songtra
♦ 04.11.2010
♦ Để lại bình luận
Những sinh hoạt cộng đồng của người Việt
1. Trường dạy tiếng Việt:
Như đã trình bày ở trên, những năm 1920, người V đổ xô sang CM tìm
việc và làm ăn. Lúc này, nơi nào có đông VK là trẻ em có thể chỉ học
tiếng V và tiếng P ở bậc tiểu học, lên trung học sẽ từ từ học thêm tiếng
K. Năm 1945, trong khi Pháp chưa kịp quay trở lại thì Hoàng gia CM ra
lệnh cấm dạy tiếng V ở trường công. Lập tức, vô số trường tư được mở ra
cho con em VK. Chính phủ liền đòi hỏi phải có giờ học tiếng K. Vậy là,
theo thời gian, giờ tiếng K càng tăng, tiếng V càng giảm dần cho đến khi
tiếng V chỉ còn dạy vài giờ một uần, giống như là một môn ngoại ngữ tại
trường tư Việt ngữ. Vã lại, giám đốc và chủ trường cũng thường bị các
quan chức CM hay kiếm chuyện. Cuối cùng, hệ thống trường tư hay việc dạy
tiếng V ở nhà trường bị thất bại hoàn toàn; tụ tập học tiếng V ở nhà
cũng không được quá 5 học sinh. Trong khi đó trường tư của người Tàu với
chương trình riêng đặc biệt của họ vẫn luôn được duy trì.
2. Sinh hoạt báo chí tiếng Việt:
Dưới thời bảo hộ, Việt kiều tha hồ xem sách báo từ Sài Gòn gởi sang.
Sau ngày độc lập, sách báo từ SG bị cấm. Nếu bị phát hiện có, ngay cả
một tờ giấy báo cũ rách đang gói đồ cũng có thể bị ngồi tù nếu không đưa
hối lộ. Báo chí tiếng Việt đua nhau phát hành, hết tờ này đến tờ khác.
Tuy nhiên, bài viết thường nịnh chính phủ Hoàng gia (bài viết nịnh cũng
như tấm bùa hộ mệnh) và chủ yếu là đánh đá giữa hai nhóm VK với nhau:
thân miền Nam hay thân miền Bắc. Chủ báo, chủ bút nhiều khi vào tù vì bị
VK khác truy tố bài viết có nội dung bất lợi cho Hoàng gia hay văn hoá
CM. Thời này có một ít VK xấu tính chuyên đi theo dỏi, ghi thành một cái
list VK bất đồng chính kiến rồi báo cáo với các quan chức người K để họ
tiêu diệt dùm người mình ghét. Dĩ nhiên, đây là những dịp tốt để quan
“làm nghèo” cho VK.
3. Sinh hoạt văn nghệ của Việt kiều:
Tim thông tin blog này:
Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016
Việt kiều ở Cambodia – phần IV ( nạn cáp duồn)
songtra
♦ 06.11.2010
♦ 4 phản hồi
Nạn cáp duồn
Năm 1930, Pháp cho mở trung tâm Phật giáo học tại PP. Từ nay, các sư sãi (tu theo phái tiểu thừa) tại CM, Lào và người K ở đồng bằng sông cửu Long (VN) không cần phải đi Bangkok để học các lớp học cấp cao. Một nhóm người thuộc lớp đầu tiên của trường này, trong đó có nhân vật chính trị (sau này) nổi tiếng: Sơn Ngọc Thành, đã xuất bản tờ báo “Nagara Vatta (Angkor Wat) vào năm 1936. Nội dung của tờ báo là đã kích Việt kiều. Nhìn vào #5 sau đây, thì các bạn sẽ thấy rằng đây là mầm móng của sự kích động bài xích người Việt lần đầu tiên tái xuất hiện sau gần 90 năm (từ 1844-45 đến 1936).
Danh sách những vụ cáp duồn được ghi chép trong lịch sử:
#1. Sử Miên ghi: năm 1730 một người Lào tị nạn, tự xưng là tiên tri đã xúi giục một nhóm người K cuồng tín hạ sát tất cả người Việt nào mà họ bắt gặp trong vùng Banam. Đây là vụ cáp duồn đầu tiên.
#2. Theo nhà văn Pháp Louis-Eugene Louvet, viết trong cuốn sách “Đức cha Adran”: ngày 13/11/1769, một toán cướp K và Tàu kéo nhau đánh phá ngôi nhà của GM Bá Đa Lộc ở hòn Đất, ngoài khơi Hà Tiên. Họ chỉ chém giết, hảm hiếp con chiên người Việt, vì kỳ thị chủng tộc.
