CÂU CHUYỆN VỀ CHIẾC TRỰC THĂNG UH-1H PHẢN BỘI
Stt 1: Tài liệu tuyên truyền của quân Trung Quốc xâm lược
Trong cuộc chiến với quân Trung Quốc xâm lược bắt đầu từ ngày 17/02/1979, thì đến ngày 05/03/1979, quân xâm lược Trung Quốc bắt đầu việc rút khỏi biên giới phía Bắc nước Việt Nam ta.
Tuy nhiên, mười năm sau đó, cuộc chiến với quân Trung Quốc vẫn luôn tiếp diễn. Có một sự kiện trong cuộc chiến đấu đó, nay biên tập lại, để mọi người tham khảo.
Đó là câu chuyện một chiếc trực thăng UH-1H chạy sang đất Trung Quốc.
Có đúng là ý định của những người chạy trốn là sang đầu hàng Trung Quốc không???
Đến nay, câu chuyện đã được phần nào sáng tỏ, qua việc tìm hiểu các tài liệu, được đăng tải trên 2 stt của Tuan Bim tôi.
1/ Tóm tắt sự kiện.
Trong khi chiến sự vẫn rất căng thẳng trên toàn tuyến biên giới Việt – Trung, dịp Quốc khánh Trung Quốc 1/10/1981, Việt Nam bàng hoàng bởi vụ cướp máy bay trực thăng chiến đấu, được biên chế ngay tại Sở chỉ huy của quân chủng Không quân ở sân bay Bạch Mai, làm nhiệm vụ cấp cứu-trinh sát.
Chuyện là thế này:
Sáng sớm ngày 30/9/1981, lực lượng bảo vệ sân bay Bạch Mai không thấy chiếc máy bay trực thăng UH-1H số hiệu 576 và đã báo động mất máy bay.
Táo tợn hơn, sau khi cất cánh khỏi sân bay Bạch Mai, chiếc máy bay này còn đàng hoàng hạ cánh xuống phường Phúc Xá thuộc địa bàn quận Ba Đình đón thêm người rồi mới bay thẳng đi Trung Quốc, trước sự bất ngờ hoàn toàn của lưới lửa phòng không dày đặc thời chiến.
Tác giả chính của vụ cướp máy bay này là Thiếu úy Kiều Thanh Lục, ngoài ra còn có sự trợ giúp của một số sỹ quan, cán bộ quân chủng Không quân (cùng trốn theo sang Trung Quốc) trong đó đáng chú ý có một người là cựu sỹ quan không lực Việt Nam cộng hòa được thu dung phục vụ tạm thời trong quân chủng.
Dựa vào chi tiết này, phán đoán ban đầu là chiếc máy bay đã bay ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ (lúc đó Việt Nam vẫn coi Hoa Kỳ là kẻ thù nguy hiểm nhất). Ngay lập tức, toàn bộ các đồng chí diện “thu dung” bị đặt dưới chế độ giám sát đặc biệt, kể cả đồng chí từng lái máy bay ném bom dinh Độc Lập.
Chỉ sau khi Nhân Dân Nhật Báo đăng chi tiết về vụ cướp máy bay và Bắc Kinh tổ chức họp báo quốc tế rầm rộ với Kiều Thanh Lục, Dương Văn Lợi, Hoàng Xuân Đoàn và Lê Ngọc Sơn (phi hành đoàn) thì Việt Nam mới ngã ngửa ra rằng chiếc máy bay đang ở trong tay Trung Quốc. Sau thất bại quân sự năm 79, Trung Quốc cố thổi phồng vụ này lên, nâng tầm quan trọng ngang vụ “lão thành cách mạng Đảng Cộng sản VN” Hoàng Văn Hoan bỏ trốn, đặc biệt lại đúng dịp 32 năm Quốc khánh Trung Quốc (1/10/1981). Bắc Kinh gọi đây là máy bay đặc dụng biên chế riêng phục vụ Bộ Chính trị của “tập đoàn Lê Duẩn”. Những ngày sau, không những “lãnh tụ” Hoàng Văn Hoan mà ngay cả Triệu Tử Dương (Chủ tịch TQ) cũng đích thân tiếp 10 người đi trên máy bay. Thậm chí còn có tin, nếu Trung Quốc thành lập “chính phủ” Hoàng Văn Hoan lưu vong thì những người trên sẽ được Bắc Kinh cơ cấu vào các chức vụ quan trọng như bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh Không quân
2/ Tài liệu tuyên truyền của quân Trung Quốc xâm lược:
Chi tiết được tài liệu Trung Quốc đăng tải tuyên truyền, là trang báo ảnh mạng "Đồ Khố" - dưới tiêu đề tuyên truyền "Phi công đội bay Việt Nam bỏ trốn sang Trung Quốc vì bất mãn với LD/1981” đăng tải. Cụ thể như sau:
年越南飞行员驾机投奔中国:我对黎笋不满/
“1981 niên Việt Nam phi hành viên giá cơ đầu bôn Trung Quốc: Ngã đối Lê Duẩn bất mãn".
