Tim thông tin blog này:

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

Lịch sử Trường TH Nguyễn Huệ Phú Yên

Trường Trung Học Nguyễn Huệ Phú Yên.
 Sau ngày đình chiến 20-7-1954 thầy Huỳnh Tô, từng dạy trường cấp 2 Lò Tre,  lập tại Phú Thứ xã Hòa Bình 1 trường trung học và đặt tên là trường Trung Học Nguyễn Huệ thời Phú Yên thuộc QGVN. Năm 1955 trường dời về thị xã Tuy Hòa. Thầy Đinh Thành Bài làm hiệu trưởng dùng cả 2 con dấu Quốc Gia Việt Nam(trước 23-10-1955) và Việt Nam Cọng Hòa sau đó. Tên trường Nguyễn Huệ tồn tại tới ngày nay.

Thế hệ học sinh thời QGVN và VNCH. Thời VNCH mỗi tĩnh chỉ có 1 trường trung học công lập. Ở Phú Yên có trường Trung Học Nguyễn Huệ. Các thế hệ học sinh được đào tạo ở trường Nguyễn Huệ là thế hệ học sinh Trung Học chánh cống của tĩnh cùng với các bạn học khác ở các Trung Học tư. Mỗi tĩnh chỉ có 1 trường Trung Học Công Lập mà thôi nên nó rất bề thế.

images (1)Thế hệ học sinh cấp 2 chuyển tiếp chuyển từ hệ 10 năm sang hệ 12 năm vào các năm 1954 đến 1956. Các trường cấp 2 trong vùng kháng chiến một phần vì rút gọn số năm học, một phần vì không giao lưu tiếp xúc với bên ngoài và không có học sinh ngữ Anh Pháp nên thế hệ học sinh(thhs) chuyển tiếp này gặp khó khăn khi vào học các lớp Thất, Lục, Ngũ, Tứ hệ 12 năm của QGVN và VNCH.

Thế hệ học sinh Trung Học Nguyễn Huệ Dang Dở là thhs vào Đệ Thất các năm 1955, 1956 vì lên Đệ Tam, Nhị hay Nhất phải đi tĩnh khác mới hoàn tất bậc Trung Học. Năm 1960-1961 mở lớp Đệ Tam, 1961-1962 mở lớp Đệ Nhị. Tới năm 1963-1964 mới mở lớp Đệ Nhất.

Thế hệ Trung Học chánh cống của trường Nguyễn Huệ vào trường năm1957 và ra trường năm 1964. Tức phải tới năm 1964 mới có bậc Trung Học hoàn chỉnh ở Phú Yên. Các lớp đàng anh dang dở phải ra Qui Nhơn, vào Nha Trang hay ra Huế học tiếp để mà hoàn tất bậc Trung Học. Trường Trung Học Nguyễn Huệ ra đời, lớn lên, trưởng thành(Niên khóa Đệ Nhất đầu tiên là 1963-1964) gần như trọn trong hành tình như thế(sinh ra, lớn lên rồi trưởng thành) của nền Đệ Nhất Cọng Hòa(1955-1963). Sự ra đời Trung Học Nguyễn Huệ trùng với sự ra đời nền Đệ Nhất Cọng Hòa.  Tránh khai sinh nó năm 1954,  khai sinh nó vào năm 1955 thì lại trùng năm sinh Đệ Nhất VNCH.

Niên khóa 1954-1955 của trường Nguyễn Huệ Phú Thứ. Niên học này xác định cái nôi sinh ra trường Nguyễn Huệ Tuy Hòa Phú Yên. Nhiều thế hệ học sinh Nguyễn Huệ chỉ biết trường sinh ra năm 1955 ở tại thị Xã Tuy Hòa. Ít ai biết cái nôi của nó là Phú Thứ xã Hòa Bình và năm sanh ra nó là 1954. Người ta ngại khai sinh nó đúng nơi, đúng ngày vì ngại lý lịch chính trị người sáng lập ra nó, thầy Huỳnh Tô. Người ta lấy lý do quyết định thành lập nó năm nào thì khai sinh nó năm đó. Logic thôi. Nhưng oái ăm là người ta vẫn giữ nguyên tên Nguyễn Huệ mà người sáng lập đặt cho nó và công nhận giấy tờ, học bạ và học sinh niên khóa 1954-1955. Hiệu trưởng kế thừa Huỳnh Tô là Đinh Thành Bài đã xử dụng cả con dấu QGVN và VNCH ký vào các học bạ đó.