#3. Vẫn trong quyển sách của ông Louvet, giữa năm 1778, một toán cướp K đánh phá nhà thờ Pinha-leu do Giám mục Bá Đa Lộc vừa xây xong ở vùng Hà Tiên và giết mọi người Việt mà chúng bắt gặp.
#4. Sử Miên ghi: Quốc vương Ang Non II ( 1775-79) rất ghét người Việt, đến nỗi có lần ngài nghĩ sẽ tàn sát tất cả người Việt trên đất CM.
#5. Sử Miên ghi: Dưới triều Ang Chan II (1796-1834), năm 1818, một số người Việt bị tàn sát ở tỉnh Baphnom và quân VN đang đóng ở CM đã đến nơi can thiệp.
#6. Suốt thời gian bảo hộ CM, VN sửa đổi cơ cấu hành chánh, vi phạm phong tục tập quán của người K đã khiến giới sư sãi và dân chúng phẫn uất nên họ vùng lên chống lại. Những năm từ 1841 đến khi quân VN rút khỏi CM (1845), nhiều cuộc tàn sát VK đã diễn ra ở khắp nơi tại Cao Miên và tại miền Tây VN.
#7. Chiến dịch cáp duồn 1945-46 đã được trình bày trong phần I. Sau vụ này chỉ có PP, Seam Reap và thành phố biển Sihanoukville là tương đối an toàn đối với người Việt trên toàn cỏi Cao Miên – dĩ nhiên là với điều kiện không xảy ra đụng chạm, tranh chấp với người K.
Năm 1930, Pháp cho mở trung tâm Phật giáo học tại PP. Từ nay, các sư sãi (tu theo phái tiểu thừa) tại CM, Lào và người K ở đồng bằng sông cửu Long (VN) không cần phải đi Bangkok để học các lớp học cấp cao. Một nhóm người thuộc lớp đầu tiên của trường này, trong đó có nhân vật chính trị (sau này) nổi tiếng: Sơn Ngọc Thành, đã xuất bản tờ báo “Nagara Vatta (Angkor Wat) vào năm 1936. Nội dung của tờ báo là đã kích Việt kiều. Nhìn vào #5 sau đây, thì các bạn sẽ thấy rằng đây là mầm móng của sự kích động bài xích người Việt lần đầu tiên tái xuất hiện sau gần 90 năm (từ 1844-45 đến 1936).
Danh sách những vụ cáp duồn được ghi chép trong lịch sử:
#1. Sử Miên ghi: năm 1730 một người Lào tị nạn, tự xưng là tiên tri đã xúi giục một nhóm người K cuồng tín hạ sát tất cả người Việt nào mà họ bắt gặp trong vùng Banam. Đây là vụ cáp duồn đầu tiên.
#2. Theo nhà văn Pháp Louis-Eugene Louvet, viết trong cuốn sách “Đức cha Adran”: ngày 13/11/1769, một toán cướp K và Tàu kéo nhau đánh phá ngôi nhà của GM Bá Đa Lộc ở hòn Đất, ngoài khơi Hà Tiên. Họ chỉ chém giết, hảm hiếp con chiên người Việt, vì kỳ thị chủng tộc.
#3. Vẫn trong quyển sách của ông Louvet, giữa năm 1778, một toán cướp K đánh phá nhà thờ Pinha-leu do Giám mục Bá Đa Lộc vừa xây xong ở vùng Hà Tiên và giết mọi người Việt mà chúng bắt gặp.
#4. Sử Miên ghi: Quốc vương Ang Non II ( 1775-79) rất ghét người Việt, đến nỗi có lần ngài nghĩ sẽ tàn sát tất cả người Việt trên đất CM.
#5. Sử Miên ghi: Dưới triều Ang Chan II (1796-1834), năm 1818, một số người Việt bị tàn sát ở tỉnh Baphnom và quân VN đang đóng ở CM đã đến nơi can thiệp.
#6. Suốt thời gian bảo hộ CM, VN sửa đổi cơ cấu hành chánh, vi phạm phong tục tập quán của người K đã khiến giới sư sãi và dân chúng phẫn uất nên họ vùng lên chống lại. Những năm từ 1841 đến khi quân VN rút khỏi CM (1845), nhiều cuộc tàn sát VK đã diễn ra ở khắp nơi tại Cao Miên và tại miền Tây VN.