Ảnh 1: Hồi 8 giờ 51 phút (7 giờ 51 phút giờ Hà Nội) ngày 30/9/1981, một chiếc trực thăng quân sự UH-1H của Việt Nam đã đáp xuống một khoảnh ruộng tại huyện Đại Tân thuộc Khu tự trị Tráng tộc Quảng Tây, mang theo cơ trưởng là thiếu úy không quân Việt Nam Kiều Thanh Lục, chuẩn úy cơ giới hàng không Hoàng Xuân Đoàn, chuẩn úy cơ giới hàng không đã phục viên Lê Ngọc Sơn, kỹ sư hàng không Dương Văn Lợi cùng 10 người khác. Nhóm người này đã tự nguyện giao nộp vũ khí theo hướng dẫn của bộ đội biên phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và lực lượng dân quân, giải thích rằng do bất mãn với sự thống trị của tập đoàn LD mà phải bỏ trốn sang Trung Quốc để xin tị nạn chính trị. Nhóm 10 người này đã được chuyển tới Bắc Kinh ngay sau đó. Ngày 8/10, trang nhất Nhân dân nhật báo đã chạy tin vắn công khai sự kiện này ra khắp thế giới: "Phản đối sự thống trị đen tối của tập đoàn phản động LD, Kiều Thanh Lục cùng 10 người khác đã lên máy bay rời khỏi Việt Nam trốn sang Trung Quốc mưu cầu tự do, hạnh phúc và đã được giới chức hữu quan nước ta tiếp nhận".
1981年9月30日上午8时51分 (河内时间7时51分),一架越南军用UH-1H直升机降落在我国广西壮族自治区大新县一块农田里,机上走下来越南空军少尉飞行员乔清陆、越南空军准尉、空中机械师黄春团、退役准尉空中机械师黎玉山和建筑工程师杨文利等10人。他们向闻讯赶来的中国人民解放军边防部队和民兵主动交出了武器,并说明自己是因为不满黎笋集团的统治,才驾机投奔中国而来的,希望能够在中国政治避难。很快他们一行10人被送到北京。10月8日,人民日报头版发表简讯 "反对黎笋反动集团的黑暗统治 乔清陆等十人驾机逃离越南到我国 表明追求自由和幸福的来意后受到我有关方面的接待",向全世界公开了此一事件。
Ảnh 2: Theo nguồn tin nhanh khai thác từ Việt Nam, nhóm người trên bị cáo buộc phạm tội giết người ở Việt Nam nên tìm cách trốn qua Trung Quốc để tránh tội. Nhân dân nhật báo số ra ngày 16/10 đăng tin "Cơ quan hữu quan nước ta đã căn cứ vào pháp luật Trung Quốc hiện hành để cho Kiều Thanh Lục cùng 10 người đi kèm được phép cư trú trong nước". Chiều ngày 16/10, cả bốn người Kiều Thanh Lục, Hoàng Xuân Đoàn, Lê Ngọc Sơn và Dương Văn Lợi đã dự buổi chiêu đãi với các phóng viên nước ngoài để giải thích lý do bỏ trốn và nội tình trong nước tại Việt Nam, cũng như tình huống Việt Nam xâm chiếm CPC. Chiều ngày 20/10, lão thành ĐCSVN Hoàng Văn Hoan đã hội kiến với nhóm của Kiều Thanh Lục. Trong hình là ba phi hành viên Việt Nam đứng chụp hình trước máy bay.
