Tại châu Á, Malaysia thực hiện Chính sách kinh tế mới (Dasar
Ekonomi Baru – New Economic Policy (NEP) của Thủ tướng Tun Abdul Razak trong
thời gian từ năm 1971 đến 1990. Sang đến Việt Nam, thời chính quyền Việt Nam Cộng
hòa cũng đã có chính sách kinh tế mới và sau này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
cũng thực hiện chính sách này từ năm 1977 đến 1984.
Chính sách kinh tế mới được thực hiện trong thời VNCH
Tên gọi Kinh tế mới
chỉ là một nhưng mục đích và cách thực hiện lại khác hẳn nhau tại mỗi quốc gia.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ khảo sát đến chính sách kinh tế mới trên
toàn quốc Việt Nam,
đồng thời phân tích những ưu và khuyết điểm trong việc thực hiện chính sách
này.
Về lý thuyết, xây dựng các vùng kinh tế mới là một chính
sách của nhà nước nhằm tổ chức, phân bố lại lao động và dân cư trên khắp lãnh
thổ. Qua đó, nhà nước chuyển một khối lượng lớn dân cư từ các vùng đồng bằng và
thành phố (nơi có mức sống tương đối cao) tới các vùng trung du, miền núi, biên
giới, hải đảo (thường được gọi là vùng ‘khỉ ho, cò gáy’).
Chính sách này được thực hiện tại miền Bắc từ năm 1961 và sau
đó được áp dụng trên phạm vi toàn lãnh thổ từ sau ngày 30/4/1975 cho đến năm
1998. Theo thống kê chính thức, trong suốt 27 năm, Việt Nam đã di chuyển có tổ
chức được 1,3 triệu hộ, trong đó di cư trong nội bộ tỉnh là 702.761 hộ với 3,3
triệu người, từ tỉnh này sang tỉnh khác là 665.930 hộ với 2,8 triệu người.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam ra nghị quyết đại hội về các nhiệm vụ của kế hoạch kinh tế 5 năm lần
thứ nhất, trong đó có đoạn viết: “Phải
phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức
người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các vùng kinh tế, thực hiện sự phân
công phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau”.
Chủ trương này của Đảng Lao động Việt Nam được thực hiện
bằng việc tổ chức di dân từ các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng lên sinh
sống và sản xuất tại các vùng núi và trung du phía Bắc. Mục đích chính là để
‘giãn dân’ nhưng cũng không loại trừ đây là biện pháp nhằm ‘lưu đầy’ những
thành phần tiểu tư sản, kẻ thù của chế độ.
Sau 1975 là các chương trình di chuyển lao động và di dân từ
các tỉnh đồng bằng phía Bắc tới Tây Nguyên (đặc biệt là Đắc Lắc, Lâm Đồng) và
tới miền Đông Nam Bộ (đặc biệt là Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai) theo các chuyến
tầu Bắc-Nam.
Nổi bật hơn cả là cuộc di dân từ Sài Gòn về các địa phương
nông thôn ở miền đông và tây Nam Bộ theo các chuyến xe đò. Người dân Sài Gòn
được cấp tiền vé xe và trang bị cho mỗi lao động hai công cụ sản xuất thích
hợp, thường là cuốc và xẻng, để tự túc làm kinh tế gia đình. Mỗi hộ được mang
theo tối đa 800 kg hành lý. Nếu điểm đến ở xa Sài Gòn thì mỗi ngày phụ cấp thêm
1 đồng tiền ăn dọc đường cho mỗi người.
Cảnh xuống xe đò khi đến vùng kinh tế mới
Trên nguyên tắc, khi đến vùng kinh tế mới, mỗi hộ gia đình
được cấp từ 700 đến 900 đồng để dựng nhà, 100 đồng để đào giếng, 100 đồng mua
ghe thuyền (nếu ở vùng sông rạch). Ngoài ra, còn được trợ cấp 1 đồng mỗi ngày
nếu đau ốm, không thể lao động được; 50 xu mỗi ngày tiền thuốc khi bệnh và 150
đồng để mai táng nếu chết.
Với chế độ tem phiếu thời bao cấp, người lao động trong hợp
tác xã tại vùng kinh tế mới được phép mua 18 kg gạo/tháng theo giá chính thức,
người lao động phụ 16 kg và người không lao động 9kg.