#7. Chiến dịch cáp duồn 1945-46 đã được trình bày trong phần I. Sau vụ này chỉ có PP, Seam Reap và thành phố biển Sihanoukville là tương đối an toàn đối với người Việt trên toàn cỏi Cao Miên – dĩ nhiên là với điều kiện không xảy ra đụng chạm, tranh chấp với người K.
Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016
Một thời để nhớ...
(Thương mến tặng các bạn của tôi )
Lũ chúng mình chung lớp 12
Ba mươi năm, bây giờ gặp lại…
Mới đó mà đã 30 năm. Mới đó mà đã hơn hai phần ba cuộc đời. Mới đó… và mới đó… Những mái đầu bạc gặp nhau, bồi hồi với bao vui buồn kỷ niệm…
Tôi cũng vậy, ngổn ngang nhũng ký ức đan xen, muốn viết đôi dòng hoài niệm nhưng không biết nên bắt đầu từ đâu. Thôi đành… tản mạn vậy. Một thuở học trò, cùng chung mấy năm trời dưới mái trường phổ thông, làm sao có thể gói gọn trong vài trang giấy???
Những năm 77-80, Kon Tum chỉ có một trường cấp III với ba lớp10-12, mỗi lớp chỉ hơn ba mươi đứa. Tất cả chúng tôi đều biết nhau, biết từ những năm cấp II sau ngày giải phóng 30-04-1975. Hồi đó thật gian khổ. Chiến tranh khốc liệt vừa đi qua, kinh tế đất nước suy sụp, để lại bao khó khăn cho mỗi gia đình. Tôi còn nhớ năm 1975, KonTum có khá nhiều trường cấp II (Hoàng Đạo, Bồ đề, LaSan, Nông lâm súc, Lê Hữu Từ, Têrêxa ), chỉ riêng lớp 7 trường Têrêxa của tôi đã có 80 học sinh, vậy mà sau giải phóng gộp cả sang khối 8 trường Lý Tự Trọng– tức Hoàng Đạo cũ - chỉ còn 4 lớp, rồi sang cấp III còn lại 3 lớp. Biết bao số phận dở dang, bao hoài bão không thành…
Lũ chúng mình chung lớp 12
Ba mươi năm, bây giờ gặp lại…
Mới đó mà đã 30 năm. Mới đó mà đã hơn hai phần ba cuộc đời. Mới đó… và mới đó… Những mái đầu bạc gặp nhau, bồi hồi với bao vui buồn kỷ niệm…
Tôi cũng vậy, ngổn ngang nhũng ký ức đan xen, muốn viết đôi dòng hoài niệm nhưng không biết nên bắt đầu từ đâu. Thôi đành… tản mạn vậy. Một thuở học trò, cùng chung mấy năm trời dưới mái trường phổ thông, làm sao có thể gói gọn trong vài trang giấy???
Những năm 77-80, Kon Tum chỉ có một trường cấp III với ba lớp10-12, mỗi lớp chỉ hơn ba mươi đứa. Tất cả chúng tôi đều biết nhau, biết từ những năm cấp II sau ngày giải phóng 30-04-1975. Hồi đó thật gian khổ. Chiến tranh khốc liệt vừa đi qua, kinh tế đất nước suy sụp, để lại bao khó khăn cho mỗi gia đình. Tôi còn nhớ năm 1975, KonTum có khá nhiều trường cấp II (Hoàng Đạo, Bồ đề, LaSan, Nông lâm súc, Lê Hữu Từ, Têrêxa ), chỉ riêng lớp 7 trường Têrêxa của tôi đã có 80 học sinh, vậy mà sau giải phóng gộp cả sang khối 8 trường Lý Tự Trọng– tức Hoàng Đạo cũ - chỉ còn 4 lớp, rồi sang cấp III còn lại 3 lớp. Biết bao số phận dở dang, bao hoài bão không thành…
Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016
Những tình tiết mới quanh bức ảnh 'Hai người lính'
TP - Sự xuất hiện tình tiết và nhân vật
mới trong câu chuyện về bức ảnh “Hai người lính” có thể đem đến một xung
động đặc biệt trong những ngày tháng thanh bình này - hơn bốn chục năm
đất nước thống nhất, và ba chục năm sau đổi mới.
