Mấy năm qua, tại Diễn đàn Lịch sử
Trung Hoa (China History Forum) đã diễn ra một cuộc thảo luận trực tuyến về
nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây
[Lưỡng Quảng] của CHND Trung Hoa. Dựa vào những tranh luận trên diễn đàn này,
một hoạt động sôi nổi, lôi cuốn nhiều người ở Trung Hoa lục địa và hải ngoại
tham gia, chúng tôi xin lược thuật để bạn đọc tham khảo.
Cuộc thảo luận trực tuyến được
thực hiện bằng tiếng Anh, có đôi chỗ chú thích bằng tiếng Hoa, gồm hàng trăm ý
kiến dàn trải trên 7 chương, mỗi chương có thể in ra chừng hơn 30 trang giấy
khổ A4. Chủ đề của cuộc thảo luận là quan điểm Liên-Bách Việt (Pan-baiyueism),
bàn về nguồn gốc chung của người Việt Nam và người nói tiếng Quảng Đông
(Cantonese). Các thành viên tham dự diễn đàn này gồm chủ yếu là người Trung Hoa
ở phía Nam (nhóm thứ nhất), thường phủ định quan điểm "Liên-Bách
Việt", một số người Việt Nam và Việt gốc Hoa (nhóm thứ hai, ít hơn về số
người), được xem là cổ súy cho quan điểm trên, và một số ý kiến trung dung.
Các tranh luận thường khá gay
gắt, nhưng các nhóm có vẻ đồng thuận với một số sử liệu, thường trích từ các
công trình nghiên cứu phương Tây sau đây [1] :
Vào khoảng đời nhà Chu (1134-770
tCn) và Xuân Thu, tại khu vực phía Nam Trung Hoa giáp với biên giới Trung-Việt
ngày nay đã tồn tại những bộ tộc không thuộc Hoa tộc như Bách Việt, Bộc (Pu)
[2] ...
Tới thời Xuân Thu, người Việt ở
khu vực núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) thuộc Chiết Giang lập ra vương quốc
Việt. Nước Việt vào năm 473 tCn đã chinh phục nước Ngô [3] láng giềng, đóng đô
ở Tô Châu thuộc Giang Tô. Nhưng rồi Việt bị nước Sở thôn tính năm 306 tCn. Vào
thời Xuân Thu, người Đông Việt được xem là cư trú ở vùng nay thuộc phía Đông
nước Trung hoa hiện đại, người Dương Việt cư trú ở phía bắc của tỉnh Giang Tô
hiện nay. Các bộ tộc Bách Việt khác như Âu Mân sống ở vùng Chiết Giang, Phúc
Kiến; Nam Việt sống ở vùng Quảng Đông, Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Phúc
Kiến... Trong thời kỳ Chiến quốc (480-221 tCn), vương quốc Việt cũng chao đảo
dưới những biến động chính trị, giống như các lãnh thổ thuộc Thục và Ba nay
thuộc Tứ Xuyên, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa
“chính thống" [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.
Bắt đầu thời kỳ miền bắc của
Dương Tử bị Trung Hoa hóa [Hán hóa] mạnh mẽ. Bức trường thành ngăn các bộ tộc
du mục từ phương bắc xuống đã được nước Tần (221-206 tCn) và Yên xây dựng. Khu
vực hiện nay thuộc Phúc Kiến lần lượt bị nhà Tần và nhà Hán chinh phạt, nhưng
phong kiến Trung Hoa đã không thực sự kiểm soát được vùng đất này. Vào đầu đời
Hán (206 tCn - 220), Triệu Đà lập ra vương quốc Nam Việt ở khu vực Quảng Đông,
độc lập với triều đình Hán. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa năm 221
tCn, quân nhà Tần bắt đầu tiến xuống phía nam dọc theo sông Tây Giang tới vùng
Quảng Đông hiện nay, và xác lập các quận dọc theo các trục đường chính. Tới năm
112 tCn. Hán Vũ Đế đã chinh phục những vùng phương Nam
(Trung Hoa), cùng với vùng nay là miền bắc Việt Nam và cử người Hán cai quản các
quận.
Dưới đời Hán, ngoài Nam Việt ở
viễn nam chủ yếu là ở Lưỡng Quảng và Việt Nam, sử sách còn kể về tiểu quốc Mân
Việt ở đông bắc tập trung ở vùng sông Mân Giang, nay thuộc Phúc Kiến (Mân là
tên cũ của tỉnh Phúc Kiến).