越南国内迅速作出反映,指责上述人员在越南犯了杀人罪,为了逃避法律的制裁所以逃亡中国。10月16日人民日报刊发消息 "我有关部门根据中国法律规定 允许乔清陆等十人在我国居留"。10月16日下午,乔清陆、黄春团、黎玉山、杨文利4人在北京举行中外记者招待会,说明逃离越南的原因,并介绍了越南国内的形势,越南侵略柬埔寨等情况。10月20日下午,越南共产党元老黄文欢会见了乔清陆一行。图为三位越南飞行员在飞机前合影
Ảnh 3: Hà Nội là khu vực có hệ thống phòng không hoàn thiện nhất Việt Nam, với hệ thống trinh sát phòng không hoàn bị và tiên tiến nhất cả nước cấu thành từ thế trận trinh sát nhiều chiều toàn phương vị và mọi độ cao. Khu vực Đông Bắc Việt Nam được bố trí một hệ thống phòng không không quân rất nghiêm mật. Thế mà Kiều Thanh Lục xuất phát từ sân bay trực thăng Bạch Mai tại Hà Nội, rồi bay hơn 130 km trên không phận Việt Nam mà vẫn không bị bắn rơi, cuối cùng cũng tới được đất Trung Quốc. Phải nói đây là kỳ tích hàng đầu trong lịch sử các chuyến bay của thế giới.
河内是越南防空体系最为完善的地区,拥有全国最先进、最完备的防空探测系统,构成了全方位、全高度的立体探测网。越东北也是越南空军-防空军部署最严密的地区。但乔清陆等人驾驶直升机从河内的白梅机场起飞,在越南境内飞行了130公里,却未被越军击落,最后在中国境内成功着陆,堪称世界飞行史上的一个奇迹。
Ảnh 4: UH-1H 576 và phi hành đoàn tại Đại Tân (TQ) sáng sớm 30/9/1981
Ảnh 5: Ba mươi năm đã qua, chiếc máy bay trực thăng UH-1 từng được viên phi công Việt Nam khởi nghĩa dùng để trốn chạy sang Trung Quốc vào năm 1981 hiện đang nằm trong bảo tàng (Bảng tàng hàng không Trung Quốc tại Bắc Kinh).
30年过去了,博物馆(北京的中国航空博物馆)内停放着的1981年越南飞行员起义投奔中国时驾驶的UH-1直升飞机。
Nhưng thực sự câu chuyện, có như tài liệu của Trung Quốc đồn thổi hay không, xin tiếp tục theo dõi kỳ sau.
_______
Stt 2: Chuyện kể của người trong cuộc
Ông Dương Văn Lợi – chính là người tổ chức chuyến chạy trốn bằng trực thăng UH-1H kể rằng:
“…Mọi người dự tính chạy trốn sang Hồng Kông, nhưng run rủi thế nào, lại lạc sang đất Trung Quốc, chứ mọi người không hề có ý định đầu quân cho Tầu…”
Tuy lạc lối sang Tầu, nhưng sau đó, phần lớn mọi người đều tiếp tục chạy trốn sang các nước G7 khác. Và từ khi biết ý định của tốp người trên chiếc UH – 1H là không có ý định ở lại Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc đã lập tức trở mặt.
Chuyến vượt thoát gian nan với những tình tiết bất ngờ được ông Dương Văn Lợi ghi lại trong tập sách Hà Nội Báo Động Đỏ, quyển một đã xuất bản và quyển hai chưa viết xong. Ông Lợi kể như sau:
“…Qua Pháp đầu năm 1986, sau một năm tôi bắt đầu viết. Đầu tiên tôi viết bằng tiếng Pháp, gọi là Helicoptere De La Liberte, Hành Trình Trực Thăng Đi Tìm Tự Do, hoàn tất năm 1990.
Năm 1992, khi ông Colby, xưa là giám đốc CIA mà lúc đó ông về hưu rồi, mời tôi qua bên đó ba tháng, tôi mới bắt đầu viết cuốn Hà Nội Báo Động Đỏ tại Washington DC….”
Tại sao Hà Nội Báo Động Đỏ, ông Dương Văn Lợi giải thích:
“…Lúc mà tôi đi là ở Hà Nội báo động ba ngày, nội bất xuất ngoại bất nhập. Tôi qua bên Tàu thì được bên đó cho biết đó là cuộc báo động lớn nhất của cộng sản Hà Nội.
Tôi đi khóa 12 Thủ Đức và tôi giải ngũ năm 1964. Từ 1964 cho đến 1975 tôi là kỹ sư công chánh, làm về xây cất. Nếu đi là lúc 1975 tôi đi một cách dễ dàng vì tôi làm cho Mỹ mà...”
a/ Những năm tù tội
Không lâu sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, thấy không thể sống trong chế độ với những chính sách trấn áp và kiểm tra hà khắc, ông Dương Văn Lợi bắt đầu tìm cách trốn đi, khởi đầu những năm dài tù tội sau đó.
