Tim thông tin blog này:

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

Tự sự của một thầy dạy trung học trước 1975

Tôi đến nơi này dạy học từ thành phố lớn nhất nước vào mùa thu, thập niên 60 vừa qua, tính đến nay đã gần nửa thế kỷ.

Khi đến cơ quan để nhận sự vụ lệnh, Tôi được người phụ trách – vì sợ Tôi từ chối nhiệm sở mới: xa xôi và lạ lùng này – huyên thiên khoe thị xã này xanh đẹp, yên vui và dân cư hiền hòa…lại đem tấm bản đồ nước Việt ra chỉ chỏ…Nhưng tìm mãi Cô ta không thấy vị trí Tuy hòa đâu mà chỉ có Sông cầu! Thì ra, cô ấy đã “tán phét” và đấy là bản đồ cũ, lúc ấy Sông cầu là tỉnh lỵ Phú yên, và Tuy hòa còn quá nguyên sơ,  một địa danh chưa có tên trên bản đồ nước Việt!

Trước ngày ra đi, Tôi được người thầy kính yêu và rất có thế lực ở Bộ Đăc Nhiệm Văn Hóa Xã Hội (vì Tôi là précepteur, tức dạy kèm, cho con ông ấy) nhắn nhủ: “Thầy biết con là người có tâm huyết; mà người có tâm huyết như con, nên về dạy ở tỉnh lẻ, vì ở đấy con có thể thể hiện nhiệt tâm của mình; chứ ở đây học trò phần nhiều ít ngoan, xã hội lại điên đảo, việc truyền thụ của con sẽ muôn vàn gian nan và buồn phiền; sau này, khi có ít nhiều từng trải sự đời và kinh nghiệm trong việc dạy học, nếu con muốn về Sai gòn, thầy sẽ vui lòng làm con toại ý…!”.

Vì thế, Tôi đến Tuy hòa với một lòng hăm hở, muốn làm một việc, dù nhỏ nhặt và thầm lặng, nhưng thật ích lợi cho các em học sinh.

Sáng hôm đầu tiên Tôi đến dạy hai lớp Đệ Nhị (11) những lớp lớn nhât của trường Nguyễn Huệ lúc bấy giờ, Tôi đi xích lô đến trường Nguyễn Huệ cũ (Hùng Vương ngày nay). Con đường đep làm sao: Hai hàng dương liễu xanh rí và thẳng tắp, đây đó nhiều con chim nhỏ nhảy nhót, ríu rít như muốn chào mừng khách lạ, làm cho lòng Tôi thêm rộn rã…

Điều làm Tôi hơi ngạc nhiên là học trò nam nữ phần nhiều đều có vẻ già, to con (có lẽ do Tôi bé con và gầy). Sau này Tôi được biết, một số các em đã thi hỏng Tú Tài bán, xin học  để thi  lại, có em lớn tuổi (gần bằng tuổi thầy giáo) đã có vợ con; vì ờ quê, khai sụt tuổi để ra thị xã học, trốn lính!

Đẹp một điều là các em rất lễ phép và chăm học. Mọi người đều xưng “con” với thầy, làm Tôi suy nghĩ, liệu mình có xứng đáng với niềm tôn kính ấy không? Các em tỏ ra thông minh, lãnh hội bài giảng một cách đĩnh đạc chứ không láu cá như một số học sinh mà Tôi gặp khi còn đi thực tập ở các trường lớn tại Sàgòn.  Lớp hoc im phăng phắc!

Sau những ngày đầu xao xuyến và lo lắng, Tôi cảm thấy an tâm và tự tin.  Mọi việc dần đi vào nề nếp. Về phía phụ huynh, Tôi được biết họ lặng lẽ theo dõi tư cách, tác phong và trình độ của thầy giáo mới. Họ cũng dành thiện cảm và ưu ái, chấp nhận giao nhiệm vụ khó khăn và thanh cao cho người quyết tâm dẫn dắt trí tuệ và tâm hồn cho con em họ. Thỉnh thoảng họ mời Tôi đến nhà dự đám giỗ để tìm hiểu và làm quen. Dần dà, vài phụ huynh còn muốn tiến xa hơn về đời tư của Tôi như muốn gián tiếp hoặc trực tiếp gá kết Tôi với con, cháu họ.

Nhưng, Tôi đã xác định lập trường của mình: nơi đây là để dạy học. Môi trường này đối với Tôi là nghiêm trang như ở nhà chùa: Tu luyện! Tôi sẽ phải ra công tu dưỡng đạo đức và rèn luyện nghề nghiệp, không thể có ý tưởng và hành vi nào khác. Và Tôi đã vững vàng giữ vững lời nguyền: không lấy học trò  của mình làm vợ, dù điều này đôi khi làm cho Tôi ray rứt, tiếc rẻ ì không có gì trái đạo lý. Tôi đã không phạm giới cấm của mình để giữ nghiêm trong việc dạy học .

Tôi đã nói ở lớp: ”Vì Tôi lớn tuôi hơn các em, nên “đi trước” và làm thầy các em.  Nhưng Tôi thấy  một số các em, tuy còn nhỏ tuổi lại có tư cách, tác phong hơn Tôi, khi Tôi ngang tuổi các em, nên Tôi nể trọng tương lai các em;  tuy nhiên, không vì nghe nói thế mà các em được nhờn Tôi nhé!”

Tôi cũng thường nói: “Các em cần biết,dưới mắt Tôi chỉ có học trò, chứ không có con trai, con gái! Các em phải nghiêm chỉnh thực sự, nhất là các nữ sinh, không được dùng nước mắt để huyễn hoặc hòng khuynh loát Tôi!”  Tôi đã thể hiện công bằng tuyệt đối trong việc dạy học, gọi trả bài và cho điểm, kề cả quở phạt, la rầy hay tuyên dương, khen thưởng.

Những ngày mải mê phục vụ day học, Tôi đã để thời gian lặng lẽ trôi qua lúc nào không hay;  không hề nghĩ đến việc xin đổi về lại nơi xuất phát!