Thời Tam Quốc, Sách Địa lý chuyển
luận trong Hán thư chép: "Ở khoảng bảy hay tám ngàn dặm tính từ Giao Chỉ
đến Cối Kê (nam Giang Tô hay bắc Chiết Giang), những người Bách Việt có mặt ở
mọi nơi, chia thành nhiều thị tộc".
Hoạt động di cư của người Trung
Hoa (Hán) càng tăng trưởng, người Việt càng bị đẩy vào các vùng đất cằn hơn, và
vào rừng núi. Không giống như những người du mục Trung Á như tộc Hung Nô hoặc
tộc Tiên ti, người Việt chưa từng thực sự đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối
với sự bành trướng hay kiềm tỏa của Trung Hoa (người Hán). Thỉnh thoảng họ dấy
lên những cuộc đột kích vào khu định cư của người Hoa, mà các sử gia cổ gọi là
“những cuộc nổi loạn". Người Trung Hoa (Hán) cho rằng người Việt không văn
minh, và hay đánh lẫn nhau.
Sự sụp đổ của nhà Hán và giai
đoạn chia tách tiếp theo đã đẩy mạnh quá trình Trung Quốc hóa. Các thời kỳ bất
ổn và chiến tranh ở miền Bắc Trung Hoa giữa Bắc Triều và Nam Triều, cũng như
trong đời Tống đã dẫn tới hoạt động di cư ồ ạt của người Trung Hoa (xuống
phương Nam). Hôn nhân dị chủng và giao lưu giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự
pha trộn giữa người Trung Hoa (Hán) và không Trung Hoa (không phải Hán) ở miền Nam. Cho đến
đời Đường, từ “Việt” đã trở nên một định ngữ chỉ vùng hơn là chỉ một nền văn
hóa. Một nhà nước từng nằm ở tỉnh Chiết Giang hiện nay trong thời kỳ Ngũ đại
thập quốc chẳng hạn, đã tự xưng là Ngô Việt.
Về thời Bắc thuộc, Diễn đàn dẫn
luận án phó [?] tiến sĩ của Jennifer Holmgren "Sự đô hộ của Trung Hoa đối
với [Bắc] Việt Nam"
(Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết:
Những ghi chép về hoạt động của
Trung Hoa ở Bắc Bộ Việt Nam trong 6 thế kỷ đầu thời kỳ thực dân này (Việt Nam
gọi là thời Bắc thuộc) cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ
Trung hoa. hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt... Sự trêu ngươi như thế
cho thấy một số thị tộc Trung Hoa xác lập quyền lợi của dòng họ mình ở Bắc Bộ:
định cư dần dần, giúp đỡ mở mang và cuối cùng hoà nhập vào môi trường xã hội
kinh tế và chính trị ở Bắc Việt Nam.
Kết quả cuối cùng của quá trình này là sự xuất hiện của một tầng lớp thượng lưu
Hoa-Việt, quá trình phi thực dân hóa ở vùng viễn nam, và những mưu toan bất
thành ở thế kỷ VI để khôi phục nền độc lập, thoát ách đô hộ của phương Bắc. Ví
dụ cho quá trình này là sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp thời Hậu Hán và những nỗ lực
giữ nền độc lập của người nhà ông này sau khi ông qua đời.
Từ cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng
thế kỷ I đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn thế kỷ VI, sử sách của Trung Hoa cho thấy
biểu hiện của một sự phụ thuộc về chính trị trên nền nửa độc lập với Bắc triều.
Theo dòng thời gian, những thời kỳ có đặc tính bán tự trị ngày càng tăng lên.
Xu thế này làm nền cho cuộc nổi dậy của nhà [Tiền] Lý ở giữa thế kỷ VI và cuối
cùng là sự phân liệt hoàn toàn khỏi Trung Hoa vào thế kỷ X.
Tác động của văn hóa Việt đối với
văn hóa Trung Hoa đã không được xác định một cách chính thức, nhưng nó khá rõ
rệt. Ngôn ngữ của các tiểu quốc cổ Ngô và Việt tạo nên ngôn ngữ Ngô, và phần
nào tới ngôn ngữ Mân ở Phúc Kiến. Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng một số
từ tiếng Trung Hoa có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ chẳng hạn như từ jiang
(giang), có nghĩa là sông. Những tàn tích về người Việt có thể quan sát được
trong một số nhóm thiểu số ở Trung Hoa.