“….Tháng Bảy năm 1975, 30 người đi vào rừng, phần đông là cựu quân nhân mà không đi trình diện. Anh em tổ chức chứ không phải một mình tôi, định vô rừng nếu gặp những thành phần không đầu hàng thì mình hợp tác, nếu không thì mình vượt biên qua bên Lào, bên Miên…”
Ba chục người chia làm 3 nhóm đi lên vùng Tam Biên. Đến tháng Tám nhóm của ông Dương Văn Lợi bị bắt tại vùng bên giới Tam Biên, giải thẳng về Ban Mê Thuột sau đó tống về khám Chí Hòa. Hai nhóm kia cũng không may mắn hơn, họ mất liên lạc với nhau từ đó.
Tháng Mười năm 1975, ông Dương Văn Lợi được tạm tha nhưng vẫn bị theo dõi sát. Tháng Mười Một cùng năm ông bị bắt trở lại.
“…Tôi thuộc diện bị tập trung cải tạo, bị đưa lên Long Khánh tháng Hai năm 1977, bị ghép tội phản động. Sau họ xét nhà thì họ bắt những tài liệu tôi làm cho Mỹ về vấn đề xây cất. Họ ghép tôi là CIA cái đó mới là nặng. Tháng Tư năm 1977 họ đưa chúng tôi ra Bắc, đầu tiên giam ở Nam Hà . Ra đó coi như mình tiêu rồi, coi như chết rồi, do đó anh em bắt đầu chống đối không chịu đi lao động. Tới Noel 1977, khoảng 12 giờ khuya họ kêu anh em cùm lại để đi lên Cổng Trời.
Giam tại Cổng Trời từ 77 đến 78 . Năm 78, 79, sự thật nếu không có bọn Tàu đánh qua thì chưa biết chúng tôi sống chết ra sao bởi ai cũng biết Cổng Trời là muôn năm cho tới chết…”
Vì cuộc chiến biên giới (1979) mà nhiều tù nhân Cổng Trời, trong đó có ông Dương Văn Lợi, được chuyển về Thanh Hóa.
“…Về đó họ đưa lên cùm liền, nặng thì cùm trước như cha Lễ hay đại tá Trịnh Tiếu. Tôi với Đặng Văn Tiếp thì lên cùng lượt, sau đó nhà đá bớt người thì họ đưa lên. Cùm trong nhà đá là kinh khủng.
Cho đến năm 1981 trên đó mà bị kỷ luật thì gia đình không được tiếp tế, năm đó chết cũng nhiều. Nhưng bắt đầu từ đó thì họ biết ăn hối lộ rồi, gia đình tôi chạy 10 lượng vàng để tôi được thả tháng Tư năm 1981. Nó chịu ăn hối lộ mình mới chạy được….”
Về Sài Gòn, ông Dương Văn Lợi chỉ theo lệnh trình diện tại Bộ Nội Vụ nhưng không ra trình diện ở phường. Mục đích của ông lúc đó là tìm kiếm đường đi bằng mọi giá.
b/ Kế hoạch cướp máy bay:
May sau này nhờ bà con móc nối, lại thêm sự hỗ trợ của người em là sĩ quan công an của chế độ mới, ông Dương Văn Lợi làm quen với một số phi công bộ đội chuyên lái trực thăng đang chờ ngày ra tòa vì tội buôn lậu. Mọi người thảo kế hoạch cướp máy bay trốn đi.
“….Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm.
Phi công trực thăng mà đi buôn lậu bên Kampuchia, nguyên cả phi hành đoàn đó bị bắt, ba người bị hết. Nên nhớ phi công là con ông cháu cha không chứ đâu phải nhỏ, đã bị treo giò bị kỷ luật vẫn còn ở Tân Sơn Nhất, tụi nó cũng dự định trốn.
Khi thấy kế hoạch trốn đi từ Tân Sơn Nhất không thành, mọi người chuyển hướng ra phía Bắc.
Cuối cùng anh phi công chánh người Nghệ An và có em tôi là sĩ quan công an Việt Cộng bây giờ đang ở bên Nhật Bản, cho biết phi trường Bạch Mai chấm được thì mới bắt đầu đi tìm mua không bàn với bình điện. Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm mà khi ra Hà Nội sạc vẫn mạnh như thường.
