» Tác giả: Nguyễn Văn Huy
» Dịch giả:
» Thể lọai: Biên khảo
» Số lần xem: 14042
1. Bài 1: Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè » Dịch giả:
» Thể lọai: Biên khảo
» Số lần xem: 14042
Nguyễn Văn Huy là Tiến sĩ Dân tộc học, giáo sư phụ trách khoa Các Dân Tộc Ðông Nam Á tại Ðại Học Paris 7....Xin
giới thiệu Bài viết rất công phu và có sự nghiên cứu tỉ mỉ (đúng hay
sai trong lập luận nầy, cần phải có thêm các nghiên cứu khác hoặc bổ túc
của các nhà Sử Học) của ông về lịch sử cộng đồng người Chăm. Nguồn tài
liệu phong phú, tuy vài nhận định có vẻ chủ quan mặc dù cố gắng trung
lập, nhưng đáng chú ý là thông điệp nhân bản của ông "Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết". Bài viết được viết khoảng năm 2001, gồm 7 phần :
1. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè
2. Thời kỳ xác định bản thể
3. Thời kỳ mở nước và dựng nước
4. Thời vàng son
5. Thời kỳ xung đột
6. Bùng lên trước khi tàn lụi
7. Cố gắng tồn tại trong khó khăn
2. Thời kỳ xác định bản thể
3. Thời kỳ mở nước và dựng nước
4. Thời vàng son
5. Thời kỳ xung đột
6. Bùng lên trước khi tàn lụi
7. Cố gắng tồn tại trong khó khăn
* * *
Bài 1 : Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè
Chăm
là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân
số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư
tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống
tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.
Cũng
nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống tại
khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000 người), kế
đến mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan (15.000 người) và
cuối cùng là Liên Bang Mã Lai, năm 1979 đã tiếp nhận khoảng 10.000
người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại có khoảng 200 người Việt gốc
Chăm (hơn 50 gia đình), đa số định cư tại Hoa Kỳ.
Tài
liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu. Đa số
các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xã hội trong khi
phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu
vắng, nếu có chăng thì nội dung cũng bị bóp méo để phù hợp với nhu cầu
tuyên truyền của các chế độ đương quyền. Chính vì thế mỗi khi đề cập
tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường có một nhận thức rất mơ hồ,
chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu số ở miền Trung và Châu Đốc
có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín ngưỡng và văn hóa khác với
người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những người lãnh đạo đất nước
cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng chủng tộc đã góp phần tạo
thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây dựng một chính sách dân
tộc phù hợp với ước vọng của từng cộng đồng. Chính vì thế nội dung loạt
bài viết về người Chăm này nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em,
tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng
một tương lai chung.
Người Chăm và các danh xưng
Chăm
là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành
(Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung
trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.
Trước
khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và người
Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống
trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể
các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng
bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác
trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.
Champa
là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương
thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung.
Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn.
Không biết người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình
từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế
kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ
Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà
địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin
tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng
Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế
kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm
Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là
Chiêm Thành (Tchan-tcheng).
Trước
kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những
danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo
cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh
xưng chính xác của người Chăm hiện nay.
-
Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ;
danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu
nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.
-
Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất
thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo
như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý
Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận... Trong nước, những nhà dân tộc học
đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ; điều này đã làm hài lòng
cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi
đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.
-
Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện
một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là
cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn
cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia
là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh
loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong
tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường
nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều,
Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v..., tất cả đều là thần
dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những
giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm
người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những
sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm
khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít
biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người,
dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền
núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.
Chữ
Hời mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi cướp bóc,
vì trong quá khứ người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã
người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới
thời các chúa Nguyễn. Sau này người Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân
gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định là
Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi
Đá Vách.
Ngoài
ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun
có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng
này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người
Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng
biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với những phụ nữ
Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.
Về
ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo
(Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo
phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn
minh, văn hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các dân tộc cùng
hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua những khám phá
khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người Chăm tại Việt Nam không
hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố văn minh và văn hóa
của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.