Ở Chiết Giang, nhà hát được gọi
là rạp diễn Việt kịch. Tiếng Việt là một bộ phận của tiếng Trung Hoa và thường
được gọi là tiếng Quảng Đông. Mẫu tự chính thức và các phương ngữ hình thành từ
nó được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hồng Kông, Ma Cao và tại một
số cộng đồng Hoa Kiều trên thế giới.
Một số tên gọi khác của người
Việt còn truyền được tới nay là Yi-Yue (hoặc Yu-Yue/ Ngải-việt), Mân-việt,
Sơn-Việt, Dương-Việt (người Việt ở biển), U- Việt và Câu-Ngô. Những nhà nghiên
cứu tiếng dân tộc cho rằng tên gọi người Việt có liên quan đến nghề chế biến
cây gai dầu ở miền nay là Chiết Giang.
Chữ Việt cũng được xem là từ chỉ
lưỡi phủ việt, một dụng cụ hay khí giới giống cái búa hay cái rìu, hình chữ
nhật, biểu trưng cho quyền lực hoàng gia hay đế chế. Nhiều dụng cụ dạng rìu
bằng đá đã được tìm thấy ở Hàng Châu, do vậy, nhiều học giả cho rằng lưỡi việt
(búa dùng trong nghi lễ) là một sáng chế của miền Nam. Chữ Việt cũng từng được dùng
để chỉ Quảng Đông và Quảng Tây [4] .
Cho dù nhiều bộ tộc Việt vẫn thấp
thoáng đó đây trên lãnh thổ CHND Trung Hoa và để lại những dấu ấn trong sử sách
đến cuối đời Hán, nay chỉ có thể kể tên vài nhóm dân Việt như Palyu “Lai",
Bugan “Hualuo hay Huazu”, Bit, Bulang, Hu, Kemu, Khuen, Wa... Di sản lớn nhất
của người Việt cổ chính là miền Bắc Việt Nam, miền đất mà họ chạy về đó định
cư do sự truy bức của Trung Hoa.
Về các tộc thiểu số khác ở khu
vực nay là biên giới Trung Việt, theo sách của S. Robert Ramsey. Những ngôn ngữ
của Trung Hoa (The Languages of china) tr. 233, không chỉ có Hakka (Khách gia,
miền nam gọi là Hẹ), Mân và người Quảng Đông, là những người ở miền Nam Trung
Hoa từ đầu, mà từ lâu đời người Thái đã thấp thoáng đóng một vai trò có qui mô
ngay trước khi một thiên hạ Trung Hoa lộ rõ. Từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất
trước công nguyên, những khu vực trồng lúa đã lốm đốm xuất hiện ở lưu vực sông
Dương Tử. Vẫn theo S. Robert Ramsey, trong số các tiểu quốc được điểm tên trong
lịch sử Trung Hoa có Ngô, ở gần Thượng Hải hiện nay, và Việt nằm dọc theo bờ
biển Nam Trung Hoa, là những quốc gia của người Thái. Các quốc gia này dần dần
bị Trung Quốc nuốt dần và đa số người Thái đã trở thành người Trung Hoa, qua
đồng hóa về văn hóa và ngôn ngữ. Một nhà dân tộc học đã ước tính rằng ít nhất
60% người Quảng Đông có tổ tiên là thổ dân nói tiếng Thái.
Về các vùng khác thuộc miền Nam
Trung Hoa nói chung: miền Nam Trung Hoa trước thời Hán bao gồm nhiều nền văn
hóa gần với Đông Nam Á như văn hóa Đông Sơn. hoặc những nền văn hóa nổi tiếng
hơn như Ngải, Di hoặc Ba Thục. Trong đó, văn hóa Điền ở Vân Nam thể hiện những
cư dân khác sau thời đồ đồng. Xứ Vân từng cho thấy mối liên hệ về các nhóm
người phương Nam
với những bức tranh trong hang vẽ pháp sư (saman) khua gươm cong, chuôi có núm
tròn kiểu Hán, thể hiện quyền lực trên đầu một đám đông. Người Hán từng có tục
xăm mình để trấn áp những chứng bệnh nhiệt đới cũng như những cừu thù trong
thời gian chiếm đóng những vùng đất thù địch.
