Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Bà đỡ kẻ vô thần.

Đại úi guè chơi 1 qủa lựu đạn, bắn 1 trái M 79: không ai chết, cao số, ai may trong câu chuyện dưới đây, một kỷ niêm tôi không bao giờ quên, không phải vì độ ác liệt mà là ly kỳ trong đời lính của  mình.
-------- 

     Câu chuyện đã xảy ra ở xã Siembok, nơi địa bàn xã do Đội công tác của chúng tôi đảm trách. Vào mùa khô năm 1980, tại ranh giới  tỉnh Stungtreng với tỉnh Kroche (Campuchia), giữa dòng Mê Kông mênh mông, đang cạn nước, nhiều chỗ lội đi được. Dân làng chèo thuyền đi buôn trao đổi tận thủ đô Pnom Penh, khi chở hàng hoá ngang qua vùng giáp ranh giữa 2 tỉnh, khu vực đó xa dân đến chục ki lô mét, hoang vu, có thác nước và vô số đảo lớn nhỏ không người.

     Tôi, bấy giờ cấp Thượng sĩ, Đội trưởng là cố vấn xã, rất máu đánh địch.  
Nghe họ báo: phát hiện thấy khói trên một đảo nọ và có trồng hành sả. Trước đó, đơn vị chúng tôi thông qua chính quyền bạn đã phổ biến đến dân là cấm đánh bắt cá khu vực hẻo lánh này để dễ bề kiếm soát. 
Tôi đoán ngay là tụi Pol Pot chứ ai nữa vô đây.

Một ngày, hai lần chống lệnh Hà Bá.

Đại úi guè

Hà Bá đỡ mấy thằng tui khi sắp rơi vào miệng nước tử thần.

Mùa mưa năm 1979, Đại đội 4 chúng tôi đóng quân ở bản Tà Đẹt, ven sông Sê Kông. Đơn vị có một chiến sĩ liên lạc tên Trúc bị bênh sốt xuất huyết. Do Vũ y tá non nghề không biết được - đây là bênh có nguy cơ tử vong cao. Để lính nằm đơn vị một tuần, sau thấy nặng dần, đái ra máu, mới đề nghị Ban chỉ huy đưa đi bệnh viện. Tôi lúc ấy là trung đội phó, mới tập tành biết võ vẽ chèo thuyền nên xung phong một tay chèo, phụ trách viêc đưa bệnh nhân đi viện. Đi gồm có: Tôi, Y tá, Bệnh nhân và một chiến sĩ dân nghề biển giỏi. Chúng tôi mượn thuyền dân về, tổ chức chèo đi, Vũ y tá không biết bơi ngồi giữa, Bệnh nhân nằm trên sàn thuyền, Tôi đứng trước chèo mũi, Chiến sĩ đứng sau giỏi chèo lái.

Mùa nước lớn, nước đục nhầu phù sa, chảy cuồn cuộn. Thuyền chúng tôi xuôi dòng dọc bờ, đến quãng ngả ba sông hợp lưu của con sông Sê Kông có nguồn từ Lào và con sông Sre Pok từ Việt Nam sang. Chỗ nhập chung phía trên cách thị xã Stungtreng 4 km, rồi chảy vào sông cả Mê Kông. Qua ngả ba một chút, chúng tôi bẻ lái thuyền, cắt ngang sông để qua bờ phía bên kia là Thị xã Stungtreng, nới có bệnh viện 21 của Mặt trận 579. Tính là nước chảy mạnh, qua đoạn này thuyền trôi xéo dần về phía cuối là vừa…

"Trời ạ! mình có một anh bạn làm lớn vô cùng!"



Những lần tôi suýt chết

Ai cũng có lần suýt chết hụt. Trong đời mình không có "cái ngu nào giống cái ngu nào". Tôi là người vô thần nhưng qua những lần thoát chết, không khỏi nghĩ hai chữ số mệnh. Chợt nhớ câu nói đùa "giày dép còn có số" và ngẫm người ta nói không sai: "trong cái rủi có cái may". Nhờ vậy, tôi còn được viết những dòng này để kể lại đời mình với bạn và cho con gái.