Trong
thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên
gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương
quốc Champa hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người Chămpa, chứ không
phải tên riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng
bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình
với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành cũ, để phân biệt với các nhóm
Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác
nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm Thành xưa kia là một liên bang đa
chủng và đa văn hóa.
Nền văn hóa cổ Champa
Sau
khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng
duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải
đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì
lâu dài : xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức
xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi
chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn
minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa
Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một
số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và
văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu
tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở
thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở
phía Bắc.
Nhưng
các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ
chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ
cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng
dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ
nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là
họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ
các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với
đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh
chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ
cai trị hữu hiệu và lâu bền.
Luật
Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng
cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người
Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền
văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức
đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam
Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị
và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông
(đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra
từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là
Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc
dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để
bị sai khiến và làm nô dịch.
Tuy
vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa
và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong
những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên
lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới
thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ
của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi
(các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với
nguyên thủy.
Người
Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính
thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ
thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng
chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần
chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển
mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ
4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người
sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ
vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường
vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua
Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo
Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại
Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
Phật
giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không
phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm
quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật
giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và
phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn
đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về
Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa,
Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ
thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu
thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn.
Ngôn
ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn
ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi
với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số
dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần
pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ
ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung
Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào
vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành
nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố
Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính
của người Chăm.
Tại
miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử
dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại
Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận
Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc
Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống,
các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ
người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao
thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên
các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên
nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở
thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký
tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
Lâu
dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ
Phạn cổ thành tiếng "Chăm mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương
quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ
"Chăm mới" và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ "Chăm mới" có nhiều
trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á,
nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
Đạo
Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh
nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo
nhỏ phía đông nam Philippines. Người "Java" (cách gọi chung những nhóm
dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và
thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra
quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ
thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt
đối của nó : không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La
Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông
vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn
giáo nữa. Khi các "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không hành
nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên
miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn
hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện
tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao,
không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
Nhiều
thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán
với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp
nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng
địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì
sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới
gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm
Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra
ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác
biệt so với đạo Hồi chính thống.
Mốc
thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời
vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận
cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali
(trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java)
vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi
cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.
Trong
các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi
giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng.
Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo
Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra
họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng
những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân
và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người
theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo
Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào
vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ
Phạn.
Vị
vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu
Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn).
Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều
vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ
Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng
Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục
và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả
Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải),
người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người
Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại
Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại
Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn,
huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).
Về
sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo
đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định
cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng
Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau
một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo
Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu
Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương
nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những
thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer
Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.
Tại
miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo
dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi,
không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược
lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi
giáo chính thống : tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để
cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong
việc lập gia đình.
Truyền thuyết về các dòng vương tôn
Theo
truyền thuyết, các dòng vương tôn cầm quyền tại Chiêm Thành đều xuất
thân từ hai dòng họ lớn. Mỗi dòng họ lấy một vật tổ (totem) làm biểu
tượng. Dòng vương tôn ở phía Nam lấy cây Cau (Kramukavansa) làm biểu
tượng, những nhà nghiên cứu gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Cau. Dòng
vương tôn ở phía Bắc lấy cây Dừa (Narikelavansa) làm biểu hiệu, gọi là
chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa. Chỉ những truyền nhân xuất thân từ hai
dòng họ này mới được công nhận lên ngôi vua, tức phải thuộc đẳng cấp
Brahman và Ksatriya. Những người dân thường, cho dù có tài giỏi hay anh
dũng đến đâu cũng không được công nhận là vua nếu không chứng minh có
liên hệ huyết thống đến hai dòng họ này, tức phải do một phụ nữ mang
dòng máu vương tôn sinh ra.
Trong
lịch sử Chiêm Thành, nhiều người xuất thân là dân thường phải biện hộ
có thần linh yểm trợ để lên ngôi vua như Phạm Văn (nguyên là một người
chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một người Việt muốn lên làm vua nhưng
không được dân chúng tuân phục) hay nhiều vị tướng khác sau khi đã hạ
đối thủ chính trị.