Chiếc trực thăng đó là của anh phi công tại Hà Nội đại khái lái giỏi nhất. Anh phi công đó ngày 30 tháng Chín phải ra hội đồng kỷ luật, anh nói cuối tháng Chín mà không đi thì coi như bỏ hết. Chiếc trực thăng UH 1 đó của Bộ Chính Trị đi mà.
Máy bay thì có người lo, tôi chỉ lo vấn đề mua bình, mua không bàn, ra ngoài đó thì em tôi có trách nhiệm đi sạc bình lại….”
Đến giờ G của ngày 30 tháng Chín, dự dịnh cất cánh vào lúc 4 giờ sáng không thành với những pha gây cấn đến thót tim. Theo sắp đặt, phi công chính và phi công phụ vào phi trường Bạch Mai bằng cửa chính. Phía ông Dương Văn Lợi mang theo hai con trai, người em ruột và một người cháu.
“…Đã cam kết là không cho đàn bà đi nhưng khuya đó anh phi công đem cô hôn thê của anh ta, cô đó lại cho một người bạn nữa đi theo. Thấy hai cô gái tôi chưng hững rồi, nhưng máy bay của người ta tôi đâu có từ chối được, mà để lại thì cũng nguy hiểm, thành ra có 10 người.
Phi trường Bạch Mai chỉ có 3 chiếc trực thăng thôi, tôi định cất cánh là đúng 4 giờ sáng. Hai người vô cửa chính là anh phi công chính và phi công phụ vì còn công tác ở đó tới hết tháng chín mới ra hội đồng kỷ luật. Nhóm của tụi tôi thì đợi tại cầu Long Biên, tôi, 2 cô gái, 2 đứa nhỏ với một thằng cháu.
Một anh đem bình điện thì phải đi giao thông hào, nhưng khi vô đó ban đêm mà chiếc máy bay UH 1 của mình nó nhỏ hơn chiếc MI 8 của Nga, ban đêm tối thui anh đi lố. Hai người vô trước đợi hoài không thấy bình điện, đợi đến 5 giờ là buổi sáng trại gia bình họ tập thể dục mà vẫn chưa thấy bình vô. Tới khi anh này trở ra, cắt hàng rào kẽm gai đưa cái bình điện vô rồi thì mừng quá.
Đó là thời gian mà phi trường Bạch Mai được lệnh canh gác cẩn mật do trước đó hai tuần đã xảy ra vụ một thiếu úy an ninh quân đội Bắc Việt tình nghi cướp trực thăng nhưng không may bị chận bắt trở lại.
Cho nên sau đó mỗi chiếc trực thăng đều có một anh lính gác đạn lên nòng. Không ngờ cái anh lính gác đó lại là em chú bác gì với anh phi công chính, ảnh mới nói tao vô sửa soạn máy bay để sáng đưa các thủ trưởng đi công tác sớm. Sẵn có cây sắt khoảng 3 gang thì làm sao mà nó đội nón sắt mà đập ngay cần cổ cho nó ngất xỉu được? Thì người anh mới mời nó hút thuốc, bật hộp quẹt đưa ra thì ảnh cứ kéo kéo cho người này cúi đầu xuống thì anh phi công phụ đập anh lính gác một cây cho xỉu rồi đưa bình điện lên ráp.
Không may vừa ráp xong thì người lính gác tỉnh dậy và bỏ chạy nhưng lại không kêu được tiếng nào. Thế là hai người phi công cố rượt theo và đánh cho anh ta ngất đi một lần nữa.
Xong rồi lên trực thăng mà trời đang tối, mở công tắc một cái thì cái đèn trên bảng điều khiển nó sáng như một cái thành phố, cho nên anh cơ phó giựt đứt sợi dây liền, tối thui luôn, rồi bắt đầu cho máy chạy. Không ngờ cánh quạt ở trên cột sợi dây cáp mà không ai để ý. Anh cơ phó nhảy lên cởi giây cáp xong rồi xuống bật lại cho máy nổ, từ đó xuống cầu Long Biên đón tụi tôi liền, đón 6 người….”