Có một lần, người bạn thân của Tôi – hồi còn đi học ở Nha trang, lúc ấy ra làm việc tại Tuy hòa– “phải lòng” một nữ sinh của Tôi đang hoc lớp Đệ Nhất (12), năn nỉ, nhờ Tôi (khi đó Tôi chưa lập gia đình) đến thưa với cha mẹ cô để xin cầu hôn…Sau nhiều lần căn vặn anh ta và đắn đo suy nghĩ, Tôi bình tâm đến nhà cô ấy để thực hiện công tác “ông mai”. Gia đình cô ấy người miền Bắc, bà mẹ già trông rất lịch lãm và khó tính; sau khi nghe Tôi nói, đã chậm rãi trả lời: “Tôi không biết bạn của Thầy là người thế nào, nhưng nếu ông ấy là bạn thân của Thầy, tôi sẵn lòng gả con Th. cho ông ấy”.  Nghe thế, Tôi thấy lòng nhẹ nhõm và tự hào như vừa được thưởng công sau bao năm tận tụy với nghề và giữ gìn đạo hạnh.

Trài nhiều năm sống ở các địa phương khác nhau, tiếp xúc và nghe luận bàn về nhân tình thế thái, Tôi thấy người dân Tuy Hòa, Phú Yên hiền hòa, không nhiễu sự, không thích xăm xoi, bới móc đời tư người khác, nặng tình nghĩa, trọng đạo lý và giữ thủy chung. Hoc trò Phú Yên chăm hoc, hoc giỏi, sẵn sàng giúp bạn và rất trọng thầy cô giáo. Quý ở chỗ đạo nghĩa thầy trò đất Phú Yên này rất sâu nặng và cao thượng. Đây cũng là xác nhận chân thành của các thầy cô vốn ở Huế, Quảng Trị, Đà Lạt, Nha Trang, Sài Gòn, Mỹ Tho, đã từng dạy hoc tại đây.  Họ luôn luôn ao ước trở về Tuy Hòa để thăm lại chốn xưa, trường cũ và hoc trò thân yêu…Họ bảo tình nghĩa thầy trò đất Phú yên này đáng làm gương cho cả nước!

Một số ít người lại tỏ ra hoài nghi dân Tuy Hòa- Phú Yên thiếu tinh thần dấn thân, đấu tranh, thích an phân, kém tranh luận, giữ mình, chỉ muốn “đi sau” để tránh phiền lụy và dễ thụ hưởng! Tôi đã bảo, đó là những bình phẩm khá thiên kiến và phiến diện: Thế nào là dấn thân và đấu tranh? Qua các cuộc kháng chiến giữ nước, dễ gì dân ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Nha Trang, Cần Thơ,… đã ra đi, cầm súng chống quân thù nhiều bằng nơi đây; đã hy sinh, chết chóc, thiệt hại, ruộng vườn bị phá hủy, nhà cửa tan nát, gia đình ly tan, cha mẹ, bà con bị tra tấn tù đày bằng dân Phú yên này? Thế mà khi đất nước hòa bình, họ có lên tiếng tranh công đâu! Vì đâu?  - Vì vồn bản chất nông dân, cuộc sống dung dị, cẩn trọng, họ kiệm lời, ít nói. Ở đây lại không có báo chí truyền phát ra cả nước như ở các thành phố lớn:  Họ chỉ biết nói với nhau và âm thầm phục hồi quê hương thôi. Họ tin vào luật nhân quả: mọi việc rồi ra sẽ được sáng tỏ! Với bản tính chất phác, họ quan niệm “thấy là hiểu”, không cần phải giải thich dài dòng, rắc rối!  Về phương diện hưởng thụ, có thể họ là những người chịu thiệt thòi nhất. Cái đó có thể là do bản chất cố hữu của họ: ít nói, không đòi hỏi và…thiếu báo chí. Họ chỉ quí trọng những gì do chính mồ hôi, nước mắt của mình làm ra, tức là “tự lực cánh sinh”, còn những gì từ ngoài mang lai, nếu có thì tốt, không thì thôi!

Cần nói rõ là trong thời kỳ “trường kỳ kháng chiến”, mặc dù trước tàn phá ác liệt của quân thù, dân Phú yên vẫn gắng sức, căng mình dưới bom đạn để bảo đảm lương thực cho miền Trung thiếu gạo này!

Mặc dù cuộc sống không dư dả, nhưng tâm hồn họ lúc nào cũng mở rộng, hào sản và trong sáng như dòng sông Đà Rằng bình thường mùa nắng: cạn trơ đáy, ai cũng nhìn rõ, ai cũng có thể lội qua được. Nhưng nếu cần, họ biết vùng lên đúng lúc như dòng sông Ba mùa lũ, khi kéo về mênh mang, tràn bờ, ngập đến dạ cầu Đà Rằng. Phong thủy của Phú Yên là thế; xem địa lý thiên nhiên để biết nhân văn dân cư địa phương là thế! Trong quá khứ, biết bao “quan” đến đây tung hoành, làm càn quấy như vào chỗ không người. Người dân lặng lẽ quan sát, theo dõi.  Và cuối cùng họ vùng lên: Đã có “quan nát” nào hạ cánh an toàn đâu! Chính họ đã vận dụng nhuần nhuyễn chỉ giáo của tiền nhân  “dĩ nhu nhược thắng can cường” (lấy yếu đuối thắng mạnh bạo). Đó là cứu cánh hài hòa và miên viễn độc đáo của dân vùng miền Trung này vây!

Từ  một người xa lạ đến nơi này, Tôi đã dần thấm nhập tâm tư tình cảm của người dân nơi đây, của núi sông này lúc nào không hay.  Mỗi lần từ nơi xa đến Tuy hòa, Tôi đều tự nhũ rằng: “về Tuy hòa, về quê”. Chính nơi này, Tôi đã đem Anh, Chi, Em và Vợ Tôi từ Qui nhơn, Phan Thiết, Sài Gòn về. Ba Mẹ Tôi, người Quảng nam, đã đến Bình thuận lâp nghiệp, rồi cuối cùng cũng định cư ở đất Tuy Hòa này và an nghỉ vĩnh viễn tại nơi đây cùng với Chị Tôi và có thể cả Chúng Tôi sau này nữa…

Mỗi khi ở xa, về đến cầu  Đà rằng hay nhìn thấy núi Chóp Chài, lòng Tôi khoan khoái, nhẹ nhàng, hít thở không khí quen thuộc, thân thương, lòng bảo dạ rằng, Tôi đã về đến……

“Tuy Hòa, quê hương mến yêu…của Tôi!”

Dương Đình Đống
Khai bút đầu năm Canh Dần, 2010 
________________
 

 
 Nhớ: 

· Hai lớp Đệ Nhị A và B năm hoc 62-63
· Khối lớp 12 A, B và C năm học 74-75
Trường Trung học Nguyễn Huệ, Tuy hòa

Cách đây 43 năm,  từ Đại học Sư phạm Sài gòn, Tôi được bổ về dạy tại trường, Trung học Nguyễn Huệ, Tuy hòa.
  