Thật
ra người dân thường khó giữ được ngôi cao trong xã hội Chiêm Thành vì
không bao giờ có cơ hội, hơn nữa những người thuộc giai cấp vương tôn,
đặc biệt là giới vương tôn nữ phái, chỉ lập gia đình với những dòng
vương tôn với nhau, do đó không có những cuộc hôn nhân không môn đăng hộ
đối và ít có những cuộc hôn nhân dị chủng, dị giáo. Phụ nữ quí tộc
Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp, đa số cung phi của các vua Chiêm
Thành đều xuất thân từ các gia đình quí tộc. Khi một vua Champa cưới
một người vợ ngoại quốc, ông ta chỉ có thể lập gia đình với con gái của
những vua chúa thuộc các vương triều khác, chứ không thể lấy một người
thường dân.
Xã
hội Chiêm Thành tuy theo chế độ mẫu hệ nhưng lại phụ quyền. Trong gia
đình, người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm nhiệm vai trò chọn người kế thừa,
bàn thảo tương lai con cái, chọn chồng cho con gái, đứng ra cưới hỏi,
gìn giữ bàn thờ tổ tiên, giữ gìn hương hỏa. Ngoài xã hội, người đàn ông
có toàn quyền quyết định việc canh tác, giao thiệp và buôn bán, nhưng
chỉ người con trai hay đàn ông nào được sinh ra bởi một người mẹ thuộc
dòng quí tộc mới được chấp nhận làm vua hay giữ vai trò cao trong triều
đình.
Tài
liệu cổ và truyền thuyết Chăm cho biết truyền nhân của những dòng họ
vị vua cai trị vương quốc Champa là hai vị nữ thần được sinh ra bởi nữ
thần Sakti Bhagavati, vợ của Siva : Visitrasaga cho các vua phía Nam và
Uroja cho các vua phía Bắc. Chỉ những người mang dòng máu từ những phụ
nữ này mới được giữ những địa vị cao và nắm giữ vai trò lãnh đạo, con
cháu của họ có thể là những người sinh sống tại đồng bằng hay trên miền
núi.
Hình
tượng Linga (bộ phận sinh dục tượng trưng cho sức mạnh của phái nam,
biểu tượng của khả năng tái tạo) tượng trưng cho thần Siva (nam tính)
hiện thân qua nữ thần Uroja. Hình tượng Yoni (cơ quan sinh sản của phái
nữ, biểu tượng của khả năng dưỡng dục) tượng trưng cho nữ thần
Bhagavati (nữ tính) hiện thân qua nữ thần Visitrasaga. Uroja còn được
gọi là thần Núi, Visitrasaga là thần Biển. Tượng Uroja được xây dựng
trên các triền núi ở phía Bắc, tượng nữ thần Bhagavati được tôn thờ
nhiều trên những vùng bình nguyên phía Nam, cạnh các bờ biển. [Vị thần
bảo vệ vương quốc Nam Chiêm Thành là nữ thần Yan Po Nagar (Bà Mẹ Đất
Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu)]. Chính những phân chia dòng tộc Nam và Bắc
này mới nảy sinh ra huyền thoại về các bộ tộc Cau và Dừa.
Về
bộ tộc Cau, theo truyền thuyết, vào thời xa xưa một vị vua cai trị
phương Nam một hôm thấy bên cạnh cung đình có một cây cau trổ một buồng
trái thật lớn và thật đẹp. Đến ngày trổ hoa, buồng cau không nở, nhà
vua thắc mắc liền sai một gia nhân trẻ tuổi trèo lên hái xuống xem sao.
Gia nhân mang xuống dâng lên vua. Vua lấy gươm báu chẻ mo cau ra thì
thấy một em bé mặt mũi hồng hào đẹp đẽ. Nhà vua rất vui mừng, nhận làm
con nuôi và đặt tên là Radja Po Klong, tức hoàng tử Po Klong (Po Klău).
Mo cau bọc hoàng tử được dùng làm mộc đỡ của hoàng gia và mũi nhọn của
mo cau được biến thành gươm báu của nhà vua. Mộc đỡ và gươm báu sau
này trở thành biểu tượng cho uy quyền của các vị vua Chiêm Thành phía
Nam.