Tổng kết lại từ nhỏ đến giờ, tôi còn nhớ theo ký lộn xộn, chi tiết và thời gian không chính xác.

Những lần xém chết do bom đạn chiến tranh:

1/ Lúc nhỏ 4, 5 tuổi. Thấy những đứa lớn nhặt đầu đạn (súng trường, tiểu liên, đại liên...), nấu lấy chì để làm cục chì cần câu cá (cho lười câu có mồi chìm dưới nước). Tôi nhặt đâu đó ở bờ rào hàng xóm, một quả đạn cối 61 ly thật to bị lép, gần bằng bắp tay người lớn, mừng quá, ôm chạy về nhà.
- Thấy má đang lui cui nấu canh trong bếp, tôi chạy vào, nói:
- Má ơi có cái này to lắm, má lùi (vùi trong bếp) lấy chì.
- Má tôi đưa vào... một lát, nghe bụp, tro bụi bay mù mịt.
Eo ơi! nó chỉ nổ cái kíp, chứ không cả mẹ lẫn con tôi đã banh xác.

Những sách tôi đã học và xem trước 1975...


Năm chừng 13 tuổi lớp Nhất, tôi đã đọc cuốn sách này, nó khêu gợi và có ảnh hưởng rất đến cuộc đời mình về sau. Tác giả Vũ Hạnh, có nhiều người phê phán, gì thì gì, tôi mãi biết ơn ông và thầy Trần Minh Trị đã giới thiệu cho lũ nhóc học trò chúng tôi.
Tuổi thơ, tôi đọc tuyện cổ tích, truyện tranh. Rồi lớn dần lên, lướt qua hàng ngàn cuốn sách, bất kể thể loại nào, mỗi khi có điều kiện...từ các nguồn thư viện, thuê, mua, ...

Một số bìa cuốn sách gợi mình nhớ đã học và xem trước 1975:

Bạn có bao giờ bị chập dây chưa?

- Chiện tôi thi đấu sốt rét đỉnh cao.
Sốt rét mà nằm bẹp dí một chỗ, rồi chống gậy đi thảm hại có gì mà khoe. Anh đây chập cheng quậy tưng bừng, vui như tết. Đời đẹp như mơ, thế mới sướng!.
Nói không ngoa, nếu ai đó khoe là lính chiến thì phải có 2 cái mộc mới tin, đó là Hắc lào và Sốt rét. Như lời bài hát: "Ai chưa qua chưa phải là đời" - Tôi đã nếm mùi và vinh hạnh được đóng đủ cả hai bằng chứng nhận, ngon hơn nữa là sốt rét đỉnh cao. Ai nhỏ con, đôi khi không khỏi tự ty mặc cảm nhưng hãy tự an ủi: máy nhỏ mới tiết kiệm năng lượng, chạy bền. Ở chiến trường K, tôi từng chứng kiến bao thằng to con luôn đổ ngã trước vì bệnh sốt rét. Ấy là chưa kể: nếu lỡ bị thương nhiều người cùng lúc thì thằng nhỏ con luôn được ưu tiên khiêng đi trước cho nhẹ!. hehe…
90% lính chiến trường K hoạt động ở vùng rừng núi nên đều bị sốt rét. Dù cấp trên có truyên truyền phòng chống nhiễm bệnh. Nhưng điều kiện sinh hoạt bất thường, tính lính lại ẩu tả nên bị là tất nhiên. Thuốc uống phòng và trị đâu đủ, bệnh nặng đưa đi bệnh xá mới được chính thuốc nặng đô
hơn thì đã muộn. Ai sức khoẻ yếu thì hầu như đầu mùa mưa nào cũng “đến hẹn lại lên”. Nó tái phát thành một chu kỳ. Tuỳ người, có thể sốt kéo dài, có khi hơn nữa tháng, ai có sức thì sốt dăm ba ngày đến một tuần là qua. Ban đầu thì sốt cao 40-41 độ, nằm li bì, mơ màng ác mộng. Đến chuyển qua tâm thần, nói sảng, có hành vi quái lạ, rồi bất tỉnh, gọi là sốt ác tính. Vã mồ hôi, hết nóng thì chuyển qua lạnh thấu xương, run lập cập, đắp 2 cái chăn vẫn còn lạnh. Răng lung lay cả hàm, miệng đắng ngét, húp cháo cầm hơi. Qua cơn phải tựa vách tường hoặc chống gậy đi đứng liu xiu. Vi trùng sốt rét tàn phá hồng cầu để lại nước da xanh mướt, môi thâm sì. Nó tấn công hệ thần kinh làm nghị lực con người bị bẻ gãy, bệnh nhân phát cuồng, lơ láo, đờ dại…
Tôi chính thức bị sốt rét nặng ba lần nhưng hai lần đầu đều không biết mình bị sốt rét. Gọi là chính thức là vì những lần khác vi trùng gặp phải sức đề kháng của thân thể, bất phân thắng bại. Nên sốt rét nó không vật mình ngã hẳn, dở dở ương ương thôi thì làm sao biết được!.

