* Tác giả gửi bài trực tiếp cho VNTB
Trước Pháp cai trị: địa chủ phú nông là số ít
Làng
 quê miền Bắc tồn tại lâu đời với những tuổi sử khác nhau, theo từng 
vùng khác nhau. Miền núi rừng, trung du có tuổi đời lâu nhất, từ một đến
 hai nghìn năm với dấu tích chứng minh… Còn quê tôi thuộc vùng đồng bằng
 sông Hồng, sớm nhất cũng trên nghìn năm. Làng tôi ở tỉnh Hà Đông cũ với
 tuổi thọ tối thiểu ước chừng 800 tuổi, chính thức thành lập từ thời nhà
 Mạc. Cụ đại tướng thời ấy vốn là người nơi khác đến ngụ cư ở làng lúc 
ấy chỉ có vài chục nóc nhà. Sau cụ đi lính làm nên đại tướng thành danh 
được vua nhà Mạc cấp cho cả một cánh đồng rộng lớn nay bao trùm ba xã. 
Cụ kêu gọi người tứ xứ đến ở. Lần đầu cụ chia đất cho từng hộ theo nhân 
khẩu. Phần còn lại gọi là đất công (công thổ và công điền) dùng để cho 
thuê thu hoa lợi hoặc thu tiền theo phần trăm làm quỹ công, xây đình 
thờ, nuôi ông từ và chi phí thờ cúng cụ về sau… Thế là thành làng. Ngày 
nay làng tôi cũng như những làng tương tự còn có đình thờ cụ, gọi là 
đình thành hoàng, hằng năm có ngày giỗ chung gọi là hội làng. Đình làng,
 cổng làng có ghi năm tháng chữ Hán hoặc Nôm đắp
 nổi, khắc chìm nên đã trở thành dấu tích tuổi sử rõ ràng. Còn trước đó 
làng tôi đã tồn tại bao nhiêu năm thì hầu như không có dấu tích lịch sử,
 văn bản, sổ sách gì cả.
Trải
 qua năm tháng, số ruộng các hộ dần dần chênh lệch với nhau. Do nhân 
khẩu sinh sôi nảy nở từng hộ không đều nên sự chênh lệch ruộng đất là tự
 nhiên. Người làm ăn thất bát do trình độ kém, lại gặp khó khăn, rủi ro 
đột xuất như ốm đau, cho con đi học xa, xây nhà.v.v…thì bán bớt ruộng. 
Người có tiền mua lại, lâu dần thành phú nông, địa chủ.
Đia
 chủ phú nông trước hết là người làm ruộng giỏi hơn người khác và hoặc 
gặp may hơn người khác qua một vài mùa vụ, do đó có tiền dư mua đất 
người khác.
Người
 có tiền mua đất cũng có thể là người có nghề thủ công, dịch vụ, sống 
tằn tiện mà có vốn. Người dư tiền mua đất có thể là người có chí đi buôn
 chuyến phương xa.v.v..
Về
 quan hệ giữa người dân trong một làng, tục ngữ có câu “phi nội tắc 
ngoại”, nghĩa là nhà nọ với nhà kia dây mơ rễ má, dường như mỗi nhà đều 
có một quan hệ bà con gần xa với nhà khác. Mặt khác do chính sách ruộng 
đất, ai đi lấy chồng, lấy vợ làng khác thì bị thiệt thòi nhiều mặt, 
trong đó có phần đất chia. Do vậy lấy chồng cưới vợ cùng làng là nhu cầu
 phổ biến. Cho nên tình làng nghĩa xóm rất gắn bó. Thi thoảng cũng có 
người làng khác đến định cư, do hôn nhân, do mua được đất ở, thường là 
bị phân biệt đối xử một chút, lâu dần mới thành người làng. Có câu “ma 
cũ nạt ma mới” là vậy.
Những
 nhà giàu có tiền dư sẽ cho vay kiếm lời. Những nhà gặp khó khăn khi cần
 đến nhà họ hỏi vay, nếu thân thích đủ mức độ thì hợp đồng miệng, nếu 
không thì thế chấp bằng khế ước ruộng, vườn. Mức độ vay lãi tùy thuộc 
thỏa thuận.