Hoàng
tử Po Klong không chịu bú sữa của người thường mà chỉ bú sữa của một
con bò tơ ngũ sắc. Đó cũng là lý do giải thích tại sao người Chăm ở phía
Nam sau này từ chối giết và ăn thịt bò. Hoàng tử Po Klong càng lớn lên
càng đẹp và khỏe mạnh. Nhà vua sau đó gả con gái và cho kế nghiệp. Khi
lên ngôi, Po Klong cho xây một cung thành tuyệt mỹ trải rộng trên bảy
ngọn đồi, đặt tên là Băl.
Băl
sau này là thủ đô của các tiểu vương quốc Champa theo tiếng "Chăm
mới", như Băl Cău ở Phan Rang, Băl Canar ở Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ) của
bộ tộc Cau. Chuyện bò ngũ sắc là dựa theo truyền thuyết Bò Thần của đạo
Bà La Môn bên Ấn Độ, ý muốn nói bò là một vị thần, dân chúng phải tôn
thờ không được ăn thịt hay sử dụng phó sản của bò để tỏ lòng tôn kính
thần linh.
Về
bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn phương Bắc cũng dựa theo truyền thuyết
trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi vương quyền của mình, nhưng đổi
buồng cau thành buồng dừa và mo cau thành mo dừa. Theo lời kể lại, một
vị hoàng tử được sinh ra từ một mo dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy một
cô công chúa và sau đó được tôn lên làm vua. Không rõ vị vua này tên
gì, các nhà nghiên cứu Chăm học và khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Thật
ra, các dòng vương tôn phía Bắc, vì chịu ảnh hưởng muộn màng nền văn
minh Ấn Độ, phải tìm trong kho tàng dân gian một câu chuyện huyền bí đề
cao dòng tộc vương quyền của mình để tỏ ra ngang hàng với các dòng
vương tôn phía Nam. Tuy nhiên, do chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa lúc ban đầu, thay vì phải thờ vật tổ (cây Cau hay Bò Thần)
như người phía Nam, người Chăm phía Bắc đề cao cây Dừa như một biểu
tượng huyền bí của uy quyền - như người Hoa đề cao con rồng hay con
phượng. Hơn nữa, vật tổ của người Chăm phương Bắc không mang ý nghĩa
tôn giáo mà chỉ thuần túy là một biểu tượng. Tượng mà người Chăm miền
Bắc tôn thờ là Buddha, Siva và các vị thần Ấn Độ khác. Một vị vua làm
được nhiều điều tốt cho dân chúng, khi chết đi được dân chúng tạc tượng
và lập đền thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua quá cố thường được
kết hợp với tên thần Isvara (tức Siva), do đó tên sau cùng của các vị
vua quá cố thường có thêm chữ "vara" (như Bradresavara,
Sambhudresavara) để thần thánh hóa ngôi vị của mình, vua là do thần sai
xuống cai trị dân gian.
Qua
sự phân chia này, trong suốt dòng lịch sử của vương quốc cổ Champa,
các bia ký ghi lại rất nhiều tranh chấp giữa hai bộ tộc về quyền lãnh
đạo, không bộ tộc nào chịu nhường bộ tộc nào. Bộ tộc Dừa bị coi là bộ
tộc bình dân (không tinh khiết) thường bị các dòng vương tôn bộ tộc Cau
(tự nhận là truyền nhân chính thống) khinh thường. Tuy nhiên vì quyền
lợi của đất nước, nhiều lúc hai bộ tộc này đã biết kết hợp lại với nhau
thành một để đối phó với kẻ thù chung.
* Phụ chú của temely : Quan điểm cho rằng người Chăm đã đồng hóa để trở thành người Việt từ 14 đời trước (Có
thể nói không một người Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền
Trung nào mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người), cũng được ông Hồ Trung Tú chia xẻ. Đọc thêm : Lịch sử hình thành các Dòng họ Quảng Nam hoặc Nam tiến ở vùng Quảng Nam. Cũng được biết là nhiều dân tộc Thượng có nguồn gốc liên quan sâu xa đến người Chăm.