về nơi đóng quân để tiếp tục chiến đấu. Nhưng đến nơi thì đơn vị đã chuyển đi từ lâu. Rừng núi điệp trùng, trọng thương chưa lành, lại không biết tiếng Campuchia, ở đó cũng không ai nói được tiếng Việt, lại không một xu dính túi, không một tấc sắt trong tay.
Ông Hào với chiếc xe cải tiến đi mua phế liệu và đàn gà công nghiệp sắp chết rét
Ông Hào với chiếc xe cải tiến đi mua phế liệu và đàn gà công nghiệp sắp chết rét
Gia đình ân nhân cũng cực kỳ nghèo khó. Giữa thời nước bạn còn tàn quân Pôn Pốt tung hoành dã man đó, anh bộ đội Việt Nam cũng không dễ gì an toàn khi xuất hiện ở chỗ đông người. Không còn cách nào khác, Hào tạm ở lại bản làng hẻo lánh. Thế rồi anh phải lòng cô con gái chủ nhà.Cô này đã một đời chồng, có một đứa con riêng. Họ ở với nhau, có thêm 4 đứa con chung. Ông Hào kể, để sống sót, nuôi được bà vợ bệnh trọng (ung thư vú, đã chết) và đàn con nheo nhóc, ông thường đi đánh cá thuê lênh đênh trên Biển Hồ với nhiều lần dông gió lật thuyền, tưởng như mất xác trong gang tấc.
Anh cũng đi làm rẫy thuê, sống lẩn trốn tàn quân Pôn Pốt với hàng chục lần chết hụt. Suốt nhiều năm phải di chuyển nhà, cứ trời rim rỉm tối là phải trốn khỏi nhà đi ngủ ngoài rừng, vì binh lính lùng sục tìm giết. Có đêm phải trốn trong bồ thóc, nhiều ngày sống như khỉ vượn, ăn quả xanh, uống nước suối, ngủ hang đá khi bị truy đuổi, anh vẫn đau đáu một ngày được trở về quê hương, vì thế, các con anh, bên cạnh tên Campuchia, anh vẫn đặt cho nó một cái tên việt: Thi, Nga, rồi Lê Thị Thùy Dương.
Bị trọng thương, “lúc nhớ lúc quên”, lạc đơn vị từ năm 1984, mãi hơn 27 năm sau, tình cờ có người cùng quê Ứng Hòa sang Campuchia đốn gỗ trong rừng già, gặp ông Hào đang đi làm thuê ngoài rẫy. Đen đúa, rách rưới, ngơ ngẩn.
Người đồng hương rớt nước mắt giao nhiệm vụ cho Lâm, một đứa cháu của ông ta về quê báo tin cho gia đình ông Hào. Sau 2 lần thuê xe, dò hỏi, thuê người dẫn đường và “bảo vệ” để vào vùng hẻo lánh đó, một người em của Lê Xuân Hào đã đưa được anh hồi hương.
Hai bố con “liệt sĩ”: Người định tự thiêu, người đã tự tử đang dở câu chuyện “thủ tục làm người còn sống”
Về đến nhà, xã nghe tin “liệt sĩ” Lê Xuân Hào còn sống, họ cắt luôn tiền chế độ thờ cúng liệt sĩ của Lê Xuân Vui – em trai ông Hào. Không “được” là “liệt sĩ”, nhưng suốt mấy trăm ngày qua đi lo thủ tục, chạy vạy đủ đường, ông Hào và con gái, cùng gia đình vẫn phải phẫn uất, chán nản, thậm chí ông Hào định tự tử còn con gái ông thì tự tử rồi. Chỉ vì sự nhiêu khê. Ông Hào có đi bộ đội không? Có.
Có khổ sở 27 năm qua vì nhiệm vụ thiêng liêng cho tổ quốc và tình hữu nghị quốc tế không? Có. Giấy tờ còn nguyên vẹn đó. Thế tại sao mấy trăm ngày qua, cơ quan chức năng không lo cho ông ta nhập hộ khẩu, có chứng minh thư? Tại sao con ông ta đến tận khi tôi ngồi viết những dòng này, cháu Dương vẫn khóc, gia đình vẫn lo cháu tiếp tục tự tử, vì không có hộ khẩu, không có chứng minh thư để đăng ký kết hôn?