Trong học bạ của học sinh Phan Bổ có trang niên khóa 1954-1955 được đóng con dấu Quốc Gia Việt Nam. Bên dưới có hàng chữ: Trung Việt. Trong lòng con dấu có hàng chữ: Trường Trung Học Nguyễn Huệ Phú Yên. Trang niên khóa tiếp theo được đóng con dấu nước VNCH. Nền con dấu là bụi trúc. Hàng chữ bên dưới là: Hiệu Trưởng Trường Trung Học Nguyễn Huệ. Đinh Thành Bài đã ký tên và đã dùng 2 con dấu đó đóng vào các trang học bạ.

Trong các trang học bạ, tôi thấy ban giáo sư buổi sơ khai đó được ghi như sau: Lớp Đệ Thất A: Đinh Thành Bài dạy Toán, Anh, Pháp. Trần Văn Kỳ dạy Sử, Địa, Khoa Học, Công Dân. Trần Văn Khương dạy Pháp, vẽ, Việt Văn, Vạn Vật. Hai anh em Trần Văn Kỳ và Trần Văn Khương sau đó về Sai Gòn. Ban giáo sư năm 1955: Bùi Xuân Tri dạy vạn vật, Quốc Văn, Địa. Hàn Huy Quang dạy Pháp. Nguyễn Xuân Giễm(có người gọi là dziễm) dạy Anh. Nguyễn Thúc Tâm dạy Sử. Nguyễn Ngọc Nhâm dạy Toán. Nguyễn Đức Lâm dạy Lý Hóa. Đinh Thành Bài dạy Đức Dục Công Dân. Truyền khẩu thì có nói đến thầy Huỳnh Tô, Cao Sĩ Liễu, Trần Văn Kỳ, Trần Văn Chương, Đinh Thành Bài có dạy ở trường Phú Thứ.

Chuyện kể lại thì không có gì chắc chắn lắm ví dụ có người kể chỉ có 2 lớp là Thất và Lục. Có người kể 2 lớp Thất, 2 lớp Lục. Cỡ vào gần tết thầy Huỳnh Tô bị bắt thì rút lại 1 thất 1 lục nhưng giấy tờ học bạ vẫn là 4 lớp. Biết tin vào đâu. Nhưng học bạ có ghi lớp Thất A thì chắc có trên 3 lớp. Vì vậy phần ghi các học sinh tôi phải xếp theo vần abc để tránh nhầm lẫn các lớp.