Khi người vay chẳng may đáo hạn không thể trả nợ được thì đành giao đất cho chủ nợ.
Địa chủ có cướp đất của nông dân không?
Cướp đất ngày xưa không phải dễ, bởi vì nó không được “luật hóa” như thời cộng sản.
Tục
 ngữ có câu “Nó lú nhưng chú nó khôn”. Người dân nghèo có thể dốt chữ 
nhưng khi cần họ cũng biết đi hỏi người hiểu biết luật pháp. Làng nào 
cũng có những thầy đồ nho thường làm cố vấn ngầm cho người thất học. Mặt
 khác, quan hệ chằng chịt giữa các hộ trong một làng, như đã nói trên, 
là quan hệ “phi nội tắc ngoại”, bao trùm cả những nhà địa chủ phú nông. 
Đó chính là một nét bền vững cố kết độc đáo của làng quê Việt Nam (miền 
Bắc) hình thành dần dà qua nhiều thế kỷ. Sự phân biệt giai cấp bị chìm 
dưới quan hệ họ hàng thân thích nội ngoại, thông gia. Bởi thế tục ngữ 
lại nói “vuốt mặt phải nể mũi” chính là áp lực tinh thần ngăn kẻ giàu 
mạnh có ý định xấu với người làng (cho dù “mạnh vì gạo bạo vì tiền”). 
Lại nữa, nhà giàu thường muốn yên thân, họ biết rằng không nên dồn kẻ 
khó đến bước đường cùng, họ sợ trả thù với nhiều cách, cùng lắm như kiểu
 Chí Phèo làng Vũ Đại … Tục ngữ lại nói “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ thứ 
nhì sợ kẻ cố cùng liều thân”.
Tuy
 nhiên chắc hẳn cũng có những địa chủ hành xử thất nhân thất đức. Thời 
nào chẳng có kẻ giàu vật chất mà nghèo lương tâm. Nhưng bọn họ vẫn là số
 ít.
Giai đoạn từ khi chính phủ Pháp thực dân cùng Nam triều đồng cai trị cho đến CM tháng Tám
(ước khoảng hơn nửa thế kỷ)
Quan hệ xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của người Pháp ngày càng phức tạp hơn.
Người
 dân đương nhiên dần dà tham gia bộ máy chính quyền thuộc địa và quân 
đội Pháp. Con nhà phú nông, địa chủ thì đi sĩ quan, đi học cao để làm 
công chức. Con nhà bần cố nông thì đi lính, đi công nhân mỏ, đi làm thợ giao thông cầu đường, đi phu đồn điền Nam kỳ.
Buôn bán phát triển, một bộ phận nhà phú nông địa chủ có vốn đầu tư buôn bán, càng giàu hơn. Họ chuyển ra Hà Nội, Hải phòng và các thị xã lớn để làm người tư sản. Tuy nhiên đại bộ phận vẫn là địa chủ truyền thống (phát canh thu tô).
“Thuế thân” là hình thức tàn nhẫn của chính quyền Pháp và Nam triều.
Phần
 lớn địa chủ Việt Nam thật ra chỉ là trung nông lớp trên, họ có trực 
tiếp tham gia lao động, họ có học thức tuy chỉ ở mức tiểu học hay trung 
học, con cái thường là viên chức tiểu tư sản. Rất đông số này đóng góp 
cho Tuần lễ Vàng, quỹ Kháng chiến, đi dân công hỏa tuyến (do có xe bò, 
xe đạp, thuyền nhỏ), con em tham gia Quân đội Nhân dân. Cho nên sai lầm 
CCRĐ gò ép số địa chủ ác ôn theo tỷ lệ như ở Trung Quốc, đặc thù sản 
phẩm của chế độ Quốc Dân Đảng, là một điều ngu dại chết người. Không 
những người bị giết là người yêu nước, tham gia kháng chiến chống Pháp, 
đa số lại là thành viên Mặt Trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, quá nửa là
 đảng viên CS. Tất cả lại là những người làm nghề nông giỏi, giàu kinh 
nghiệm. CCRĐ đã giáng đòn hủy diệt trúng vào giá trị tinh hoa xã hội 
phong kiến-nửa thực dân, tinh hoa sản xuất, tinh hoa văn hóa ở nông thôn Việt Nam.