Sáng hôm ấy,  trời thu mát lạnh dễ chịu,  trên đường Nguyễn Huệ đến trường,  Tôi bảo ông xích lô đạp chậm để Tôi thưởng thức cảnh vật,  nhất là hai hàng dương liễu xanh tươi, song song và thẳng tắp ở vệ đường sao mà đẹp quá,  lại có nhiều chim sẻ nhảy nhót vui nhộn trên mặt đường,  lòng Tôi lâng lâng hớn hở và tự hào khôn xiết!
Trước khi vào trường,  Tôi rảo mắt,  qua hàng rào dây thép gai,  nhìn ba dãy lớp trệt cũ,  hình chữ U, quét vôi màu hồng,  rồi ngước lên tấm bảng to tướng “TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HUỆ” đặt trên hai trụ cổng  cao ngất cũng màu hồng,  như muốn nuốt chửng “cô dâu mới” lạc lõng này.




Tôi nhè nhẹ đệm từng bước đi trên mô đất cao dẫn vào văn phòng trường,  rón rén cố tránh dẫm lên những bụi cỏ tươi mà Tôi có cảm tưởng như đang chào đón và khích lệ Tôi,  trong khi mắt không dám nhìn thẳng vào trụ cờ trước mặt,  như kính sợ sư trang nghiêm của ngôi trường,  “ngôi chùa mà từ nay Tôi quyết chí xuất gia tu hành, ” nhưng Tôi liếc rất nhanh và “ghi” rất rõ tất cả những chuyển động của các em đang chơi dưới sân ở hai bên lối vào trường.  Xa xa, trước các phòng phía tay phải có nhiều em nam nữ lớn hẳn so với phần còn lại.   Đang vui đùa,  các em này chợt dừng lại nhin về phía Tôi, rồi tụ năm, tụ bảy vừa chỉ chỏ, vừa nói gì với nhau. Tôi biết ngay đó là hai lớp Đệ Nhị A và B, những lớp lớn nhất của trường mà Tôi sẽ “gặp gỡ” sáng nay. Tim Tôi hồi hộp thêm. Lần này Tôi nhin thăng về các em ấy. Tôi chợt thấy một em cao nhất trong đám- mà  sau này Tôi biết là Phạm Phích- cười nói gì đó với các bạn rồi đưa tay phải để ngang trước ngực, vừa tỏ cho bạn vừa cho Tôi hiểu là ông thầy này lùn quá, chỉ cao tới ngực anh ta thôi! Các bạn cười òa…Trong phút chốc Tôi cảm thấy hoang mang, nhưng lòng tự tin trở lại với Tôi ngay. Tôi chợt nhớ lời thầy Tôi,  giáo sư Rheim,  ở ĐHSP Sài gòn vào dịp Tết Nguyên đán trước đó.  Thầy vừa cười vừa thân mât hỏi Tôi:
-Tai sao Anh chọn nghề dạy hoc này? Anh có lầm không, có ân hận không?
Tôi ngạc nhiên:
-Thưa Thầy, con không biết! Con thi đậu thì con học thôi ạ.
- Ở bên Pháp, nước tôi, chon sinh viên ĐHSP là rất khó: Sau khi đậu viết rồi,  thí sinh phải vào vấn đáp để giám khảo loại ra những người không thích hợp với nghề này. Anh: lùn,  ốm, đen thế này thì làm sao dominer (chế ngự ) hoc trò? Tôi xem Anh chỉ được có phát âm tốt và thiện chí thôi!
- Thưa Thầy, nước con không có lệ ấy; hơn nữa, trong dân gian có câu “quen sợ dạ, lạ sợ áo quần” Dĩ nhiên điều Thầy nói không sai, nhưng đó chỉ là cái nhìn ban đầu (première vue) thôi. Nhưng dạy học là một quá trình tiếp xúc lâu dài giữa Thầy và Trò, còn cần nhiều yếu tố khác như kiến thức, tinh thần làm việc, đạo đức nghề nghiệp và cách xử thế nữa, có lẽ chẳng đến nỗi nào!
-Vous avez raison! (Anh có lý!)
Tôi vững tin điều đó khi nói với ông thầy mà Tôi rất kính trọng và nhớ mãi …

Một lúc sau, Tôi vào lớp.  Cả lớp đứng dậy trang nghiêm chào thầy giáo mới, thầy Lý Hóa. Tôi tỏ ra không mặc cảm và thân thiện ngay từ đầu, niềm nở với các em và mời tất cả ngồi xuồng. Tôi đi qua lại trên bục cao trước bảng xanh để giáo đầu vài câu “lung khởi” vừa cố tìm em học sinh cao lớn đã “chào Tôi” ở ngoài sân, mặc dù em ấy cố né sau lưng bạn, nhưng cái đầu cao nghều của em thì không lẩn vào đâu được! Tôi nhẹ nhàng bước xuống lớp, đi giữa lối đi, nhìn tất cả các em, nam cũng như nữ, và cố tình chìa cho Phích một cái mỉm cười thân thiện, cởi mở, thông cảm và Tôi thoáng thấy em ấy tỏ ra một chút bối rối và ân hận!.


  


            Cả lớp im phăng phắc, chăm chú theo dõi và ghi chép những điều Tôi giảng và vẽ trên bảng. Thế là bước đầu,  hầu như Tôi chiếm được tình cảm của lớp. Tôi đã chuẩn bị bài giảng đầu tiên rất công phu. Sau gần hai giờ, trong lúc đang say sưa giảng, bỗng tiếng kẻng báo hiệu đã đến giờ nghỉ. Tôi sẽ ngừng giảng. Bỗng nghe, lúc đầu vài tiếng lốp bốp,  sau đó là tiếng vô tay vang rân của cả lớp… Thầy Trò chúng tôi chia sẻ nhau những cái nhìn tin tưởng và trìu mến. Rồi nhiều em dạn dĩ đến gần bàn thầy hỏi thăm Tôi đủ thứ chuyện, đầy lễ phép và kính trọng.

Lòng Tôi tràn  ngập niềm vui sướng, mắt mờ mờ, lảo đảo bước xuống bục giảng, đi về phía văn phòng và tự nhủ: “Đống ơi, chưa đủ đâu,  còn phải cố gắng nhiều, rất nhiều nữa và suốt đời!”…

Tôi đã yêu trường Nguyễn Huệ  như yêu nhà mình và yêu học sinh như yêu con em mình vậy. Niềm tin chỉ có giáo dục mới làm thăng hoa con người càng ngày càng vững vàng trong Tôi. Với tâm nguyện làm tất cà mọi điều trong khả năng của mình để giúp đỡ các em hoc sinh.Tôi vui mừng  vì Cha Mẹ,  Anh Chị  Em và Vợ Tôi đều là nhà giáo, một lòng vun đắp cho việc Học và Dạy.