Theo lệnh ngày 19/5/1976, chính phủ đề ra năm hạng dân thành
thị phải chuyển ra vùng kinh tế mới: (1) Dân thất nghiệp; (2) Dân cư ngụ bất
hợp pháp; (3) Dân cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân
nhân chính quyền cũ; (4) Tiểu thương, tiểu địa chủ, đại thương gia và (5) Người
gốc Hoa và những người theo đạo Công giáo.
Kế hoạch
5 năm
|
Chỉ tiêu
|
Thực hiện
|
Trung bình mỗi năm
|
1976-1980
|
4 triệu người
|
1,5 triệu người
|
304.120 người
|
1981-1985
|
1 triệu người
|
1,3 triệu người
|
251.460 người
|
1986-1990
|
1,6 triệu người
|
1,1 triệu người
|
228.520 người
|
1991-1995
|
1 triệu người
|
0,9 triệu người
|
180.400 người
|
1996-2000
|
1 triệu người
|
0,2 triệu người
|
105.350 người
|
Tổng cộng
|
8,6 triệu người
|
5 triệu người
|
239.700 người
|
Khảo sát những con số thống kê nêu trên, ta có thể thấy cao
điển của chiến dịch di dân đi vùng kinh tế mới là kế hoạch 5 năm đầu tiên (1976-1980),
nhưng việc thực hiện chỉ đạt 37,5% chỉ tiêu. Toàn bộ kế hoạch 1976-2000 đạt 58%
so với chỉ tiêu đề ra (kế hoạch di dân 8,6 triệu người nhưng chỉ thực hiện được
với 5 triệu người).
Riêng tại Sài Gòn, chỉ tiêu đặt ra là phải đưa đi vùng kinh
tế mới 1,2 triệu dân. Cụ thể hơn, 5 thành phần nói trên sẽ ‘không vượt quá 10%
tổng số nguyên thủy’, nghĩa là chỉ còn 120.000 người thuộc nhóm này được ở lại
Sài Gòn.
Ngoài lý do kinh tế, việc di dân ra vùng kinh tế mới còn có
chủ ý chính trị để giảm số người thuộc chính quyền Sài Gòn cũ tập trung ở những
đô thị, nhất là vùng Sài Gòn. Rõ ràng đây là một vấn đề thuộc phạm vi ‘an ninh chính
trị’ nhằm loại trừ những phần tử phản động, chống đối.
Phương pháp cưỡng bức dân thành thị đi kinh tế mới bao gồm việc
thu hồi hộ khẩu, rút sổ mua gạo và các nhu yếu phẩm, cộng thêm việc gây khó
khăn trong học tập của con em họ tại các trường trong thành phố. Với những biện
pháp này, nhiều gia đình vì ‘yếu bóng vía’ đã phải miễn cưỡng di chuyển ra vùng
nông thôn nhưng cũng có những gia đình ‘ở lỳ’ tại Sài Gòn dù họ đã bị thu hết
giấy tờ và sống ‘bên lề’ hệ thống cung cấp lương thực của nhà nước.
Đối với thành phần tư sản, việc đi vùng kinh tế mới là kịch
bản nối tiếp của chiến dịch cải tạo công thương nghiệp hay còn gọi là Đánh Tư Sản. Các gia đình tư sản sau khi
bị kiểm kê và tịch thu tài sản thường nhận được lệnh rời khỏi thành phố để đi
xây dựng vùng kinh tế mới. Theo chính quyền, đây là lối thoát duy nhất để ‘đổi
đời’ từ giai cấp tư sản sang giai cấp lao động.
Có những gia đình sau khi lên xe đi khỏi Sài Gòn chỉ ít lâu
sau lại bỏ về thành phố. Nhà cửa không còn, họ tá túc tại nhà bà con hoặc thậm
chí tại các mái hiên, gầm cầu trong tình trạng không hộ khẩu, nhà cửa cũng
không. Nhiều người nghĩ rằng thà lang thang trong thành phố để kiếm ăn còn hơn
sống tại những vùng đất hoang vu không một bóng người.
Căn nhà vắng chủ tại vùng kinh tế mới
Gia đình tư sản thì gom góp của cải còn dấu được sau đợt cải
tạo công thương nghiệp để tìm những ‘đường dây’ vượt biên ra nước ngoài. Họ
chấp nhận rủi ro trên bước đường đào thoát với hy vọng mong manh đến được bến
bờ tự do để làm lại cuộc đời. Chính sách đánh tư sản và đuổi họ ra vùng kinh tế
mới đã dồn người dân đến bước đường cùng là ‘vượt biên’ dù những hiểm nguy đang
chờ đón.