Sao người cán bộ không đặt mình trong tâm trạng của người trở về sau 27 năm được “cúng” trên bàn thờ như thế – để chia sẻ, cảm thông và nỗ lực vì họ? Nếu ai đó vì làm nhiệm vụ cho non sông mà bị thất lạc gia đình, quê hương suốt 27 năm tận cùng khổ sở, khi trở về, bố đã chết, bà nội đã chết, thì họ nghĩ gì?
Họ nghĩ gì thì nghĩ, nhưng, chắc chắn họ không thể tin được là mất hơn 600 ngày chạy vạy lo lắng mà Quê Hương không nhập khẩu, cấp chứng minh thư cho họ – Người Lính Đã Ra Đi Vì Tiếng Gọi Non Sông!
Sau khi các nhà báo “vạch trần” bi kịch tàn nhẫn này: Lần đầu tiên sau mấy trăm ngày hồi hương trong nước mắt, ông Hào đã được trân trọng đón tiếp cán bộ địa phương đến thăm. Rồi vài gói quà, cái chăn ấm có gắn các tờ giấy trắng in dòng chữ diêm dúa “nơi nọ nơi kia kính tặng”. Rồi xã, huyện và cấp cao hơn một tí cùng nhận lỗi. Phòng LĐTBXH thì thanh minh là mình không hiểu thủ tục.
Xã thì mắc lỗi không báo cáo lên huyện bằng văn bản, dù có gọi điện và báo cáo… mồm chuyện ông Hào bỗng dưng “từ cõi chết” tìm về. Các đoàn “thăm hỏi” tới tấp. Họ “thăm” vì tình cảm với ông, vì tri ân một người đã xông pha vệ quốc và chịu quá nhiều thiệt thòi sau 27 năm “ngự” trên bàn thờ, hay họ lo sợ trách nhiệm khi bị tố vô cảm với “liệt sĩ trở về”? Ông Hào bảo:
“Tôi không biết nói gì”. Rồi ông khóc. Một lời cảm ơn đoàn cán bộ sở do ông Phó Giám đốc dẫn đầu đến thăm, ông Hào cũng không nói. Ông cứ ngồi yên như pho tượng đá. Gia đình phải
đỡ lời.
Đợi khách về hết, ông Hào mới thở dài với nhà báo: “Tôi đau lắm. Tôi đi nhặt phế liệu kiếm sống. Tôi cóp tiền. Tôi từng định bỏ 300.000 đồng ra mua xăng về tự tử. Đốt cái là hết. Con gái tôi thì uất quá tự tử, vì không có hộ khẩu, không có chứng minh thư. Trong khi nó phải lấy chồng.
Nhà chồng nó có người thân làm lãnh đạo xã sở tại, ông ấy khá kiên quyết “gương mẫu”, rằng là: Cháu dâu mình phải về nhà mình với giấy đăng ký kết hôn đàng hoàng. Thế rồi các cháu vẫn quyết cưới, nhưng xích mích đã xảy ra khi không thể đăng ký kết hôn. Cháu Dương đã tự tử”.
Ông Hào khóc. Khóc lặng đi rất lâu rồi lại khóc. Cậu ruột ông Hào đỡ lời: Hồi “thằng” Hào đi bội đội, tôi đang làm xã đội trưởng, giao cháu tôi cho cán bộ đem đi làm nhiệm vụ lớn. Vậy mà năm tháng trôi qua, không ai cho biết nó sống chết thế nào. Lúc già yếu, anh tôi (bố ông Hào, người cán bộ 30 năm tuổi Đảng), lọm khọm lên huyện hỏi tin tức rất nhiều lần. Mãi rồi họ mới gửi… giấy báo tử.
Giờ “nó” trở về, khổ quá là khổ. Rồi ông cậu cũng lại rơi nước mắt.