Giữa năm 1975, sau ngày 30/4,  đất nước thống nhất,  tất cả Thầy Trò Nguyễn Huệ cùng nhau đi khai hoang, vỡ hóa ở An hòa, Tuy an; lớp Tôi hướng dẫn được bầu xuất sắc toàn trường. Nhớ lại những gương mặt hồn nhiên của các em lúc ấy,  đến giờ Tôi vẫn còn bồi hồi xúc đông…Ai ngờ đó là thời kỳ chấm dứt nghề giáo của Tôi cũng như của rất nhiều đồng nghiệp nam nữ khác… Trường Nguyễn Huệ lúc ấy có 104 giáo sư thì có đến 100 người không còn được gọi tập trung đi học “bồi dưỡng”vào dịp hè đó, để chuẩn bị cho năm hoc tới. Chỉ  có hai ông Nguyễn Phụng Lãnh và Cao Quang Đức (vừa ra trường đại hoc) là được gọi vì có cha tập kết,  còn hai ông nữa là Phan Xịa và Ngô Liên Phương, vì có “dây mơ rễ má” gì đó, thì sau đó cũng được dạy lại,  nhưng phải nhận nhiệm sở rất xa, ở đâu miệt Sơn hòa, Củng sơn…Cả gia đình Tôi 6 người đều không ai được đi dạy lai . Riêng Tôi,  vì xem chuyện dạy hoc là lý tưởng phục vụ và,  vì lúc ấy chưa hiểu rõ,  chưa “ngộ” bản chất của nền “giáo dục  xã hội chủ nghĩa”; vì vây, việc  không được đi dạy đã làm Tôi quá phẫn uất nên nhiều đêm liền,  nước mắt chảy ra dầm dề, ướt cả gối, sáng dậy mới hay!






Tháng 8/76 Tôi, Tôi bị CA đến nhà bắt đi tra khảo, “chụp mũ” phản động và bắt đi tù lao động rất cực nhọc và khắc nghiệt đến gần 5 tháng mới được cho về với lý do “vô tội!”.  Vừa đến nhà thì anh Lương của Tôi (cũng là giáo sư Nguyễn Huệ, từ Qui nhơn xin đổi về), vừa ra tù (vì trước đó là Trung úy trợ y)  sau 1 năm ở trại giam Ngân điền, thuộc vùng rừng núi hiểm trở, nước độc và có sốt rét ác tinh, thuôc huyện Đồng xuân, tỉnh Phú yên. Anh đau gan nặng do lao động quá sức, thiếu nghỉ ngơi, thiếu thức ăn và thiếu thuốc men, phải được đưa gấp vào bệnh viên Sùng Chính, Sài gòn (nay là BV Chấn thương,  chỉnh hình) và qua đời ngay trên giường mổ!

Suốt mấy mươi năm sau đó, Tôi làm rất nhiều nghề khác nhau: Thợ hồ, thợ mộc, thợ hớt tóc thợ may, thợ chụp ảnh dạo, thợ nấu nhôm để đúc nồi và đúc vành xe đạp, thợ uốn, hàn điện, làm vành xe đạp và  thợ điện lạnh,  kể cả hoc Hoa ngữ, nhưng đều thất bại vì tính Tôi không thể thích nghi với môi trường xã hội quá ư hỗn tạp, lừa đảo, nịnh hót, phản bội, bội tín  chỉ vì đồng tiền…Riêng các  nghề  như thợ may, thợ chụp ảnh, thợ điện lạnh, học Hoa ngữ, Tôi đã học rất bài bản ở trường lớp trước khi hành nghề, có môn Tôi đã hoc đến 6 tháng hay 1 năm, được cấp bằng hẳn hoi.  Cuối cùng, có người khuyên Tôi nên làm thợ “chà đồ nhôm” tức là “chôm đồ nhà” đem đi bán; nhưng Tôi lại không thể làm nghề này được, vì nhà Tôi đâu còn thứ gì giá trị để bán nũa!  Thế là Tôi đươc miễn cưỡng hưởng nhàn, ở nhà nấu ăn và dạy con,  sống bám vào thân cò của bà vợ hiền thục làm nhân viên ở BV Tâm thần!  Và Tôi hiểu rằng, Tôi chỉ thành công, tâm đắc và toại nguyện với nghề đi day hoc mà thôi.

Giờ này nhìn lại các em học sinh cũ, nhất là các em kế cận năm học 74-75; thấy các em đã trưởng thành, sẵn sàng dấn thân vào cuộc mưu sinh lập nghiệp và khá thành công trong các cơ quan chính quyền, trong trường học cũng như trong kinh doanh, kỹ nghệ; chẳng những thế mà tư duy và kiến thức của các em rất có nền tảng và nhân cách rất cao. Đó là điều đáng mừng, đáng tự hào.  Thành quả hôm nay phần nào có “dấu  ấn” của các Thầy Cô trường Nguyễn Huệ:
“Con hơn Cha, nhà có phước,
Trò hơn Thầy, nước phú cường.”

Riêng Tôi, Tôi vẫn luôn luôn nghĩ đến trường Nguyễn Huệ, mái trường đã gắn bó đời nhà giáo của Tôi, âm thầm làm tất cả mọi viêc theo khả năng của mình để động viên, giúp đỡ các em,  mong muốn các em thành công, thành đạt nhiều hơn nữa trong cuộc sống– nhưng phải luôn luôn giữ gìn nhân phẩm - .

Tuy Hòa, mùa lạnh năm 2005
Thầy Dương Đình Đống    


______________


KỲ THI  TÚ TÀI IBM  DUY NHẤT

                     (TẠI SÀI GÒN  NĂM 1974 )          

          Đó là một kỳ thi đặc biệt,  lạ lùng (có thể gọi là quái đản ) từ trước đến giờ,  theo sáng kiến của Ông Bộ Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh và các cố vấncủa ông ta cuối thời Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu . 
        
         Trước kỳ thi lối hơn 1 tháng,   một thông cáo từ Bộ Giáo Dục ở Sài gòn,   qua Nha Trung, về các trường, yêu cầu chọn gởi về Nha đề nghị các Giám khảo kỳ thi này phải là các Giáo sư có thành tích công bằng và liêm khiết !