Ðó là khoảng cuối tháng Ba năm 1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Tôi - Chu Chí Thành khi ấy 29 tuổi, được cơ quan - Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) cử vào Quảng Trị ghi lại hình ảnh trao trả tù binh giữa quân Giải phóng và quân đội Việt Nam cộng hòa.
Một hôm, tôi đến mặt trận Long Quang, Cửa Việt thuộc xã Triệu Trạch, tỉnh Quảng Trị để tìm hiểu khu vực giáp ranh- vừa có quân đội Sài Gòn vừa có bộ đội đóng quân. Tôi nhớ, giới tuyến hai phe được phân định bởi chiếc dây thừng. Bất ngờ, tôi nhìn thấy hai phía “địch ta” vẫy nhau, những người lính cộng hòa gạt dây thừng đi sang địa phận quân giải phóng, chuyện trò rôm rả.
Hai người lính. Ảnh: Chu Chí Thành.
Câu chuyện của phóng viên chiến trườngÐó là khoảng cuối tháng Ba năm 1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Tôi - Chu Chí Thành khi ấy 29 tuổi, được cơ quan - Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) cử vào Quảng Trị ghi lại hình ảnh trao trả tù binh giữa quân Giải phóng và quân đội Việt Nam cộng hòa.
Một hôm, tôi đến mặt trận Long Quang, Cửa Việt thuộc xã Triệu Trạch, tỉnh Quảng Trị để tìm hiểu khu vực giáp ranh- vừa có quân đội Sài Gòn vừa có bộ đội đóng quân. Tôi nhớ, giới tuyến hai phe được phân định bởi chiếc dây thừng. Bất ngờ, tôi nhìn thấy hai phía “địch ta” vẫy nhau, những người lính cộng hòa gạt dây thừng đi sang địa phận quân giải phóng, chuyện trò rôm rả.
Thứ Năm, 8 tháng 9, 2016
Địa danh Nam Bộ theo chữ Khmer
Ompéach Vêng / អំពាចវែង (Gò Quao) - rảnh nước dàiÂndong Tœ̆k / អណ្ដូងទឹក (Long Phú) a2 VN
Ângkŭli / អង្គុលី (Bình Minh)
Barach / បារាជ (Long Xuyên)
Bathér / បាថេរ (Thoại Sơn) -
Bay Chhau / បាយឆៅ (Mỹ Xuyên) a2 VN
Bêk Thlang / បែកថ្លាង (Châu Phú)
Bôrây Chôlsa / បុរីជលសា (An Phú) - xứ biển
Chângvéa Trâpeăng / ចង្វាត្រពាំង (Biên Hòa)
Tuŏl Ta Moŭk / ទួលតាមោក (Thủ Dầu Một)Chroŭy Nhô / ជ្រោយញ (Vĩnh Châu) - mũi đất
Kâmpób Tê'ŏng / កំពប់តែអុង (Trà Ôn) a2 VN
Kâmpóng Koŭ / កំពង់គោ (Tân An) p0, 1 VN
Kâmpóng Koŭ, Khétt / ខេត្តកំពង់គោ (Long An) a1 VN
Kâmpóng Krâbei / កំពង់ក្របី (Bến Nghé) u01 VN
Kâmpóng Rœ̆ssei / កំពង់ឫស្សី (Bến Tre) p0, 1 VN
Kâmpóng Rôling / កំពង់រលីង (Vũng Liêm) a2 VN
Kâmpóng Spéan / កំពង់ស្ពាន (Cầu Kè) a2 VN
Kâmpóng Tê'ŏng / កំពង់តែអុង (Mang Thít)
Kânhchaông / កញ្ចោង (Tiểu Cần) a2 VN
Konlong / កន្លង់ (Càng Long) - ong bầu
Kaôh Kông / កោះគង (Gò Công) - cù lao cồng chiêng
Kaôh Tŭng / កោះទុង (Cù Lao Dung) - cù lao chim bồ nông
Kbal Krâpeu / ក្បាលក្រពើ (Hồng Dân)
Khleăng / ឃ្លាំង (Sóc Trăng)
Khsachâm / ខ្សាចំ (Kế Sách)
Krâbau / ក្របៅ (Tịnh Biên)
Krâmuŏn Sâ / ក្រមួនស (Rạch Giá)