Cuộc
 CCRĐ ở Việt Nam đầy cảm tính đã diễn ra lai rai từ 1946 đến cao trào 
1953- 1956 dưới ảnh hưởng thúc giục ráo riết của Trung Quốc, đã gây ra 
bao thảm cảnh oan ức và làm sa đọa bản chất cần cù lương thiện của người
 nông dân miền Bắc ngàn đời. Khẩu hiệu “vô sản vùng lên chỉ mất xiếng 
xích và được tất cả” mang đầy tính man rợ bơm chất men say cho các Đội 
cải cách ngu dốt, say máu đố kỵ và trả thù ra tay bất chấp thiên lý, đạo
 lý dân tộc. Cuộc sửa sai qua loa đại khái và hậu họa của CCRĐ quy thành
 phần còn làm bại hoại thân phận con cháu địa chủ phú nông dài dài cả 
nửa thế kỷ sau nữa. Ngày nay Đảng cộng sản còn mắc món nợ đó với nhiều 
người chưa trả trọn vẹn.
Truyện
 ngắn “Tắt đèn”, phóng sự “Việc làng” của nhà nho làm báo tây Ngô Tất 
Tố, truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan… 
viết trong phong trào Mặt trận dân chủ 1936-1939. Dòng văn học này được 
gọi là “hiện thực phê phán”. Thực chất các nhà văn đồng thời nhà báo 
nhắm sẵn chủ đề nên ngòi bút thiên vị bênh vực nông dân, đả kích địa 
chủ, ít nhiều chưa đạt tới sự công bằng chính trực như một nhà văn hiện 
thực chân chính. Trong số đó chỉ có nhà văn Nam Cao giữ được cây bút 
ngay ngắn, tương đối khách quan lạnh lùng. Nhà báo Ngô Tất Tố có thể 
ngẫu nhiên nghe được câu chuyện gia đình chị Dậu, anh Dậu bị bắt giữ vì 
thiếu “thuế thân” đóng cho người em trai đã chết, rồi gia công thành 
truyện vừa “Tắt đèn”. Đó chỉ là chuyện cá biệt, hãn hữu… Nhưng khi tạo 
thành tác phẩm văn học thì mặc nhiên gây ấn tượng cho các thế hệ sau, 
rằng tình trạng đó là phổ biến, là bản chất chế độ phong kiến thực dân 
(!)
Hỡi
 ôi văn học thực là lợi hại (lợi và hại khôn lường). Trong số nhà văn 
hiện thực, chỉ có nhà văn Nam Cao viết tỉnh táo nhất, ông chỉ ra cuộc 
sống phong kiến tù túng, do
 phương thức sản xuất này đã lỗi thời khiến người dân sống mòn mỏi, chứ 
không biến động dữ dội đầy trắc trở như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan 
viết (hai ông viết với phong cách giật gân kiểu báo chí “lá cải” thời 
Tây, bởi vậy giới nghiên cứu văn học hiện đại đánh giá Nam Cao mới là 
nhà văn hiện thực đỉnh cao nhất).
Nhiều
 thế hệ sinh sau 1954 bị nhà trường nhồi nhét mấy tác phẩm văn học phiến
 diện năm này qua năm khác, được mặc định đó là bản chất địa chủ phong 
kiến “áp bức bóc lột”.
Hôm
 triển lãm CCRĐ ở Hà Nội số 25 Tông Đản, có một ông khách dáng dấp vẻ 
cán bộ nghỉ hưu trả lời phỏng vấn báo nhà nước “Tôi chỉ đọc truyện Tắt 
Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, bây giờ mới nhìn thấy tận mắt …” và cười hể 
hả (!?). Nhiều triệu người lớn tuổi kể cả có học thức ắt cũng hiểu về 
chế độ phong kiến và địa chủ đơn sơ như ông khách xem triển lãm đó vậy.