Đối với gia đình có người đi học tập cải tạo, tình hình còn
bi đát hơn. Họ liên tục ‘được’ công an khu vực, tổ dân phố và cơ quan hành
chính cấp phường ‘động viên’ đi vùng kinh tế mới. Có những nơi còn quả quyết,
nếu gia đình đi kinh tế mới, chồng, cha, con, em họ đang học tập trong trại cải
tạo sẽ có cơ hội được về xum họp với gia đình sớm.
Thực tế cho thấy, việc gia đình đi vùng kinh tế mới và việc được
ra khỏi trại học tập cải tạo hoàn toàn không liên quan đến nhau. Đi kinh tế mới
nằm trong kế hoạch quản lý hành chính bằng việc ‘giãn dân’ trong khi đi học tập
nằm trong chủ trương chính trị nhằm cải tạo những thành phần ‘ngụy quân, ngụy
quyền’. Thế nhưng, nhiều gia đình đã ‘ngây thơ’ tin tưởng vào việc đi kinh tế
mới để người thân chóng về từ trại cải tạo.
Bồng bế con đi vùng kinh tế mới
Dưới đây là tâm sự của một bạn trẻ có cha là người đi học tập
cải tạo trở về cùng gia đình, họ ‘tái định cư’ tại một vùng kinh tế mới:
“Nắng và bụi trên suốt
đoạn đường từ Sài Gòn tới Tây Ninh nhưng tôi thấy trong lòng lâng lâng hạnh
phúc vì sau bao năm ly tán, từ đây tôi được gần ba, gần má. Ngồi sau lưng ba
trên chiếc Honda 67, tôi nhìn quang cảnh hai bên đường, nhìn màu lá cây vàng
quạch vì nắng vì bụi mà trông cho mau tới nơi và nhẩm tính số kílômét còn lại
khi xe lướt qua những cột mốc…
“Càng đi, đường càng
xa hun hút chỉ thấy có rừng. Lâu lâu phải xuống xe dắt bộ trên những cây cầu
bắc cheo leo qua các con suối sâu nước cuồn cuộn chảy (nói dại chẳng may mà lọt
xuống là nước cuốn trôi mất tiêu cái xác). Chạng vạng tối mới về được tới lô
nhà tranh mà người ta cấp cho ba ở trong thời gian quản chế…
“Để được cấp một căn
nhà như vậy cần phải hội đủ số nhân khẩu cho nên ba được phép về Sài Gòn đón
tôi lên cho đủ tiêu chuẩn nhận nhà. Thời gian qua phải ở chung với gia đình chú
Bảy, ba thấy chật chội và bất tiện.
Nhà tranh vách đất tại vùng kinh tế mới
Và đây là vùng kinh tế mới dưới mắt cô bé ngây thơ:
“Phải mất nhiều đêm
tôi mới quen được với tiếng bom đạn nổ đì đùng lúc xa, lúc gần. Đó là tiếng nổ
phát ra từ những kho vũ khí ngày xưa. Mấy con chồn đi ăn đêm nhái tiếng gà để
bắt mồi, thoắt nghe vách bên này nó lại luồn qua vách bên kia làm lũ gà con sợ
kêu líu ríu. Buổi sáng tinh sương thức dậy thấy yên lành hơn nhờ có ánh sáng
mặt trời dù đâu đâu cũng nhìn thấy cây cối bị đốn hạ xuống, đốt cháy xém như
than, chất đống chờ mấy đội thanh niên xung phong tới chở đi. Đó đây dấu bánh
xe tải cày xới mặt đường mà mưa xuống tạo thành vô số vũng lầy lớn nhỏ.
“Hằng ngày tôi phụ với
thím Bảy nấu cơm nước cho ba với chú Bảy đi lợp nhà. Thời gian còn lại tập chẻ
lạt, đánh tranh. Tre thì sắc, tranh thì xót, nhưng được cái ham làm nên quên.