Krâsăng / ក្រសាំង (Tân Hiệp)
Mésâ / មេ-ស (Mỹ Tho)
Moăt Chruk / មាត់ជ្រូក (Châu Đốc)
Moăt Sâmŭtr / មាត់សមុទ្រ (Duyên Hải)
Phnum Mdei / ភ្នំម្ដី (Hòn Đất) a2 VN
Phnum Mlu / ភ្នំម្លូ (Kiên Lương)
Phsar Dêk / ផ្សារដែក (Sa Đéc)
Pôl Léav / ពលលាវ (Bạc Liêu)
Prâchŭm Kaôh / ប្រជុំកោះ (Kiên Hải)
Preăh Trâpeăng, Khétt / ខេត្តព្រះត្រពាំង (Trà Vinh) a1 VN
Prêk Bei / ព្រែកបី (An Biên) a2 VN
Prêk Chrŏu / ព្រែកជ្រៅ (Vĩnh Lợi) a2 VN
Prêk Rœ̆ssei / ព្រែកឫស្សី (Cần Thơ)
Prey Nôkôr / ព្រៃនគរ (Hồ Chí Minh)
Prey Rumdéng / ព្រៃរំដេង (Giồng Riềng)
Tœ̆k Khmau / តឹកខ្មៅ (Cà Mau)
Trál, Kaôh / កោះត្រល់ (Phú Quốc) r1 VN
Trâlach, Kaôh / កោះត្រឡាច (Quần Đảo Côn Sơn)
Yaray / យ៉ារ៉ាយ (Giá Rai)
Nguồn: Viện ngôn ngữ Estonia
Ângkŭli / អង្គុលី (Bình Minh)
Barach / បារាជ (Long Xuyên)
Bathér / បាថេរ (Thoại Sơn) -
Bay Chhau / បាយឆៅ (Mỹ Xuyên) a2 VN
Bêk Thlang / បែកថ្លាង (Châu Phú)
Bôrây Chôlsa / បុរីជលសា (An Phú) - xứ biển
Chângvéa Trâpeăng / ចង្វាត្រពាំង (Biên Hòa)
Tuŏl Ta Moŭk / ទួលតាមោក (Thủ Dầu Một)Chroŭy Nhô / ជ្រោយញ (Vĩnh Châu) - mũi đất
Kâmpób Tê'ŏng / កំពប់តែអុង (Trà Ôn) a2 VN
Kâmpóng Koŭ / កំពង់គោ (Tân An) p0, 1 VN
Kâmpóng Koŭ, Khétt / ខេត្តកំពង់គោ (Long An) a1 VN
Kâmpóng Krâbei / កំពង់ក្របី (Bến Nghé) u01 VN
Kâmpóng Rœ̆ssei / កំពង់ឫស្សី (Bến Tre) p0, 1 VN
Kâmpóng Rôling / កំពង់រលីង (Vũng Liêm) a2 VN
Kâmpóng Spéan / កំពង់ស្ពាន (Cầu Kè) a2 VN
Kâmpóng Tê'ŏng / កំពង់តែអុង (Mang Thít)
Kânhchaông / កញ្ចោង (Tiểu Cần) a2 VN
Konlong / កន្លង់ (Càng Long) - ong bầu
Kaôh Kông / កោះគង (Gò Công) - cù lao cồng chiêng
Kaôh Tŭng / កោះទុង (Cù Lao Dung) - cù lao chim bồ nông
Kbal Krâpeu / ក្បាលក្រពើ (Hồng Dân)
Khleăng / ឃ្លាំង (Sóc Trăng)
Khsachâm / ខ្សាចំ (Kế Sách)
Krâbau / ក្របៅ (Tịnh Biên)
Krâmuŏn Sâ / ក្រមួនស (Rạch Giá)
Krâsăng / ក្រសាំង (Tân Hiệp)
Mésâ / មេ-ស (Mỹ Tho)
Moăt Chruk / មាត់ជ្រូក (Châu Đốc)
Moăt Sâmŭtr / មាត់សមុទ្រ (Duyên Hải)
Phnum Mdei / ភ្នំម្ដី (Hòn Đất) a2 VN
Phnum Mlu / ភ្នំម្លូ (Kiên Lương)
Phsar Dêk / ផ្សារដែក (Sa Đéc)
Pôl Léav / ពលលាវ (Bạc Liêu)
Prâchŭm Kaôh / ប្រជុំកោះ (Kiên Hải)
Preăh Trâpeăng, Khétt / ខេត្តព្រះត្រពាំង (Trà Vinh) a1 VN
Prêk Bei / ព្រែកបី (An Biên) a2 VN
Prêk Chrŏu / ព្រែកជ្រៅ (Vĩnh Lợi) a2 VN
Prêk Rœ̆ssei / ព្រែកឫស្សី (Cần Thơ)
Prey Nôkôr / ព្រៃនគរ (Hồ Chí Minh)
Prey Rumdéng / ព្រៃរំដេង (Giồng Riềng)
Tœ̆k Khmau / តឹកខ្មៅ (Cà Mau)
Trál, Kaôh / កោះត្រល់ (Phú Quốc) r1 VN
Trâlach, Kaôh / កោះត្រឡាច (Quần Đảo Côn Sơn)
Yaray / យ៉ារ៉ាយ (Giá Rai)
Nguồn: Viện ngôn ngữ Estonia
Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016
Bài "Trộm nhìn nhau" không ai qua được giọng ca Hoàng Oanh,
Già mà diễn còn duyên quá, em Cạo đây chết mê chết mệt chị!.