Ở Vân Nam, văn hóa hiện đại của địa
phương này không có nhiều liên hệ với nền văn hóa thuần Hán của vùng đồng bằng
trung tâm cả về tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực. Ở Vân Nam, còn tồn
tại tục ăn côn trùng.
Những nguồn và ý kiến trên thường
thuộc về các nhà nghiên cứu phương Tây, ít gây tranh cãi hơn so với những ý
kiến dưới đây.
Nhóm thứ nhất (người Trung Hoa,
đa số là ở lục địa) cho biết một số phát hiện và khẳng định sau:
Người Quảng Đông cách đây 2.000
năm là sự pha trộn giữa người Việt tại chỗ và người Hán. Người Việt lúc đó gần
với người thiểu số dân tộc Nùng hiện nay ở Việt Nam.
Vương quốc Nam Việt gồm những cư
dân người Kinh (?) sống ở đó nhưng họ là người Trung Hoa. Quảng Đông và Quảng
Tây cũng như quốc gia cổ Nam Việt, không có quan hệ với dân tộc hiện nay mang
quốc hiệu Việt Nam.
Hoặc họ (người Trung Hoa ở phương Nam) không có quan hệ gì với người Nam Việt,
cho dù Triệu Đà, vua Nam Việt lúc đó là người Hán.
Trong khoảng 100 năm gần đây
người Hoa di cư xuống Việt Nam
là từ Lưỡng Quảng và Phúc Kiến. Người Hán phương Bắc, theo nhóm thứ nhất, hầu
như không di cư xuống Việt Nam,
họ chỉ chạy sang Nam Triều Tiên vào năm 1949 và định cư chủ yếu ở Pusan và Seoul.
Người Hoa di cư xuống phía Nam thường
không phải là người Hán. Họ tự gọi mình là người Minh Hương, hiện ở Việt Nam
còn thế hệ thứ tư của những người Minh Hương, phần nhiều không nói, viết được
tiếng Hoa.
Người miền Nam Trung Hoa có ngoại
hình khác với người Trung Hoa phương Bắc. Nhà Nguyên Mông chia người Trung Hoa
thành các nhóm: Mông, du mục người Hán phương Bắc, người Hoa phương Nam. Một vài ý
kiến cho rằng người Trung Hoa phương nam có ngoại hình phần nào giống với người
Việt Nam.
Nhiều người Quảng Đông hiện đại
còn giữ được gia phả theo đó tổ tiên của họ di cư từ phía bắc xuống Quảng Đông
vào đời Đường (618-907) và đời Tống (960-1279). Cuộc di cư lớn nhất xảy ra vào
cuối đời Tống, họ cư trú ở nơi mà người Nam Việt đã bị đẩy xuống Quảng Tây hoặc
Việt Nam hiện nay, nơi mà khi đó những người Choang là thiểu số so với người
Kinh chiếm đa số.
Người Trung Hoa ở phương Nam hiện nay
nói chung đã bị Hán hóa.
Còn có trên 50 triệu người thuần
huyết thống Nam Việt hiện ở Quảng Tây và Quế Lâm.
Những người thổ dân thuộc các bộ
tộc thiểu số Lê, Tày, Đai..., được chính phủ Trung Hoa xếp vào cùng nhóm với
người Choang, nhóm này có tổng dân số trên 20 triệu người.
Không có nhiều người Quảng Đông
sinh ra ở Việt Nam. Cộng đồng Trung Hoa ở Việt Nam chủ yếu là những người nói
tiếng Triều Châu (Tiều) hoặc Phúc Kiến [5] .
An Dương Vương (Thục Phán), Triệu
Đà, cũng như anh hùng dân tộc của Việt Nam Lý Bí, đều là người phương Bắc Trung
Quốc.