            Trường Nguyễn Huệ Tuy hòa sau đó chọn duy nhất mình Tôi,  mà sau này,  trước khi lên đường đi làm nhiệm vụ Tôi mới được biết! Theo Sự vụ lệnh,  Tôi được cử làm Giám thị ở trường THPT Lương văn Can ở quận 8 và làm Giám khảo tại Nha Trung  học,  số 7 Nguyễn Bĩnh Khiêm,  quân ISài gòn.  Như một người lính,  phải lên đường làm nhiệm vụ khi thằng con thứ hai của Tôi mới sinh được mấy ngày,   và nhà Tôi quá yếu đuối và cô đơn.  Ra đi mà lòng  ray rứt,  bàng hoàng,   chẳng thấy vinh dự chút nào.  Lại nữa trường Tôi hiếm gì Giáo sư công bằng và liêm khiết.  Cử như thế chỉ gây thêm đố kỵ giữa các đồng nghiêp mà thôi!

            Sau mấy ngày làm Giám thi mệt đừ,  bọn Giám khảo chúng tôi khắp cả nước,  từ Quảng trị đến Cà mau được tập trung tại hội trường Nha Trung hoc,  gần Sở thú. 

            Buổi làm việc đầu tiên của tất cả Giám khảo là họp công tác tại hội trường lớn của Nha.  Nơi này rất thiếu các tiện nghi tối thiểu như đèn,  bàn ghế,  quạt máy,  micro,  loa…Tất cả các giám khảo lối vài trăm người đều phải ngồi trên các dãy ghế dài của học trò,  kê tạm bợ.  Phía  đầu dãy được kê vài cái bàn thôkhông có khăn trải,  3 cái ghế dựa đơn sơ và một micro !
         
            Theo mọi năm thì ban Chủ khảo chỉ có hai vị,  đó là ông Giám đốc Nha Trung học, Chánh chủ khảo và ông Giám đốc Nha khảo thíPhó chủ khảo.  Nhưng kỳ thi này,  đặc biệt lại có thêm môt người thứ ba: Ông này được ông Giám đốc NhaTrung học giới thiệu là Công cán Ủy viên của Bộ Giáo duc,  làm Chánh chủ khảo-ngồi giữa-còn hai bên là Giám đốc Nha Trung học và Giám đốc Nha Khảo thí (là thầy Nguyễn Kim Linh,  cựu giáo sư trường Gia long về môn Sinh vật) đều là Phó Chủ khảo!

            Ông Công cán Ủy viên này,  ở Pháp mới về,  nghe đâu là cháu của ông Bộ Trưởng Ngô Khắc Tình,  và hình như chưa là Nhà giáo.  Ông này rất trẻ so với hai “cụ”Giám đốc lùn,   nhò con,   loắc choắc,  có vẻ”ta đây”,  và hách xì xằng ! Sau đôi lời giới thiệu của ông Giám đốc Nha Trung học,  Ông Công cán Ủy viên liền xô ghế ra phía sau,  đứng dậy phát biểu: “:Thưa quí vị Giám Khảo,  vì đây là kỳ thi đặc biệt mới,  rất quan trọng,  xin quí vị lưu ý chấm cho thật đàng hoàng,  vì các vị Giám thị  trong kỳ thi vừa qua làm việc rất bê bối,   tất trách…” Ông ấy nói không dè dặt“muc hạ vô nhơn”(xem dưới mình không còn ai) một hồi,  rồi ông ta ngồi xuống

            Không khí hội trường bỗng chùng xuống.  Một không khí im lặng khó chịu vì hình như mọi người đều có cảm tưởng mình vùa bị mắng khéo!Riêng Tôirất nóng lòng.  .  !.  Chờ vài phút không thấy ai có phản ứng,   Tôi,   chẳng đặng đừng,  giơ tay xin nói.  Lúc bấy giờ Tôi ngồi ở hàng ghế cuối cùng,  trước mặt Tôihàng mấy trăm người,  phần nhiều là các đàn anh,   đàn chị,  lão luyện trong nghề.  Ông Giám đốc Nha Trung học bảo Tôi chờ đưa cái micro duy nhất ở bàn chủ tọa xuống,   nhưng Tôi bảo không cần vì Tôi có thể nói lớn,  nói khỏe đủ cho cả hội trường nghe!Mọi người có vẻ ngạc nhiên,   nhìn Tôi.  Có lẽ họ đều nghĩ anh chàng “vô danh tiểu tốt”này sắp phát biểu “tầm vơ”gì đây,   mất thì giờ!. 

            Tôi bình tĩnh,  dõng dạt nhấn mạnh từng lời:”Thưa ông Công cán Ủy viên Chánh  Chủ khảo,  thưa hai vị Phó Chủ khảo,  thưa các đồng nghiệp Giám khảo,  Chúng Tôi hiện là Giám khảo mà chỉ mấy hôm trước đây là Giám thị kỳ thi Tú Tài IBM toàn quốc.  Chúng Tôi phần lớn đã  làm việc quên mình cho kỳ thi này.  Dĩ nhiên kỳ thi đươc tổ chức rộng khắp cả nước với rất nhiều địa bàn phức tạp khác nhau,  rất khó đạt kết quả vẹn toàn như mong muốn của tất cả mọi người.  Thế nhưng ông Công cán Ủy viên đã bảo  tất cả Giám thi,   dĩ nhiên trong số ấy có Chúng Tôiđều beâ boái tất trách!.  Vơ đủa cả nắm như thế là sai; điều này nếu xãy ra thì chỉ một số ít trong đại  đa số Giám thị.  Vì thế,  Tôi đề nghị ông xin lỗi Chúng Tôi và rút lại lời nói hớ ấy.  Nếu ông không cho là mình nói sai,  không chịu rút lại lời nói ấy thì Tôi đề nghị tất cả quí vị Giám khảo ở đây rút về hết,   để cho ông Công cán Ủy viên một mình làm Giam khảo vì chỉ ông ấy là người duy nhất không be boi,   tất trách.  Nói đến đây,  Tôi ngừng lời. 

           Bỗng cả hội trường vỗ tay ầm ầm như sấm dậy vì Tôi đã gãi đúng chỗ ngứa,  thỏa lòng tự ái chính đáng và danh dự của mọi người.  Cả hai ông Phó Chủ khảo cũng vỗ tay-không dè dặt- lại còn nhếch mép cười.  Hình như hai ông này gần lại đây,   khi cộng tác với ông Công cán đã thấy ông này tuổi còn trẻ“non jeu’ mà quá “láo” và chưa có cách phản ứng.  !