Chiều chiều, sau khi đi làm về ba thường hái trái rừng cho tôi. Có bữa cả ôm
nhánh trái ‘sai’ (*) chi chít trái. Thứ sai rừng chát ngầm (nuốt hoài không
xuống cổ) nhưng tôi thích màu vỏ nhung đen thẫm, bóng mượt và hạnh phúc cảm
nhận tình thương mà ba dành cho đứa con gái còi cọc, tóc quăn khét mùi nắng.
“Lâu lâu hết mối cho
gà ăn tôi theo ba vô rừng tìm ụ mới. Hễ bước tới đâu là phải phạt cây hai bên
cho ngã rạp xuống để còn biết lối ra. Thấy ụ mối nào non ba lấy rựa chặt một nhánh
chảng ba chỏng ngược xuống đóng vô làm móc để quảy về, tiện thể dọc đường róc
thêm vài bó tre về chẻ lạt... Mối lần vậy là tôi có dịp ăn sấu rừng. Thứ trái
hột bự bằng ngón tay cái, ngọt ngọt chua chua mà ở thị thành không dễ gì có
được.
“Có lúc tôi cũng thay
ba đi lãnh gạo. Gạo được lãnh mọt ăn trước người nên hột nào cũng rỗng ruột,
nhẹ hều. Nấu một nồi cơm phải dằn độn thêm hai ba lớp. Vậy mà ăn bữa cơm nào
cũng thấy ngon dù đôi khi chỉ là măng le kho với mấy cục bột nêm (cũng được
lãnh) có mùi ngai ngái mà lần đầu tiên ăn vô là muốn ói (xin lỗi, có sao nói
vậy).
“Ở đây cách thị trấn
mấy chục cây số nên không dễ gì tới chợ. Thỉnh thoảng cũng có người gánh tiêu, tỏi,
đường, bột ngọt, bí, bầu.. vô bán. Khi trở ra là cái gánh nhẹ tênh. Ba gởi thơ
biểu má sắp xếp công chuyện ở Sài Gòn xong thì lên liền, sẵn tiện chuẩn bị một
mớ gia vị gói sẵn từng gói lẻ để bày một quầy tạp hóa nho nhỏ trước nhà cho tôi
bán.
“Tôi đợi hoài cái hôm
má lên. Nhìn từ xa, má mặc áo bà ba xám, đội nón lá, gánh theo đôi thúng nặng
trĩu vai (giống như bất kỳ hình ảnh nào của người phụ nữ đồng quê Việt Nam,
tận tụy, tảo tần và chung thủy). Buông gánh xuống, giở nón quạt quạt. Má cười
đón hai cha con. Sau bao năm gia đình ly tán, vất vả thăm chồng, nuôi con, trải
bao biến cố lớn nhỏ trong đời, nụ cười đó vẫn tươi tắn, lạc quan cho đến tận
bây giờ. Là con gái đầu lòng, tôi gần gũi, chứng kiến và hiểu má nhiều hơn ai
hết.
“Nếu có thể viết như
một người cầm bút thì tôi tin rằng những câu chuyện của má sẽ là một quyển
truyện dài với vô vàn chi tiết sống thật hay mà tác giả khỏi cần phải nhọc công
hư cấu. Ba má tôi là người cùng quê. Tôi thường tủm tỉm cười khi nghe chuyện
tình của Ba Má mình: "Hồi đó má mầy ở quê, ba đi làm trên Sài Gòn, mỗi lần
nghe Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết hát ‘Em gái vườn quê’ là ba nhớ má mầy quá trời
quá đất.
Một căn nhà tương đối tươm tất tại vùng KTM
“Từ ngày có má lên, ba
như được tiếp sức. Má giỏi việc đồng áng, lại quen chịu vất vả. Sáng sáng má
theo ba phụ dựng nhà, lợp mái. Chiều chiều tôi đón ba má về ăn cơm. Tối tối gia
đình tôi ở gian trong, gia đình chú Bảy ở gian ngoài vọng ra, vọng vô trò
chuyện.
Ba bàn với chú Bảy: ‘Thấy
mấy đứa nhỏ ăn uống kham khổ quá, sẵn có bả lên, tui với anh sắm gàu sòng đi
tát hố bom kiếm mớ cá về cho tụi nó ăn. Hổm nay đi làm ngang qua tui thấy cá
nhảy lên nhảy xuống đớp móng dữ lắm’. Chú bảy chưa kịp ừ hử gì thì đám con của
chú đã reo hò dậy giường dậy chiếu.