Anh Lê Xuân Vui – em ruột, người bao năm thờ cúng “liệt sĩ Lê Xuân Hào” – bèn đỡ lời, kể: Tôi đưa anh Hào lên công an huyện, đưa đi lo thủ tục nhiều lần lắm. Vào phòng của công an, “khai” cả buổi sáng, khai nhiều lần. Nhưng người ta không cấp cho anh ấy hộ khẩu và chứng minh thư. Có lần, đi lại mãi, họ cấp hộ khẩu một quyển đàng hoàng, có tên anh Hào và cháu Dương hẳn hoi.
Tuy nhiên, chiều hôm trước cấp thì sáng hôm sau Công an xã được cử đến… thu lại. Mãi đến tháng 8 năm 2013 vừa rồi, tức là sau hơn 2 năm anh Hào trở về, họ mới cấp hộ khẩu và làm chứng minh thư cho anh Hào. Riêng con gái anh, cháu Lê Thị Thùy Dương thì bây giờ vẫn “lưu lạc”, chưa nhập khẩu, chưa có chứng mình thư. Cháu đi làm dâu bên Sóc Sơn, sau vụ tự tử, mỗi lần về thăm bố nó đều khóc, buồn lắm.
Ông Hào đi hỏi tiếp, thì họ bảo lên “cơ sở hai” gì đó, ông chả biết ở đâu. Và người đi nhặt phế liệu kiếm sống lần hồi với bao vết thương trên thịt da và trong tâm khảm như ông, lấy đâu ra sức lực, tiền của để mà đi?
Xã bảo: Cắt chế độ liệt sĩ là việc của xã, còn lo chế độ cho “liệt sĩ trở về” là việc của cấp trên. Cấp trên thì bảo xã không báo cáo bằng văn bản nên không… biết. Hoặc biết nhưng không biết thủ tục phải làm thế nào. Hơn 2 năm đằng đẵng trôi qua. Và, thế là, ông Hào, vì sự gào réo của cái dạ dày, mới bèn đóng cái xe cải tiến đi thu mua phế liệu kiếm sống hằng ngày.
Người đàn bà quá lứa lỡ thì đến gá nghĩa với ông, chăm sóc ông lúc ốm đau bệnh tật một thân một mình ấy, gặp nhà báo, cứ rầu rĩ vuốt nước mắt nhìn chồng như van xin: “Em lấy chồng là để nương tựa vào chồng. Anh mà tự tử, thì anh giết em đi cho xong!”. Đứa con gái Thùy Dương thương nhớ của ông Hào đi làm dâu nhà người ta rồi, vẫn nói tiếng Việt bằng giọng Campuchia lơ lớ, khó nhọc.
Nó nhắn tin qua điện thoại cho nhà báo, cũng ngọng và sai chính tả chi chít như khi nói: Em đau buồn lắm, bao giờ em mới có hộ khẩu và chứng minh thư? Em tự tử vì không được đăng ký kết hôn anh ạ. Bố em định tự tử vì… cái hôm lên huyện xin thủ tục cho em cưới chồng mà không được ấy. Có người bảo bố em là phải… phải… thì người ta mới cho!
Lời thật thà của Thùy Dương làm chúng tôi có cảm giác ai đó dùng cật nứa cứa vào lục phủ ngũ tạng mình. Nó đã tự tử và đã đi xe cấp cứu lên Bạch Mai rửa ruột rành rành. Nếu ông Hào mua xăng tự thiêu thì tôi sẽ không mấy bất ngờ nữa. Lỗi là do ai? Không lẽ cứ nhận lỗi là xong? “
Thủ tục làm người còn sống” của một cựu binh làm nhiệm vụ vì non sông gấm vóc mà còn khó thế – đủ biết các thủ tục “hành là chính” khác nó chông gai đến mức nào! Tự hỏi: Không lẽ chúng ta cứ chấp nhận chung sống với sự rầy rà vô cảm đó mãi ư?
Theo Lao Động

*****

Tìm kiếm Blog này