Quân ta đánh quân mình - một vụ có một không hai.

Đại úi guè
Đến nay đã 33 năm qua, tôi không quên tên họ một người xa lạ, dù rằng chỉ gặp một lần.

    Cuối năm 1980, Đội công tác của chúng tôi đang làm nhiệm vụ giúp bạn ở xã Siembok, tỉnh Stungtreng.
Một địa bàn rộng toàn là rừng khộp, một mặt ven sông Mê Kông, nằm trên hành lang di chuyển của sư đoàn 801 Pol Pot.

     Địch ngoài rừng có vài lần về bám dân để kiếm ăn và khống chế chính quyền xã.
Đội công tác chúng tôi 10 người do tôi làm Đội trưởng (lúc ấy tôi cấp thượng sĩ) đồng thời là cố vấn xã. Chúng tôi đã chạm địch vài lần trong tình huống ngẫu nhiên, nổ súng cà dựt cà chọt, diệt chỉ được 1 tên, bắn bị thương vài tên.
Tìm lùng sục chúng liên tục nhưng chẳng ăn thua, tôi rất cú!

   Một buổi sáng nọ,
Đội đang đóng quân ở nhà sàn công cộng. phum (bản, làng) cũng tên Siembok.
Chúng tôi vừa mới ăn xong thì nghe từ hướng phum Ô loong cách chỗ chúng tôi khoảng 4 km (là một bản bị địch đánh, dân sợ bỏ hoang, chuyển ra đảo ở), chợt nghe: "Bừm. bum. bum" - 1 tiếng nổ lớn, kế 2 tiếng nổ nhỏ hơn, tiếp là tiếng súng liên thanh.
Mọi người nhảy cẩng lên, vỗ tay hoan hô mừng phe ta hốt đẹp phe địch!.
     Số là trước đó mấy ngày tôi được nghe Đoàn 5503 thông báo có một phân đội trinh sát xuống, đang hoạt động ở địa bàn xã. Sáng lên, nghe ùng oàng, nghĩ đội bạn mới xuống địa bàn mà trúng mánh to, làm ăn khá, trong khi mình quần cả năm mà nhẳng si nhê gì!.

     Tôi phân công 2 chiến sĩ giữ nhà, anh em còn lại lấy vũ khí đi gấp xuống nơi nổ súng kia để hôi của. Vì hồi đó, lũ chúng tôi không đói nhưng rách te xơ mướp, thiếu thốn đủ thứ. Hy vọng đến sớm để ăn ké, kiếm lựu đạn, đạn về đánh cá, săn thú cải thiện đời sống và kiếm đồ dùng cá nhân linh tinh của địch về xài.

Đội công tác chúng tôi vừa đi vừa chạy, ra khỏi phum một lát thì thấy thấp thoáng 2 người từ hướng phum Ô loong chạy tất tả ngược lại. Bỡ ngỡ không biết chuyện gì đã xảy ra. Giáp mặt mới biết đó là 2 dân quân phum, vẻ mặt xám đen, thất thần hoảng hốt.
Họ thở đốc nói: chết hết rồi, chết hết rồi!. Tôi quát: ai chết, ai bắn?. Họ: Pốt bắn bộ đội Việt Nam và dân làng chết sạch, còn 2 đứa tui sống sót chạy về đây.

Chuyện dẫn quân đi lạc suốt đêm trong rừng.