Nhiều ý kiến của nhóm thứ nhất
thường nhấn mạnh rằng họ là những người Quảng Đông thuộc về hệ Hán, hiện chiếm
đa số ở khu vực Lưỡng Quảng, và "rất tự hào về nguồn gốc Hoa Hạ và Đông Di
của mình", hiện chung sống với "các dân tộc thiểu số” đáng yêu có nền
văn hóa rực rỡ, danh giá thuộc về giòng dõi Nam Việt. Rằng đa số người Trung
Hoa hiện đại không cho rằng nước Nam Việt lúc đó gần với Âu Lạc (được xem là
nằm trong vương quốc Nam Việt) hơn là gần với Trung Hoa. Rằng những người Việt
Nam hiện đại kém hiểu biết cần được dạy dỗ, rằng họ chỉ có quan hệ với Âu Lạc,
nhưng không có quan hệ gì với vương quốc Nam Việt. Cổ sử Trung Hoa, theo họ
chép rằng những người Hán đã tàn sát và đánh đuổi những bộ lạc Việt về phía Nam
và xuống đồng bằng sông Hồng trong "các cuộc chinh phạt cướp đất". Có
ý kiến khuyên người Việt không nên tự hào về dòng dõi Nam Việt vì đây chính là
giống Nam Man [6] . Một số ý kiến cho rằng người Việt nhìn chung là “bội
bạc", "quanh co”, đàn ông Việt Nam không chăm chỉ và không chú trọng
xây dựng gia đình theo khuôn mẫu Á đông. Có ý kiến lại cho người Việt là đần
độn và khờ dại. Cũng có ý kiến cho rằng người Việt hiện đại xấu hổ (?) vì dòng
dõi Bách Việt và tìm cách “leo thang" để gắn mình với người Quảng Đông và
người Trung Hoa. Và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ không được người Mỹ ưa chuộng(?)
Xin nêu thêm một số phát hiện đến
từ cả hai nhóm và các nhà nghiên cứu phương Tây:
Nhà Tần (221-206 tCn) cũng có
truyền thuyết về con chim thần (tựa như Âu Cơ).
Có nhiều người Việt cổ bị đồng
hóa thành Trung Hoa nhiều năm trước đây. Chẳng hạn họ Âu-dương đến từ đất Lư
Lăng của vương quốc Việt cổ. Có một hoàng tử Việt mang họ này bị nhà Chu bắt.
Hậu duệ của ông, một sử gia nổi tiếng nhà Tống mang họ này. Hiện nay, ở một số
tỉnh miền Nam Trung Hoa còn nhiều người mang họ này. Một số người Quảng Đông
cũng mang họ này. Sử gia đời Tống Âu-dương Tu cho rằng người Việt có cùng một
tổ tiên với với người [Hoa?] Hạ, một quan điểm bị nhóm thứ nhất của Diễn đàn
này phê phán.
Các khu vực Tứ Xuyên, Quảng Tây,
Quảng Đông, Vân Nam từng có nền văn hóa riêng và dân cư khác biệt, không in dấu
lên triều đình Hán hay các nghi thức đặc trưng cho đế chế Trung Hoa.
Quảng Châu được Ngô vương Tôn
Hạo, vua thứ tư nhà Đông Ngô, chắt của Tôn Quyền, chia tách từ Triều [?] Châu [7]
vào năm 264.
Có lượng đáng kể của dòng máu
Trung Hoa trong huyết quản người Lạc Việt và U Việt. tức là người Việt hiện
đại.
Những người U Việt thuộc nhóm
Bách Việt, bị nhà Thanh (1644-1911) dồn đuổi xuống lãnh thổ Việt Nam. Chuyện
chín chúa tranh vua" (Cẩu chúa cheng vùa) của các dân tộc Tày, Nùng… có
thể là minh họa cho sử liệu này.
Khái niệm “Hán hóa” từng thuộc về
những đường biên giới cổ đại thật xa lạ với hiện nay. Không thể xem là những
tộc người thiểu số đang không được đãi ngộ ở CHND Trung Hoa, cho dù một số
trong họ đã biến mất trong những triều đại phong kiến sau cùng. Miền Nam Trung
Hoa từng thuộc những tộc người thiểu số hiện cung cấp một ít di sản phục vụ cho
du lịch. Không nên nghĩ rằng tất cả công dân Trung Hoa thực thụ hiện đang cố trở
nên càng giống Hán càng tốt. Những dị biệt về tính cách sắc tộc và văn hóa vẫn
còn tiềm tàng ở CHND Trung Hoa, thể hiện cả ở nét mặt của những người không
phải dân tộc Hán. Những khu vực như Tân Cương hay Tây Tạng về cốt lõi văn hóa
vẫn cho thấy sợi chỉ mỏng manh của bản sắc văn hóa và cho thấy rõ ràng nên xem
xét cư dân hoặc sở hữu đất đai (!) có thể xem là hoàn toàn Trung Hoa hay không.