           Sau đó vài người cũng phát biểu gay gắt chê trách ông Công cán Ủy viên

           Một lúc,  sau ông Công cán Ủy viên nhẹ nhàng kéo ghế (lần nầy không xô ghế ào ào như lần trước ),  xin lỗi tất cả Giám khảo vì mình đã sai lầm,  xin rút lại lời nói hớ và  mong ước kỳ chấm bài lần này sẽ diễn ra tốt đẹp

          Tôi vô tình trở thành “cái đinh” ngoài ý muốn.  Nhiều người hỏi tên của Tôi và trường của Tôi.  Tôi chỉ trả lời đó là trường Nguyễn Huệ,   Tuy hòa,   còn tên Tôi không đáng nói,  cứ hỏi “gà điên” dạy Lý Hóa và Triết là biết ngay! Nhiều người sau này lại còn vui vè nhường chỗ ngồi cho Tôi trên xe buýt công vụ khi xe chở Giám khảo đi và về từ Nha 
 Khảo thí đến cơ quan D.  A.  O,   cơ quan của Mỹ ở Tân Sơn Nhứt,  nơi có các máy IBM to đùng như các tủ đứng 


                                                                *
          Buổi họp  được giải tán lúc gần 11 giờ trưa.  Mọi người tranh nhau ra về vì sẽ trở lại họp lúc 1giờ rưỡi chiều.  Trong khi Tôi đang lầm lũi bước ra gần tới cổng Nha thì một người sau gốc cây to bên trong cổng xìa ra chận Tôi lại:Té ra ông ta đã “phục kích “ Tôi từ rất lâu  trước đó.  Trước sự ngỡ ngàng của Tôi,  ông ta nói ngay: “Chào thầy Đống,  tôi tên là Phong,  nhà ở gần chợ Tuy hòa và làm nghề thu thuế chợ.  Tôi  biết thầy chấm thi Tú Tài ở đây.  .  .  ”Nghe thế Tôi biết ngay ý định của ông ta….  Ông ta mời Tôi ghé ngoài cổng uống nước để tiện nói chuyện .  Nhưng Tôi từ chối:”Cảm ơn ông,  bây giờ đã hơn 11 giờ rồi và đến 1 giò rưỡi Tôi phải làm viêc trở lai,   không thể đi uống nước được.  Ông cần gì cứ nói mau vì Tôi phải về nhà gấp!” Tôi vừa đi vừa nói và ông ta phải vừa kẹp nách cái tép dầy cộm vừa lê giép chạy theo…Ông ta bảo năm ngoái ông ta có một thằng con thi Tú tài,  đã mất ba trăm ngàn đồng mà vẫn rớt;năm nay ông ta lại có thêm thằng nữa đi thi Nếu rớtchúng no sẽ phải bi gọi vào trường Hạ sĩ quan Ñoàng ñeáNha trang rồi sau đó phải ra tác chiến thì chẳng những chúng nó bị khổ thân mà gia đình ông ấy cũng sẽ điêu đứng.  Ông ấy giành nói luôn -như để nhữ Tôi -Năm nay giá cả đắc đỏ,  hơn nữa ở đây Thầy lại có lắm bạn bè,  tôi xin gởi thầy số tiền bằng hai lần năm ngoái để thầy mời các thầy khác đi ăn và bồi dưỡng thêm để giúp giùm hai cháu kẽo tội nghiệp.  Tôi vội ngắt lời ông :”Các cháu thi cử thế nào,  có bỏ bài thi không ?”Ông ấy đáp”Theo chúng nó kể lại thì chúng nó làm bài khá,  không bỏ bài nào !”.  Tôi bảo”Thế thì chúng nó sẽ đậu cả,  ông đừng lo!”Khi ấy chúng tôi đã đi bộ tới gần cổng Sở thú và Tôi dừng lại chờ đón taxi.  Thấy ông ấy không yên tâm.   Tôi.  bảo :”Trước đây nhiều người dư đoán kết quả thi kỳ này lối 75 % ;gần lại đây,  vì bị báo chí công kích tơi bời nên Tôi nghe “ở trên Bộ” ngầm ra lệnh cho đậu đến hơn 85 %,  vì thế nếu các con của ông không bỏ bài thi Tôi chắc chắn chúng nó sẽ đậu cả,   đừng mất tiền vô ích.  Với Tôisố tiền ông định đưa ra là quá lớn.  ,  nghề giáo của Tôi có mơ cũng không thấy.  Nhiều người cứ nhắm mắt “ hốt’ càng,  nhưng Tôi không bao giờ làm như vậy!Nhưng ông phải hứa với Tôi rằng khi chúng nó đậu,  ông phải chi 50 ngàn đồng,  được không ? Ông ấy vôi đỡ lời “Nhiều nữa còn được,  huống chi chừng ấy.  Tôi có thể đưa  cho Thầy 100 ngàn ngay bây giờ !Tôi phì cười:”Không phải đưa cho Tôi mà đưa cho các con của ông kìa Khi chúng nó đậu,   ông phải đưa cho chúng nó,  chỉ 50 ngàn thôi,  không cần nhiều hơn để chúng nó mua vé máy bay vào Sài gòn dọ xem và tìm trường thi vào đại học,  phần tiền còn lại cho chúng nó chi tiêu trong những ngày ở đấy”.  Tôi nói thêm”Tôi biết nhiều phụ huynh chịu mất số tiền lớn để làm các việc tào lao như hối lộ,  đút 1oùt này nọ,  còn những việc thiết thực thì tiếc rẽ với con từng đồng.  ” Tôi cũng nói”Ông đưa tên chúng nó đây;khi chúng nó đậu,   Tôi sẽ đánh điện về để cho cả nhà mừng,  Và Tôi nói cho ông biết Tôi chỉ đánh điện khi kết quả đã được niêm yết  tại Sài gòn.  Vì là người trong cuôc,  Tôi sẽ biết kết quả trước,  nhưng làm như thế Tôi không vi phạm luật thi và không ai có thể trách móc gì Tôi  được.  Các con của ông  vẫn sẽ là những thí sinh ở Tuy hòa biết kết quả sớm nhất đấy!”.  Ông ấy thấy Tôi không nhận tiền,  rất ức lòng vì không cám dỗ được Tôi và không thể làm gì hơn,   bèn rút trong tép ra miếng giấy đã ghi sẵn tên hai đứa là Nguyễn Ñöùc và Nguyễn Nhöït,  sinh ngày……….  số ký danh…….  .  Vẫn chưa bỏ thói  xấu của dân “quen chạy mánh”,  ông ta cố tình cho Tôi thấy những xấp tiền lớn,  mới (hình như vừa rút ra ở ngân hàng ra ) và nói:”Thầy cho tôi gởi ít tiền để đánh điện tín “.  Tôi nói ;”Bạc triệu của ông mà Tôi còn không thèm huống gì chừng ấy.  Công đi xem kết quả và tiền đánh điện tínxem như Tôi dùng để mừng cho chúng nó”.  Nói đoạn,  Tôi nhìn đồng hồ thấy quá trưa,  Tôi chào ông ấy và lên taxi về nhà.  Ngoái lại.  Tôi thấy ông ấy còn đang tầng ngầng ngóng theo xe Tôi.  Chắc ông ấy suy nghĩ lung lắm: Tiếc rằng con cá Đống không thèm cắn mồi quá béo bở của me-xừ Phong thu thuế chợ Tuy hòahoặc mừng vì của “hoạnh tài’ chắc chiu bấy lâu nay do mánh mung vẫn còn nguyên venlại thêm hoang mang lo số phận hai đứa con sẽ ra sao;rồi sao…! (que sera,  sera!)