Trẻ thơ tại vùng kinh tế mới
“Coi vậy mà công việc
chuẩn bị phải mất mấy ngày mới xong. Ba, má với chú Bảy xếp đặt kế hoạch chu
đáo lắm vì nghe nói đâu cái hố bom chu vi rộng cỡ bằng hai, bằng ba căn nhà gộp
lại, dự trù tát ba ngày ba đêm mới cạn. Đâu đó xong xuôi, sáng sớm ba dẫn đầu
hai gia đình với gàu sòng, dây nhợ, cuốc, xẻng, đèn bão và một cái thùng đựng
cá thiệt bự ra ngoài chỗ hố bom.
“Tôi nhìn cái hồ rộng
mênh mông, nghi ngờ và hỏi thầm: ‘Có thiệt hôn đây? Ba má định tát cho nó cạn
thiệt hả?’. Nghĩ vậy thôi chứ tôi biết tánh ba đâu có bao giờ nói chơi. Có
điều, dám tát cạn cái hố bom nầy thì thiệt là quá sức tưởng tượng.
“Chú Bảy dặn thím Bảy
ở nhà nấu cơm, nấu nước. Tôi với đứa con gái lớn của chú Bảy lo tiếp tế. Hai
đứa con trai của chú thì canh để khai thông đường nước thoát. Hết ngày tới đêm.
Dưới ánh trăng và ngọn đèn bão, ba má với chú Bảy thay phiên nhau tát. Tiếng
nước hắt ra từ gàu sòng trong đêm khuya vắng nghe ầm ầm như tiếng thác.
“Mới có ba ngày hai
đêm đã bắt đầu thấy ló mặt bùn (người ta nói đâu có sai, đồng vợ đồng chồng,
biển Đông tát còn cạn, huống hồ gì là cái hố bom!). Ba, má với chú Bảy ngưng
tát, bắt đầu nhảy xuống mò cá. Đám con nít cũng nhào xuống bóp bùn. Lâu lâu mới
nghe la lên: ‘Được một con!’. Giở lên thấy con cá ‘bự’ cỡ hai ngón tay. Xà quần
dưới lớp bùn hơn một tiếng đồng hồ mà cá ở trong thùng chỉ vỏn vẹn cỡ… nửa ký.
“Thấy ba cứ tiếc nuối
không chịu lên, má giục: ‘Thôi mình đi về!’. Rồi hối tụi tôi trèo lên gom gàu,
dây nhợ, cuốc, xẻng kéo nhau về. Vừa mệt, vừa tiếc công, dọc đường ba rủa...
mấy con cá: ‘Mẹ bà nó! Có mấy con mà cứ nhảy lên nhảy xuống làm tao tưởng
nhiều!’.
Cô gái viết những đoạn văn trên hiện sống cùng gia đình tại
Hoa Kỳ. Xin chia vui cùng cô và gia đình đã chuyển về một vùng kinh tế mới khác với thời thơ ấu ngày nào...
===
(*) Trái sai (hay
còn gọi là ‘trái say’) có vỏ màu đen, mịn như nhung nên còn có tên là ‘trái
nhung’, vị thì chua chua ngọt ngọt, rất hợp với khẩu vị của phụ nữ, nhất là vào
lứa tuổi ô mai. Mùa trái say chín rộ kéo dài từ tháng 7 đến tháng 9 Âm lịch tại
rừng núi huyện K’Bang, Gia Lai nhưng cũng xuất hiện nhiều tại Phan Rang nên đã
trở thành đặc sản của vùng này dưới dạng tươi hay sấy khô.
Trái say
Hàng năm, rất nhiều những người đi thu hoạch trái say trong
rừng, tập trung tại Ka Nát. Họ dùng một cây tre dài rồi đập lên cây (vì cây say
có độ cao từ 3 đến 4 mét) để trái say rớt xuống lược. Cây say rất sai trái nên
có lẽ đó là lý do người ta gọi trái say là ‘sai’, cũng có người giải thích
‘sai’ chỉ là cách phát âm chữ ‘say’ của người miền Nam. Mặc dù rất ngon và đắt
tiền nhưng vì chưa trồng được nên nguồn trái say vẫn dựa vào việc thu hái trong
thiên nhiên. Giá trái say vào cuối vụ có thể lên đến 100.000đ/kg.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)
Nguồn: Chinhhoiuc