Ông bà xưa nói là do ma quanh dấu.
Vào mùa mưa gần cuối năm 1979, Đại đội 4, Tiểu đoàn 2, Đoàn 5503, chúng tôi đóng quân ở bản Tà Đẹt thuộc huyện, tỉnh Stungtreng. Nhiệm vụ của Đại đội là bảo vệ dân và truy quét tàn quân Pol Pot (Khmer đỏ) trên địa bàn được giao.
Trước đó, đã vài lần dân báo địch về phum (làng) X, cách chỗ đơn vị tầm 6 km.
Tôi lúc bấy giờ là Trung sĩ, phụ trách trung đội được giao tổ chức lính đi phục kích ở phum X.
Chiều hôm đó, chúng tôi đến khu rừng cánh làng tầm 1 cây số, dừng chân ém quân ở bên suối.
Ăn uống xong, trời gần xẩm tối, phân công 2 chiến sĩ ở lại,  8 người chúng tôi lên đường đi phục kích.
Khi đi, tôi chú ý quan sát địa hình, ghi nhớ để đêm mò về lại chỗ ém quân.
Qua một vạt ruộng, đi băng ngang một chòi trông lúa của dân, theo bờ ruộng đến đầu phum. Khảo sát qua địa hình, tôi chọn một địa điểm trên đường mòn chỗ khúc cua vào làng. Sau khi phân công thành 3 tổ nhỏ, giá mìn Claymore của Mỹ, bố trí hoả lực súng B 40 và trung liên RPĐ xong. Tất cả ngồi chờ canh con mồi đến để sập bẩy.
Đến tầm 10 giờ đêm thấy mây đen kéo vần vũ, sợ mưa nên tôi lệnh anh em thu quân, rút lui. Tất nhiên vào đường nào, ra đường ấy. Khi đến chòi trông lúa, trời đổ mưa lác đác càng tối hơn, từ đây tôi định hướng cắt xuyên qua rừng về chỗ trú ở suối. Ban đầu còn đi dè dặt sợ địch nghe, về sau mệt, nổi khùng đi ào ào , thí xác.

Liệt sĩ trở về và hành trình lưu lạc ly kỳ suốt 40 năm

(Dân trí) - Người liệt sĩ ấy đã được ghi danh trên bia tưởng niệm Tổ quốc ghi công và có mộ phần bên cạnh hàng trăm liệt sĩ khác suốt 40 năm nay. Khi chỉ còn 23 ngày nữa là đến cái giỗ thứ 40 của ông thì ông bất ngờ trở về…
Ông Được bên phần mộ của chính mình
Ông Được bên phần mộ của chính mình

Ký sự lính trinh sát chiến trường K

....
Mầy còn nhớ KàTum ?
những đêm mưa giăng trên cánh rừng gió nồng hương trảng cỏ
đồng đội mấy thằng giờ vẫn nằm trên đó
từ trận mở đầu chiến dịch Vạc-xa 

(*) 22 tháng 12 (1977)
....
Có một bài trường ca với những câu mở đầu như thế, mà gần 30 năm nay...viết mãi chưa xong. Một món nợ...!

KÀ TUM 18/12/1977
Sau một thời gian ngắn mừng (hụt) tưởng như hoà bình đã trở lại cho dân tộc sau bao nhiêu năm ngoại thuộc và huynh đệ tương tàn thì lại nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam.
Ngày đó tôi là một chú bộ đội 19 tuổi, sau thời gian đào kênh ở đồng Tam Tân - Lê Minh Xuân...xây dựng những công trình đầu tiên theo hình thức XHCN thì...được lịnh cùng đơn vị lên đường.

KàTum lúc đó khu vực sát biên giới cũng là vùng kinh tế mới. Dân KTM và dân bản địa hồi hương đang sống những ngày đầu rau củ thì lính K'Mer đỏ tràn sang....lúc đơn vị tụi tui đến thì làng xóm đã bị đốt cháy hoang tàn, đến những cái chén tụi nó cũng đập nát ! Đồn biên phòng (do công an vũ trang - quân hàm xanh đóng) đã bị đánh chiếm.

Tìm kiếm Blog này