         Quả thực như lời Tôi phỏng đoán: Hai đứa nhỏ sau đó đều đâu Tú Tài IBM.  Riêng thằng lớn,  Nguyễn Ñöùc đậu hạng Bình thứ.  Tôi đã đánh điện báo tin cho ông Phong biết.  Chắc ông ấy mừng lắm,  vừa không mất tiền,  và được hốt cả “hai mâm”

        Kỳ thi này kéo dài hơn cả tháng.  Tôi nóng lòng về nhà thăm vợ con-nhất là đứa con mới sinh,  Tôi đã khoán trắng mẹ nó yếu đuối…cho cha mẹ anh chi  em Tôi ở nhà.  Vì Tôi là người duy nhất của trường tham dư kỳ thi,  nênTôi phải ở lại chờ lãnh kết quả thi,  có chữ ký của Ban Chủ khảo chính thức gởi về trường Nguyễn Huệ Tuy hòa để thông báo cho tất cả học sinh công cũng như tư trong toàn tỉnh Phú yên.  Điều này làm cho Tôi thấy khổ sở  chứ không thấy hãnh diện về trách nhiệm.    

           Sáng hôm ấy Tôi ở Sài gòn đi máy bay DC3 về đến sân bay Đông tác Tuy hòa vào khoảng 10 giờ sáng .  Ngồi trên máy bay Tôi thấy hàng hàng lớp lớp học sinh đã có mặt trước nhà ga máy bay.  Khi thấy Tôi vừa ló mặt ở cửa máy bay,  chuẩn bị bước xuống đất thì các em đều hò reo inh ỏi!.  Rồi thì các em  cởi xe chạy theo ô tô của Air Việt Nam Tuy hòa,  hộ tống Tôi về trạm.  Sau dó Tôi về nhà.  .  Rất nhiêu hoc sinh đứng ngoài đường Lê Quí Đôn trước nhà Tôi.  Nhưng Tôi không thể trả lời kết quả riêng cho từng cá nhân mà bảo các em hãy qua trường Nguyễn Huê đợi xem….  Tôi mi vợ và con mới hơn tháng quầy quả qua trường Nguyễn Huệ giao các kết quả thi cho anh Quế,  Hiệu trưởng rồi mới quay về nhà . 

           Ngay khi về nhà,  cháu gái của Tôi bảo có một ông vừa đi xe vespa đến,   đưa một hộp cứng bao giấy,   trên có một chai cũng bao giấy,  bảokính biếu thầy Đống Qua mô tả hình dạng của nó,  Tôi biết đó là quà của ông Phong gởi.  .  ,  Tôi biết trong các lớp giấy gói ấy là hộp bánh và chai rượu,  không rõ có bao thư tiền hay không.  .  .  .  Tôi bảo cháu :”Ai cho phép mày nhận quà.  Mày hãy đem các thứ ấy trả ngay cho ông ấy và bảo,  nếu.   ông không nhân,  Thầy con sẽ không cho con vào nhà”

           Đến cuối năm 1976,  khi ở tù về Tôi được nghe ông Phong đánh tiếng rằng:”Nêu ai tố cáo thầy Đống có hối lộ,  thì ông ấy sẽ làm chứng là thầy Đống trong sạch”Tôi cười mỉa,  bảo,  ”Tôi có ăn hối lộ đâu mà tố”.  Té ra ông ấy đã từng”nằm vũng”!

                                                                 *
  Cho đến năm 1974,  từ IBM đối với người Việt ta còn quá xa lạ,  kể cả giới học đường.

Nói đi thi Tú Tài IBM mà hầu như nhiều thầy trò chưa thể mường tượng ra !Trước đó vài năm các thầy cô “tiến bộ’đã cho học sinh làm “trắc nghiệm’-mà các em quen gọi là “a,  b,  c khoanh”,  nghĩa là các thầy cô-nhất là các bộ môn như vănsử,  địa,  triết (thuôc nhóm văn chương và xã hội) có dùng lối trắc nghiệm này ra đề cho học sinh ở lớp cho “dễ chấm,  chấm mau”.  Với lối này,  mỗi câu hỏi có 3 hoăc 4 câu đáp mà học sinh sẽ phải chọn câu đúng nhất khoanh lại (hay đánh chéo).  Còn các câu hỏi có tính cách tự luân như Toán,  lý,  Hóa,  Sinh vật rất ít khi dùng vì hơi khó ra đề (Khó và mất nhiều công sức chứ không phải không thể !).  Trong trường Nguyễn Huệ nhiều thầy Toán,  Lý,  Hóa đă ra các đề thi trắc nghiệm cho học sinh.  Ví dụ,  đề Toán có 3 hoăc 4 đáp án khác nhau ứng với a,  b,  c hay a,  b,  c,  d ;thí sinh phải tự giải và chọn câu chính xác nhất.  Điều này buộc thí sinh phải biết cách giải bài  chẳng những thế,  còn phải giải cho thật đúng trước khi đánh dấu vào các ô chữ,  chứ không thể nhắm mắt đánh cầu may như trong các đề văn chương hoăc xã hội được. 

               Có lẽ Bộ Giáo Dục muốn giới trí thức,  nhất là học sinh,  sinh viên mình mau mau bắt kịp thế giới văn minh bên ngoài nên cho áp dụng ngay từ năm 1974 lệ thi Tú Tài IBM,  thi cho tất cả 8 môn hoc;Văn,  Sử,  Địa,  Triết,  Toán,  Lý,  Hóa và Sinh vật . 