Chiếc trực thăng UH 1 bốc lên cao, trực chỉ hướng Hồng Kông như đã tính toán, nhưng:
“…Bay hai tua trở lại thì vẫn thấy thành phố Hà Nội. Phi công mới nói chết rồi không thấy không bàn đi không được. Hên là người cơ phó sực nhớ có hộp quệt, mới quẹt lên rồi để ngay cái không bàn, bắt đầu mới đi tiếp….”
c/ Đến Bắc Kinh:
Run rủi thế nào chiếc UH 1 lại đáp xuống một nơi ở Quảng Tây của Trung Quốc thay vì Hồng Kông. Thời gian đó, điểm trùng hợp là nhóm của ông Dương Văn Lợi và chiếc UH 1 đến Trung Quốc chỉ sau vụ ông Hoàng Văn Hoan, một đảng viên cộng sản cao cấp Việt Nam, bỏ trốn qua Trung Quốc không lâu. Đây cũng là thời kỳ mà mối quan hệ Việt Trung không còn mặn nồng, vì thế Bắc Kinh muốn lợi dụng sự kiện chiếc UH 1 và 10 người trốn từ Việt Nam sang để tuyên truyền chống Hà Nội. Đó cũng là lý do những người mới đến được đưa về Bắc Kinh và được tiếp đãi trọng thể như khách quí.
“…Họ cho một đại đội gác cái máy bay, đưa tụi này về tỉnh, nói là tụi này chống tập đoàn Lê Duẩn. Một tuần lễ sau Bắc Kinh cho một chiếc máy bay đặc biệt rước tụi tôi về Bắc Kinh luôn. Họ tưởng tụi tôi đi như vậy thì sẽ tị nạn tại Bắc Kinh. Tôi còn nhớ họ cho ông thứ trưởng Ngoại Vụ và thứ trưởng Bộ Công An lên chấp nhận cho tụi tôi đến Trung Quốc….”
Sau một thời gian, khi nghe những người trong nhóm trình bày ý muốn gặp đại diện của Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh để xin đi tị nạn tại một quốc gia khác, sự tiếp đón nồng hậu của Trung Quốc giảm hẳn.
“…Nghĩa là đổi 180 độ, hận thù. Tôi ở Bắc Kinh trên 6 tháng, lúc Liên Hiệp Quốc liên lạc với bên Mỹ thì bên Mỹ viết cho tôi thơ trả lời. Tôi gởi một đơn nữa thì bên đó cho người qua, nói với tụi tôi là 10 người các anh đến Mỹ thì không sao hết nhưng chúng nó có cho các anh đi đâu. Chúng nó là Tàu đó. Không ngờ là Mỹ cho đi mà Trung Quốc không cho…..”
Cuối cùng Hoa Kỳ nhận cho gia đình ông Dương Văn Lợi đi, nói rõ không vì lý do chính trị mà vì ông từng làm việc cho Mỹ ở Sài Gòn trước kia:
“…nhưng cũng không ngờ là mấy anh em phi công không chịu, nói cho đi thì cho đi hết còn không cho đi thì không cho đi hết. Cho nên Mỹ từ chối khi đang làm giấy tờ cho tôi đi….”
Hai năm rưỡi sau, từ Bắc Kinh gia đình ông Dương Văn Lợi được đưa về Liễu Châu với khuyến cáo nếu không muốn ở lại Trung Quốc thì phải vào sống trong trại tị nạn.
“…Mà trại tị nạn ở bên Tàu trời ơi, nói không nỗi. Bắt đầu mấy anh phi công cũng nản rồi, biết là đi không được rồi...”
Tại Liễu Châu, làm quen với một số người Việt từ Hà Nội hoặc Hải Phòng trốn qua Hồng Kông rồi bị bắt trả về Trung Quốc, ông Dương Văn Lợi gom góp tiền bạc để dành nhờ họ mua một chiếc thuyền cũ. Quyết định của ông là phải đi khỏi Hoa Lục và lần này bằng đường biển.
“…Tìm vượt đường biển từ đó lên tới Quảng Châu chỗ có biển tới 300 cây số lận. Nó cũng ham đi chứ nếu nó không ham đi mà lấy hết tiền thì tôi cũng kẹt bên Tàu luôn rồi…”
Lo xong mọi việc, gia đình ông Dương Văn Lợi cùng khoảng 10 anh em người Việt đã giúp ông mua lại chiếc tàu chuẩn bị đi Quảng Châu.
“…Năm 83 là tôi đi, 300 cây số tới Quảng Châu, xuống bãi biển ở Quảng Châu….”
d/ Trốn khỏi Trung Quốc
Đó là chuyến vượt biển đầy trắc trở, tàu thì cũ nên hết hư cái này đến hỏng cái khác. Trên đường đi, ông Lợi kể là ông thấy cả 40 thuyền lớn nhỏ đi ngang mà không chiếc nào dừng lại cho đến khi được tàu Liên Xô vớt trong một cơn bão.