Truong Nguyen Hue MoiVà một chút nói về Cựu Học Sinh Nguyễn Huệ Khóa Đầu Tiên: An nguyễn đồng, AN nguyễn thị, ANH lê quang, ẢNH trương thị, hoài ÂN lê thị,ẤN nguyễn thượng, BÁCH nguyễn ngọc,  BẰNG nguyễn,  BÌNH nguyễn thị, BỒ trương, BỔ phan, BƯỞI phan thị, CẢNH hồ mỹ, CẦM tạ đình, CẦUphạm xuân, bích CẦU trương thị,CHẨN nguyễn, CHÂU trần văn, CHÂUtrần hoàng, CHÂU nguyễn hoài,CÔNG trương minh, CHUNG nguyễn, ngọc DIỆP hà thị, DỰ phan tấn,DƯƠNG võ duy, ĐÃM vương tấn,ĐĂNG nguyễn đình, ĐỆ nguyễn,ĐỈNH lê long, GIÁM phạm hữu, GIÁOtrần văn, bích HÀ trần thị, HẠ đàm khánh,  HẢI trần quang, HẠNH đào tấn, HẠNG lê cao, HÀO huỳnh, HIỆPđinh văn, HOÀNG võ phụng, tuyếtHỒNG từ thị, HỒNG nguyễn văn,HUÂN trần công, HÙNG nguyễn, hoàiHƯƠNG lê thị, HỮU huỳnh, HỰU lữ đức, HY nguyễn phụng, KHA phạm ngọc, KHÔI trần văn, mỹ KHẢM trần thị, KHÁN trịnh, HẢI trịnh quang, KIỆTlương văn, KỶ nguyễn khắc, xuânLAN nguyễn thị, LÂN bạch ngọc, LÂNhuỳnh kim, LÂN nguyễn, LÊ đoàn, LỄnguyễn, LỘC võ hữu, LUÂN nguyễn đình, LUÂN nguyễn trọng, LƯU võ, ngọc MAI phan thị, MÃNH lương công, MẤN đào thị, MÃO phạm, MINHtrương thị, MINH nguyễn đức, MINHvõ(tức Võ Huỳnh Đào cấp 2 Triều Sơn, Xuân Thọ), NHỊ huỳnh văn,NGHI nguyễn văn, NGỌC nguyễn thị, cẩm NHUNG cao thị, NGUYÊN trần văn, NHÂN huỳnh tấn, NHÂN huỳnh công, PHỐC huynh duy, PHÙNGphan, hạnh PHƯỚC trương thị, QUỸtrịnh, HÂN lê trung, SANG nguyễn ngọc, SĨ nguyễn, SOA nguyễn tài,SUM phạm thị, TÂN nguyễn đình,TÂN lê đình, TẶNG trần văn, THANHnguyễn văn, THÀNH nguyễn ngọc,THÀNH lê long, THẠNH lê chí,THĂNG huỳnh sĩ, THÊ trần đình,THIỀU nguyễn văn, THIỀU nguyễn công, THIỀM đào tấn, THÔNG huỳnh tấn, THUẬN hồ thị, TIÊU lê đình,  TRANG bùi xuân, TRẤP lương công,TRỊ nguyễn ngọc, TRÍCH huỳnh tấn,THÔNG huỳnh tấn, TRẤP lương công, TRỌNG bùi xuân, TỚI phan, TUđào tấn, TUẬN nguyễn quang, TÙYnguyễn văn, VINH võ văn, kimXUYẾN nguyễn thị, YẾN tạ thị, YÊMnguyễn trọng…Họ bao gồm những học sinh của các lớp Thất, Lục học ở Phú Thứ niên khóa 1954-1955, các học sinh cấp 2 vùng kháng chiến thi vào trường Nguyễn Huệ ở Tuy Hòa vào năm 1955-1956 và học sinh là con em công chức đến Phú Yên làm việc lúc đó: Đây là thế hệ chuyển tiếp trường cấp 2 hệ 10 năm của VNDCCH sang hệ 12 năm của QGVN và VNCH, giống như thế hệ Trung Học LVC nói trên kia là thế hệ chuyển tiếp hệ Cao Đẳng Tiểu Học Quốc Học Qui Nhơn(College de Qui Nhơn) thời Thuộc Pháp, Hoàng Gia Việt Nam(chính phủ Trần Trọng Kim) thời Phát Xít Nhật sang hệ 10 năm của VNDCCH.

Ai biết thêm thông tin xin gởi về email huynhbacung@yahoo.com.  để cập nhật. Cảm ơn.

Ngày nay cựu học sinh trường Nguyễn Huệ may mắn có được cái trường cũ để nhớ, để thương, để ghé thăm là nhờ năm 1975 không có sự chuyển tiếp trường Nguyễn Huệ sang trường LVC. Không mất tên trường Nguyễn Huệ ở Phú Yên.

Huỳnh Bá Củng

Trích từ:
https://cuuhocsinhphuyencom.wordpress.com/2016/02/20/phu-yen-toi-ky-niem-trung-hoc-nguyen-hue-con-mai/
http://ongtam2013.blogspot.com/2012/08/trung-hoc-luong-van-chanh-nen-trung-hoc.html

Tham khảo thêm:
http://ongtam2013.blogspot.com/2015/08/truong-nguyen-hue-60-nam-chuyen-ben-le.html

Tìm kiếm Blog này