Lại nhớ có lần anh chàng nhà thơ trẻ con Trần Đăng Khoa năm ấy là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội
 được chúng tôi liên hệ mời từ Hà Nội vào Trường Đại học An Giang giao 
lưu với sinh viên hai ngày. Anh ta nhắc đến truyện Tắt Đèn và chém gió 
với SV. “Chị Dậu cớ sao lại tiếc cái thân mình trinh tiết mà nỡ lòng bán
 con Tý cho vợ chồng Nghị Quế để cứu chồng bị trói ở sân đình vì thiếu 
món thuế thân của em chồng?” (…) Ấy thế mà SV của chúng tôi vỗ tay rần 
rần… Anh chàng Khoa bây giờ là bí thư đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam 
đấy. Anh ta không biết mình đang lý luận kiểu tư biện. Anh ta thiếu một 
thực tế rằng chị Dậu bán con Tý cho nhà giàu trước mắt để cứu nó, để nó 
được an thân, khỏi chết đói. Anh ta làm thơ dưới sự chỉ dẫn của Tố Hữu 
thì hiểu sao được tấm lòng người mẹ.
Nhà
 nho Ngô Tất Tố thực ra có nhiều công lao về dịch thuật Hán cổ văn để 
nâng cao dân trí hồi đầu thế kỷ 20. Nhưng đa số người bình dân và giới 
học sinh nhiều thế hệ sau 1954 xa lánh cổ văn, chỉ biết có truyện “Tắt 
đèn” nên đã sai lệch nhận thức như bao thế hệ đời sau. Nếu còn sống, cụ 
Tố hẳn phải ân hận vì truyện của mình gây tội lỗi cho bao thế hệ, cho dù
 cụ rất vô tình. Nhà nước đền công tuyên truyền cho cụ Tố bằng một con 
đường mang tên Ngô Tất Tố ở Hà Nội hay Sài Gòn gì đó.
Chao ôi văn học thực là lợi hại (lợi và hại) !
Nhà
 cầm quyền bao giờ cũng biết tận dụng mặt trái của văn học để trục lợi. 
Truyện Tắt đèn được đưa ngay vào sách giáo khoa phổ thông suốt mấy chục 
năm trời gây ra ngộ nhận sâu sắc cho bao thế hệ dân miền Bắc.
Trong
 Tuyên ngôn đảng cộng sản gồm 4 phần, ông Mác dành cả phần III để viết 
về “Văn học cộng sản chủ nghĩa”, hẳn không phải ngẫu nhiên.
Địa chủ mới, tài chủ mới sau 1975 - họ là ai?
Tài
 chủ hay “địa chủ mới” hầu hết là quan chức đảng viên, sau Đại hội Đảng 
6, họ triệt để lợi dụng dấu hiệu mở cửa toang hoác về kinh tế nhưng vẫn 
đóng cửa chặt về cơ chế chính trị.
Không
 kể giới doanh nhân mới nổi nhạy bén bỏ vốn mua đất đai theo quy luật 
kinh tế thị trường tự do. Chuyện này là bình thường không có gì phải 
bàn.
Giới
 địa chủ, tài chủ quan chức của Đảng như những “bầy sâu” (lời chủ tịch 
nước Trương Tấn Sang) mới là điều đáng bàn. Bầy sâu này ăn đất, tích lũy
 đất và tiền bạc như thế nào? Sơ bộ các loại sâu ấy thường dùng các thủ 
đoạn như sau:
1.   Quan chức có quyền lực: thu tiền hối lộ, biếu xén, bỏ tiền ra mua gom đất.
2.   Quan
 chức có đặc quyền sinh đặc lợi: ở cấp tỉnh thành huyện có quyền quy 
hoạch đất đai, công trình, đường xá. Họ giữ bí mật quy hoạch, tung tiền 
mua đất giá rẻ. Thiếu vốn, họ dễ dàng vay ngân hàng bằng tín chấp (chức 
vụ cao ở địa phương là tín chấp). Giám đốc ngân hàng thường là đảng ủy 
viên ở địa phương từ cấp huyện trở lên, quan hệ móc ngoặc với quan chức 
khác.
3.   Sự
 móc ngoặc giữa các quan chức tỉnh thành huyện đan kết như mạng nhện, 
trao đổi mọi thứ “sản phẩm” không tên mà bây giờ đám ấy gọi là “Nhóm lợi
 ích”.