               Theo qui định,  các thí sinh phải dùng bút chì 2B,  loại bút chì có nét mềm và tương đối đậm màu để đánh dấu tréo (x ) vào các ô tròn phía dưới các chữ a,  b,  c,  d (hay A,  B,  C,  D)`.  Hoc sinh không được dùng các loại bút bi,  bút mưc hay các loại bút chì 1B,  3B vì như thế.  máy không thể chấm được và chỉ có thể chấm tay,  bằng mắt thường thôi (chỗ này con người hơn máy móc!).  Vì thế,  cần các Giám khảo (người) chấm bài.  Mặt khác trên mỗi tờ giấy thi mỗi môn của thí sinh (tờ A4) có ghi rõ tên,  ho.  ,  ngày tháng,  năm sinh của thí sinh cùng địa chỉ và không thể cắt phách được.  Các Giám khảo có thể nhìn vào đó mà biết rõ bài thi của ai,  ở đâu:Vì thế đòi hỏi Giam khảo hết sức liêm chính!


            Giám khảo Chúng Tôi được  chia làm 3 tốp,  mỗi tốp lại chia riêng làm 8 bộ môn:Văn,  Triết,  Sử,  Đia,  Toán,  Lý,  Hóa và Sinh vật,  Khi chấm bài  thì bộ môn nào ngồi tách biệt theo bộ môn đó.  Bộ Giáo Dục không có máy IBM.  Máy phải thuê của Mỹ,  cơ sở đóng ở Tân Sơn Nhất,   rất rộng lớn,  có tường rất cao,  nằm bên kia đường Trường sơn (tên đường
mới bây giờ),  đối diện với phi trường Tân Sơn Nhất.  Mỗi tốp như vậy làm việc mỗi ngày lối 5 giờ::Từ 6 đến 11 giờ;12 đến 17 giờ,  và 18 đến 23giờ.  Ăn uống tự túc .  Các tốp phải có mặt ở số 7 Nguyễn Bĩnh Khiêm 1 giờ trước khi vào ca của mình.  Các tốp được sắp xếp luân phiên các ca cho công bằng và đỡ chán Đến giờ địnhcác chiếc xe hải âu màu vàng của Mỹ,  do chính các tài xế nguời Mỹ lái,   chạy không ngừng từ đó vào thẳng căn cứ D.  A.  O Người.  Mỹ rất kỷ luật,  đúng giờ,  nhất là tuyệt đối giữ im lặng và bí mật:Suốt cả tháng làm việc,  từ các tài xế đến các nhân viên trong căn cứ,   không hề nói chuyện với bất cứ ai trong ChungTôi.  Chúng Tôi được thông báo mang theo áo ấm và ai ngồi đâu phải ngồi chỗ đó suốt buổi làm việc,  không được chạy lộn xộn,  không được nói chuyện ồn ào. 

         .  Muốn vào phòng máy phải đi qua 3 dãy nhà,  đúng hơn là 3 luồng nhà nối tiếp nhau;mỗi luồng có độ lạnh khác nhau,  lạnh dần từ ngoài vào trong .  Nhà trong cùng nơi đặt máy là nơi lạnh nhất.  Ngày đầu,  Giám khảo nào tự thấy mình khỏe,  không đem theo áo ấmkhi gặp phải cái lạnh khủng khiếp nơi phòng để máy phải run lập cập,  thất kinh!Nhà đăt máy  to bằng nửa sân vân độngđặt hàng vài trăm cái máy IBM to và cao bằng những tủ đứng lớn quay lưng vào nhau.  (Bây giờ tiến bô hơn rất nhiều,  các loai máy ấy rất nhẹ,  có thể xách tay!).  Chỉ những người Mỹ lo việc chạy máychấm bài nhưng trong lúc Chúng Tôi làm việc thì không thấy bóng dáng người Mỹ nào cả mà chỉ thấy nhiều chồng bài đã xếp sẵn chờ đợi Chúng Tôi:Đó là những bài bị máy thải ra,  phải chấm lại bằng tay .  Còn những bài được máy chấm thì để đâu không biết và cũng không được hỏi!

               Như những pho tương ngồi chấm bài suốt 4,  5 giờ,  không được đi vệ sinh,   Chúng Tôi thật kiệt sức sau mỗi buối chấm! Và cứ thế,  ngày nào cũng như ngày nào.  Điều may mắn là thỉnh thoảng máy bị trở ngại.  Mà mỗi lần như vậy phải nghỉ việc một vài  ngày để chờ thợkhi thì ở Phi luật Tân,   khi thì ở Nhật qua sửa.  Trong những trường hợp đó Chung Tôi phải tập trung ở Nha Trung học chờ,   trông như những người thất nghiệp,  thiếu gạo nấu,  thảm ơi là thảm !

              Một Ban khác,  gồm các Hiệu Trưởng và Giám học làm việc bí mật tại Nha Khảo thí,  lo việc vào điểm,  cộng điểm và hoàn tất kết quả

              Theo chỗ Tôi được biết,   số lượng bài do máy thải ra  để chấm tay là hơn 60% !
:Kết quả kỳ thi này,   thí sinh đậunghe dâu đến hơn 85%:Coi như bất cứ thí sinh nào không bỏ thi đều đâu tuốt .  Rõ ràng kỳ thi bi phá sản !!

                Những  người có thẩm quyền ở Bộ Giáo tuyên bố sẽ không tổ chức thi Tú Tài IBM nữa,   nghĩa là “bỏ của chạy lấy người’,  hay là “đánh trống bỏ dùi”!

                Nhưng Tôi lại nghĩ khác.  Cuộc thi IBM đó đã đươc tổ chức nóng vôi.  Nhiều người trong Ban Tổ chức đã tưởng “dễ ăn”hấp tấp,  không nghiên cứu tỉ mỉ từ khâu tổ chức thi đến khâu chấm bài.  Đã vậy,  bản thân Bộ Giáo Duc lại không có máy chấm,  không hiểu cơ chế máy chấm và cách chấm,  không có người được tham gia vào điều hành máy chấm thí làm sao khỏi bị “phá sản”!

               Ngày nay ở các nước tiên tiến người ta đều cho các thí sinh thi trắc nghiệm cả.  Phải chặng vì nóng vội và muốn tỏ ta nhanh,   giỏi hơn người mà “đi trước hóa đi sau”?!

                                                                       Tháng 7 năm 2013

                                                                       Thầy Dương Đình Đống
Nguồn: Chimvenuinhan

Tìm kiếm Blog này