“…Tàu Liên Xô vớt thì tôi nói tôi người Đài Loan, đi đánh cá bị bão. Lên đó thì phải nói bằng tiếng Anh không thôi. Tàu Liên Xô cho hai người thợ máy xuống sửa, nếu sửa không được thì họ kéo mình vô bờ nhưng tôi biết vô là mình bị bể vì họ sẽ đưa qua tòa đại sứ gần nhất….”
Thế là ông Dương Văn Lợi cố thuyết phục bên tàu Liên Xô cho chiếc thuyền nhỏ của ông tiếp tục cuộc hải hành. Cuối cùng, tàu cập vào một đảo nhỏ của Philippines là Dalupiri.
“…Liên Hiệp Quốc kêu tụi tôi là Group 14 Dalupiri, có nghĩa là 14 người lên đảo Dalupiri….”
Từ đảo Dalupiri, mọi người được bốc về Manila, tiếp đến chuyển thẳng vào trại tị nạn Palawan.
Tại Palawan, ông Dương Văn Lợi xin đi định cư ở Canada. Nhưng do do thủ tục khám sức khỏe để nhập cư Canada quá nhiêu khê và quá lâu, sẵn phái đoàn Pháp chấp nhận cho đi dễ dàng và nhanh hơn, ông Dương Văn Lợi quyết định đi Pháp. Đó là năm 1985. Mười người vượt biển trên chiếc tàu của ông còn ở lại Palawan và chỉ đến Pháp nhiều năm sau đó.
“…Gia đình tôi qua Pháp, em tôi là Dương Văn Báu đi sau tôi vài năm. Nó trốn từ Bắc Kinh, ra biển gặp tàu Nhật vớt và tị nạn ở Nhật Bản cách đây cũng khá lâu rồi….
Còn hai vợ chồng Lục là phi công chánh thì ở lại Bắc Kinh và bây giờ làm ăn giàu có lắm. Anh phi công phụ tên Sơn cũng ở tại Bắc Kinh. Còn một anh cơ phó cũng trốn từ Bắc Kinh qua tị nạn ở Canada, anh Đoàn, là người Thượng mà vô dân Canada rồi. Cách đây 5 năm tôi được tin là anh về thăm gia đình, vừa xuống máy bay thì bị bắt giam tại Hà Nội, từ án tử hình xuống còn án chung thân khổ sai...”
Oài. Đây là chuyện hình sự, nhưng qua tuyên truyền của quân Trung Quốc xâm lược, câu chuyện hình sự này, đã được hô biến thành ‘chuyện chính trị’.
Thực hư chuyện ‘chiếc trực thăng UH-1H phản bội’ là thế.
Hình 1: 10 người vượt thoát bằng trực thăng UH 1 từ phi trường Bach Mai, Ha Nội, ông Dương Văn Lợi đứng thứ 6 từ trái qua.
Hình 2: Ông Dương Văn Lợi khi đến Paris
Nguồn:
https://www.facebook.com/tuan.bim.7/posts/1107294942643980
https://www.facebook.com/tuan.bim.7/posts/1107901662583308
______________
Theo Cầu Nhật Tân
Trong khi chiến sự vẫn rất căng thẳng trên toàn tuyến biên giới Việt – Trung, dịp Quốc khánh Trung Quốc 1/10/1981, Việt Nam bàng hoàng bởi vụ cướp máy bay trực thăng chiến đấu biên chế ngay tại Sở chỉ huy của quân chủng Không quân ở sân bay Bạch Mai.
Rạng sáng 30/9/1981, 2 chiến sỹ gác sân bay Bạch Mai (Trụ sở Bộ tư lệnh quân chủng Không quân) tại Hà Nội bị hạ sát bằng lưỡi lê đâm vào cổ họng. Chiếc máy bay trực thăng UH-1H với đầy đủ vũ khí và cơ số xăng dầu đã bị cướp mất. Ít ngày sau, qua Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận của ĐCS Trung Quốc, Việt Nam mới hay tin những người trên máy bay đã được Trung Quốc biệt đãi, được gặp “lãnh tụ” Hoàng Văn Hoan, được Triệu Tử Dương tiếp đón.
Sáng sớm ngày 30/9/1981, lực lượng bảo vệ sân bay Bạch Mai phát hiện 2 bộ đội gác sân bay bị hạ sát, ngay sau đó họ đã không thấy chiếc máy bay trực thăng UH-1H số hiệu 576. Táo tợn hơn, sau khi cất cánh khỏi sân bay Bạch Mai, chiếc máy bay này còn đàng hoàng hạ cánh xuống phường Phúc Xá thuộc địa bàn quận Ba Đình đón thêm người rồi mới bay thẳng đi Trung Quốc trước sự bất lực hoàn toàn của lưới lửa phòng không dày đặc thời chiến.