Sự hiện diện trước đây của những thổ dân không phải người Trung Hoa có thể thấy
rõ trong những tài liệu khai quật được. Nhưng công nhận hay không công nhận
điều này cũng không thể xem như lý do để chuyển sang đề tài chính trị. Càng
không phải duyên cớ để các khu vực khác khoanh vùng để đòi lại… (đây là ý kiến
từ phương Tây).
Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở
Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of
Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA)
chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa
(Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN.
Một ý kiến đáng chú ý từ nhóm thứ
hai - chủ yếu gồm người Việt hải ngoại, kể cả những người di tản sau năm 1975,
trong đó có cả người Việt gốc Hoa - không gặp phải phản kháng của nhóm thứ
nhất: Việt là từ mà người Hoa Hạ gắn với thổ dân khu vực đông nam của Trung Hoa
mà họ gặp phải. Định nghĩa khái lược này hợp với một địa bàn rất rộng ở Đông
Nam Á… bao gồm ngoài đông nam Trung Hoa còn bao gồm Tây Nam nước này. Đông Nam
Á xét về vị thế, Đông bắc Ấn Độ, các đảo trên Thái Bình Dương, và Madagascar.
Dân này nói tiếng Austronesian, Tai-Kadai, Austroasiatic và Hmong-Mien
(Mon-Khmer).
Ghi chú :
[1]Người dịch tổng hợp và chú
thêm niên đại để người đọc tiện theo dõi. Chú thích trong bài là của ban biên
tập Xưa & Nay. Chú thích của talawas để trong [].
[2]Theo một nguồn nữa, các bộ lạc
không phải người Hán gồm: Hoa Di (thuộc bộ tộc Lô Lô) hay Xu và Việt ở phía
đông, Khuyển Nhung ở phía tây, Di ở phía bắc, Pu, Khương và Man ở phía tây nam
và phía nam.
[3]Theo một Website phương Tây
được công nhận rộng rãi [?], nước Ngô cũng là một quốc gia của người Việt nằm ở
nam Giang Tô và bắc Chiết Giang. Giới quý tộc của hai quốc gia này học tiếng
Trung, thuận theo pháp luật Trung Hoa và học theo công nghệ quân sự Trung Hoa,
phát triển giao thông thủy là chính, và nghề nuôi trồng thuỷ sản, chứ không chỉ
làm thuần nông nghiệp. Hai nước này cũng nổi tiếng về nghề đóng tàu và tác
chiến trên sông nước, cũng như nghề làm gươm. Vào thời Chiến Quốc, hai nhà nước
Ngô và Việt, bắt đầu can thiệp mạnh hơn vào chính trường Trung Hoa. Năm 506
trCn, chiến tranh bùng nổ giữa Ngô và Việt, lúc ác liệt lúc lắng dịu trong suốt
30 năm sau. Tới năm 473 trCn, Việt Vương Câu Tiễn chiếm được Ngô, được các lân
bang là Tề và Tấn công nhận. Năm 333 trCn, đến lượt Việt bị Sở thôn tính.
[4]Như khái niệm biên khu
Việt-Quế được dùng khoảng giữa thế kỷ XX, bên kia biên giới là hai tỉnh Lạng
Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.
[5]Được phương Tây xem là những
nhánh của ở phương Nam có liên hệ với Hán tộc. Tuy nhiên, một trang Web thông
dụng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ phương Tây [?] cho rằng tiếng Phúc Kiến và
Triều Châu là phương ngữ phụ trong tiếng Mân.
[6]Là một trong số các dân tộc mà
người Hán coi là mọi rợ (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Xin lưu ý ở
trên có ý kiến của người Quảng Đông hiện đại thể hiện sự tự hào là người Đông
Di.
[7][có thể ông LĐH nhầm. Sau khi
Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu
gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân,
nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu
là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết
chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu
như cũ, phong Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành
Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu
(trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ
Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu
vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng
Đông) ngày nay.
Lê Đỗ Huy lược thuật
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33
Dùng bản của talawas
Nguồn:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11672&rb=0302
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7633
Theo: Googletienlang2014
*****