4.   Quan chức quyền lực thu được lợi ích từ các dự án ở địa phương, thu hoa hồng %.
5.   Quan
 chức mở tiệc sinh nhật, tân gia, cưới hỏi, con vào đại học. v.v… để thu
 gom quà của cấp dưới hoặc giới bạn hữu có quan hệ móc ngoặc.
6.   Quan chức bổ nhiệm cán bộ dưới quyền theo dịch vụ “chạy chức” tinh vi.
7.   Từ
 chỗ có vốn, họ mở ra các công ty sân sau, cho con cháu họ hàng đứng tên
 kinh doanh, lợi thế lấn át cạnh tranh không bình đẳng với các cty khác.
8.   Tự
 quy định mức lương khủng cho nhau ở các Tập đoàn kinh tế nhà nước, cty 
các loại (“Hé lộ mức lương"khủng"của các lãnh đạo tập đoàn Nhà nước”.Xem:    http://dantri.com.vn/
    9. Và còn những chiêu thức bí ẩn không tên khác…
So
 sánh cách thức làm giàu của hai loại địa chủ cũ và mới, chúng ta dễ 
dàng thấy địa chủ xưa còn có thể cảm thông. Vì thế, Cải cách ruộng đất 
1946-1957 là sự tàn nhẫn bất công, tước đoạt toàn bộ mồ hôi nước mắt của
 người địa chủ truyền thống, không phân biệt được tính  hợp pháp và phi 
pháp.
Bao
 giờ đến ngày “CCRĐ mới”, công lý hiện đại sẽ chừa lại vốn cho đám địa 
chủ tài chủ mới. Vấn đề phần vốn đích thực của họ là bao nhiêu, đây là 
một vấn đề khó nhưng không phải là không xác minh được.
“Có áp bức là có đấu tranh”
Lãnh
 tụ  Karl Marx ít nhất cũng có được một lập ngôn truyền kỳ các thời đại 
“Có áp bức là có đấu tranh”. Sẽ có một ngày phải tiến hành cuộc thu hồi 
tài sản bất hợp pháp của đám quan chức nhóm lợi ích các loại. Giá như 
ngày xưa miền Bắc tiến hành cuộc
 “thu hồi tài sản bất hợp pháp” đối với đất đai tài sản của phú nông địa
 chủ thay vì “đánh đổ giai cấp địa chủ, trí thức”tước đoạt sạch sành 
sanh mang tính rừng rú thì hợp lý, hợp đạo. (Nếu họ biết làm như chế độ 
Việt Nam cộng hòa đệ I và đệ II ở miền Nam theo phương châm sắp xếp, san
 sẻ lại ruộng đất thì đỡ thảm họa biết bao).
Nếu
 còn có ngày mai, ngày mai ấy sẽ là ngày đám địa chủ mới, tài chủ mới 
thành đạt nhờ công ơn Đảng Bác sẽ phải đối diện với công lý.
Hôm
 24/10/2014, đài VOV1 (đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội) phát
 hai lần một phóng sự rực lửa căm hờn của dân chúng. Những người được 
phỏng vấn đều gay 
gắt yêu cầu nhà nước mạnh tay trừng trị bọn tham nhũng làm giàu phi 
pháp. Nhà báo dẫn chương trình báo tin Trung ương bắt đầu xác minh tài 
sản của cán bộ thuộc diện TW quản lý. Tiếng nói sôi sục của người dân 
trên đài radio nghe phảng phất như tiếng đấu tố hồi CCRĐ.
Bây
 giờ là lúc các nhà kinh tế học hiện đại phải vào cuộc rồi. Và chắc chắn
 sẽ có ngày chung kết, Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế sẽ làm cố 
vấn cho công việc “thu hồi tài sản phi pháp” ở một đất nước cái gì cũng 
“giống như Trung Quốc”.
(Đọc thêm bài viết THU HỒI TÀI SẢN PHI PHÁP của Bùi Tín-
|  | 
| Ảnh 1b: Quần áo của nông dân nghèo hôm nay. Ảnh: Sơn Huỳnh | 
|  | 
| Ảnh 4b: Nhà ông Trần Văn Truyền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ, sở hữu khu đất rộng 10.000 m2 trị giá 15 tỉ đồng chưa kể biệt thự. Ảnh: Sơn Huỳnh | 