Tác giả chính của vụ cướp máy bay này là Thiếu úy Kiều Thanh Lục, ngoài ra còn có sự trợ giúp của một số sỹ quan, cán bộ quân chủng Không quân (cùng trốn theo sang Trung Quốc) trong đó đáng chú ý có một người là cựu sỹ quan không lực Việt Nam cộng hòa được thu dung phục vụ tạm thời trong quân chủng. Dựa vào chi tiết này, phán đoán ban đầu là chiếc máy bay đã bay ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ (lúc đó Việt Nam vẫn coi Hoa Kỳ là kẻ thù nguy hiểm nhất). Ngay lập tức, toàn bộ các đồng chí diện “thu dung” bị đặt dưới chế độ giám sát đặc biệt, kể cả đồng chí từng lái máy bay ném bom dinh Độc Lập.
Chỉ sau khi Nhân Dân Nhật Báo đăng chi tiết về vụ cướp máy bay và Bắc Kinh tổ chức họp báo quốc tế rầm rộ với Kiều Thanh Lục, Dương Văn Lợi, Hoàng Xuân Đoàn và Lê Ngọc Sơn (phi hành đoàn) thì Việt Nam mới ngã ngửa ra rằng chiếc máy bay đang ở trong tay Trung Quốc.
Sau thất bại quân sự năm 79, Trung Quốc cố thổi phồng vụ này lên, nâng tầm quan trọng ngang vụ “lão thành cách mạng Đảng Cộng sản VN” Hoàng Văn Hoan bỏ trốn, đặc biệt lại đúng dịp 32 năm Quốc khánh Trung Quốc (1/10/1981). Bắc Kinh gọi đây là máy bay đặc dụng biên chế riêng phục vụ Bộ Chính trị của “tập đoàn Lê Duẩn”.
Những ngày sau, không những “lãnh tụ” Hoàng Văn Hoan mà ngay cả Triệu Tử Dương (Chủ tịch TQ) cũng đích thân tiếp 10 người đi trên máy bay. Thậm chí còn có tin, nếu Trung Quốc thành lập “chính phủ” Hoàng Văn Hoan lưu vong thì những người trên sẽ được Bắc Kinh cơ cấu vào các chức vụ quan trọng như bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh Không quân …
Vụ giết bộ đội, cướp máy bay ngay tại sân của quân chủng Không quân đã trôi qua 33 năm nhưng nhiều câu hỏi lớn vẫn chưa tìm được câu trả lời thấu đáo. Có hay không bàn tay của tình báo Hoa Nam đạo diễn vụ này? Ai đã cố tình nạp sẵn nhiên liệu vào máy bay và chuẩn bị các điều kiện cất cánh khác trong khi quy trình để máy bay cất cánh phải qua nhiều khâu, nhiều người? Tại sao chiếc máy bay bị cướp có thể lọt qua hàng loạt các trận địa phòng không bảo vệ Thủ đô và nhiều căn cứ không quân, quân sự trọng yếu trên đường đi trong khi từ lúc cất cánh đến lúc bị phát hiện chỉ vẻn vẹn chưa đầy 5 phút, đặc biệt trong bối cảnh lực lượng phòng không VN đã được huấn luyện kỹ chiến thuật chống trực thăng tầm thấp sau vụ Sơn Tây 1970.
Nếu không có mật lệnh từ trước, hẳn chiếc máy bay đã bị chính lưới lửa phòng không của Trung Quốc bắn hạ chứ không thể bay sâu vào nội địa TQ để hạ cánh xuống huyện Đại Tân (lúc đó Bắc Kinh vẫn duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ trên biên giới Trung – Việt nhằm xâm lược Việt Nam).
Ngoài ra, không thể không nhắc tới việc một vị lãnh đạo quân chủng Không quân VN năm ấy, không những không bị kỷ luật mà qua hơn 10 năm, sau khi thăng lên nhiều cấp của Bộ Quốc phòng, thì bị “biếm” bởi một quyết định phê duyệt được cho là có “yếu tố Trung Quốc”.
https://hieuminh.wordpress.com/2014/07/12/1981-vu-cuop-truc-thang-tai-san-bay-bach-mai-tron-di-trung-quoc/