(người thứ hai là Thanh Tuyền).
(người thứ hai là Thanh Tuyền).
Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016
Cần phải đúc tượng vàng cho những ai đem Intrernet về Việt Nam
Những tiếng lao xao của comments
Nguyễn Quang Lập·25 Tháng 8 2016
Nguyễn Quang Lập
Cần phải đúc tượng vàng cho những ai đem Intrernet về Việt Nam. Đó là đề nghị rất nghiêm túc. Bởi vì không có Internet sẽ không có Việt Nam ngày hôm nay.
Nguyễn Quang Lập·25 Tháng 8 2016
Nguyễn Quang Lập
Cần phải đúc tượng vàng cho những ai đem Intrernet về Việt Nam. Đó là đề nghị rất nghiêm túc. Bởi vì không có Internet sẽ không có Việt Nam ngày hôm nay.
Ở đâu không biết chứ ở ta hầu hết những ai thực sự có công đều thuộc phe im lặng, tìm được họ thực chẳng dễ dàng gì. Wikipedia Tiếng Việt cho hay, giáo sư Rob Hurle là người đầu tiên đặt nền móng cho Internet tại Việt Nam. Dạy ở Đại học Quốc gia Austrailia (ANU), năm 1991 Rob Hurle có ý tưởng để cho các sinh viên Việt Nam mang cái moderm to bằng cục gạch về Việt Nam thử nghiệm. Sau đó Rob Hurle đã cùng tiến sĩ trần Bá Thái, Viên Công nghệ thông tin tại Hà Nội (IOIT), tiến hành thí nghiệm kết nối các máy tính ở Úc và Việt Nam thông qua đường dây điện thoại . Lần đầu tiên Việt Nam có email với cái đuôi .au của Úc. Tới năm 1994 chính Rob Hurle đã đổi cái đuôi tên miền .vn thay cho tên miền.au.
Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2016
Ông Đỗ Mười "đẻ ra" Lý Mỹ
Blog Bùi Văn Bồng
29-1-13
http://bvbong.blogspot.de/2013/01/ong-o-muoi-e-ra-ly-my.html
MINH DIỆN
Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn Ái Quốc II, Thủ Đức, như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ. Tôi là phóng viên báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng nằm trong số đó.
29-1-13
http://bvbong.blogspot.de/2013/01/ong-o-muoi-e-ra-ly-my.html
MINH DIỆN
Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn Ái Quốc II, Thủ Đức, như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ. Tôi là phóng viên báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng nằm trong số đó.
Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài
thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư
sản thương nghiệp, mật danh X-3, dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt”
Đỗ Mười và giờ G đã điểm! Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm
nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ
trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam.
Hôm đó, ông Đỗ Mười mặc chiếc quần Kaki màu cà
phê đậm, chiếc áo Sơ mi ngắn tay cùng màu, chân đi dép. Ông có khổ
người khệnh khạng, mặt chữ “nãi”, trán ngắn đầy nếp nhăn, miệng cá
trê, bờm tóc dựng trông rất dữ. Tôi đã được nghe nói nhiều về tính
bốc đồng, nóng nảy của ông Đỗ Mười, hôm đó được giáp mặt, quả đúng
vậy.
Đúng như mọi người dự đoán, chiến dịch X-5 đã
bắt đầu.
“Đánh tư sản” ở miền nam sau 1975
Tú Hoa
I. ĐÁNH TƯ SẢNĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam
Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)