Số tàu biệt phái ra khỏi hạm đội Brazilian tiếp theo sau chiếc Potomac qua vùng Viễn Đông bao gồm cả chiếc thuyền Peacock có chuyên chở ông Edmund Roberts, đặc sứ của Tổng Thống Andrew Jackson,  trong sứ mạng đầu tiên của ông ta tới Cochinchina nhưng không thành  công. Như Tổng Thống Jackson đã giải thích sau này trong bản thông điệp  gửi lên Thượng Viện hôm 30 tháng Năm năm 1834:
Những  nhân vật đại diện cho tôi là những người có các lời phát biểu và ý kiến  được xem đáng tin cậy rằng nền mậu dịch của Hợp Chúng Quốc có thể được  mở rộng và trở nên thịnh vượng hơn qua các sự dàn xếp thương mại với  những xứ sở ven bờ Ấn Độ Dương, và với việc được thông báo rằng sự thành  công của bất kỳ nỗ lực nào có thể được thực hiện hầu hoàn thành mục  tiêu đó thực sự tùy thuộc vào sự cẩn mật khi xúc tiến các nỗ lực đó, tôi  đã bổ nhiệm ông Edmund Roberts làm đặc phái viên của Chính Phủ này với  mục đích thăm viếng các vùng biển đó và ký kết các thương ước có thể ảnh  hưởng đến việc đạt được các lợi thế bổ túc cho nền mậu dịch của chúng  ta tại vùng đất đó…  Các chi phí của công tác đại diện ngoại giao được thanh toán từ quỹ bất thường dành cho sự giao tiếp ngoại giao. (1)
 Ông Edmund Roberts đưa ra lời trần thuật về việc ông đã được lựa chọn cho nhiệm vụ này:
Sau  một số năm quen thuộc với nền thương mại của Á Châu và Đông Phi Châu,  các tin tức đã tạo một niềm tin trong đầu óc của tôi rằng mối lợi lộc  quan trọng có thể phát sinh từ việc thực thi các hiệp ước với một số các  nước độc lập bản xứ nằm ven bờ Ấn Độ Dương.
Với  quan điểm muốn thực hiện một mục tiêu hiển nhiên rất quan trọng như  thế, tôi đã gửi một lá thư đến ngài Levi Woodbury, khi đó là một Thượng  Nghị Sĩ tại Quốc Hội đại diện Tiểu Bang New Hampshire, nêu chi tiết về  tình trạng bị lãng quên trong nền thương mại của chúng ta với một số  vương quốc phương đông nào đó, và chỉ cho thấy rằng sự khác biệt gữa các  thuế quan được trả cho nền thương mại của Anh Quốc và Hoa Kỳ, tại các  lãnh địa của hai nước, tự nó cấu thành một khoản mục vô cùng quan trọng  trong lợi nhuận, [với kết số] thuận lợi hơn cho nước kể tên trước [tức  Anh Quốc] .
Sau  thời gian đó, ông Woodbury đã được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Hải Quân, và  do đó trở nên quan tâm nhiều hơn đến của thành công của nền thương mại  hải hành của chúng ta.
Sự  bổ nhiệm ông được xác nhận ngay vào lúc trưức khi nhận được các tin tức  đau buồn, theo đó chiếc tàu Friendship, phát xuất từ thành phố Salem,  tiểu bang Massachusetts, bị đánh cướp, và phần lớn thủy thủ đoàn của nó  bị hạ sát, bởi thổ dân vùng Quadah Battu …
Vào  thời điểm này, chiến thuyền Potomac của Hoa Kỳ đang sắp sửa đến nơi đồn  trú của nó tại bờ biển phía tây Nam Mỹ Châu, nhưng điểm đến của nó đã  tức thờI được đổi sang bờ biển phía tây của đảo Sumatra, với các chỉ thị  đính kèm là phải thực hiện các biện pháp chính phủ để tấn công vào các  cư dân vùng Qualah Battu.
Trong  khi chính phủ của chúng ta lo ngại về việc phòng vệ chống lại bất kỳ sự  tổn thất nào có thể chụp xuống chiến thuyền Potomac trong việc chu toàn  các chỉ thị của chính phủ, đã có quyết định biệt phái chiến thuyền  Peacock và chiếc thuyền buồm Boxer của Hoa Kỳ, để thi hành, nếu cần  thiết, các mệnh lệnh của chiến thuyền đã nêu tên đầu tiên, và đồng thời  để chuyên chở đến các vương triều Cochin-china [tức Việt Nam], Xiêm-La  và Muscat [nay là thủ đô của nước Oman, Trung Đông, chú của người dịch],  một phái bộ được ủy nhiệm dể ký kết, nếu khả thi, các hiệp ước với các  chủ thề quyền lực liên hệ đó, sẽ đặt nền thương mại Hoa Kỳ trên một căn  bản vững chắc hơn, và trong một sự bình đẳng với quy chế tối huệ quốc  dành cho những quốc gia đang mua bán với những vương quốc đó.
Cần  có một đặc phái viên hay một đại diện được tin cây để thực hiện các  chính sách mới của chính phủ, và tôi được hân hạnh được tuyển chọn cho  nhiệm vụ đó, với lời đề cử đặc biệt của vị bộ trưởng Hải Quân. (2)
Bất  kể các lời hứa hẹn của Bộ Ngoại Giao dành cho ông Shillaber, công tác  thương thảo với người Việt nam đã được giao phó cho một người khác. (3)
Lời giải thích của ông Edmund Roberts về sự thất bại hoàn toàn trong phái bộ đầu tiên của ông sang Việt Nam đã quy lỗi cho các nhà đàm phán bên phía Việt Nam:
Với  các vương triều nước Xiêm La và Muscat, như sẽ được trình bày, tôi đã  có thể thực hiện được mối quan hệ thân hữu nhất, và đặt định nền thương  mại của chúng ta trên một căn bản theo đó các sắc thuế quan xuất nhập  cảng quá đáng, bị đòi hỏi trước đây, đã được hạ giảm mười lăm phần trăm.
Nếu  trong sự thu đạt các lợi lộc này một vài sự hy sinh trong cảm tính cá  nhân đôi khi đã xảy ra để làm lợi cho nền thương mại của Hoa Kỳ, phẩm  cách của xứ sở của tôi không hề bị đánh mất, hay danh dự của quốc gia  không bị tổn hại bởi các sự nhượng bộ có tính cách sỉ nhục và hạ thấp uy  thế trước các nghi lễ của phương đông.
Những  nghi thức sỉ nhục bắt buộc như các đoạn mở đầu cho bản hiệp ước, bởi  các thượng thư từ kinh đô nước Cochinchina, khiến tôi không có thể làm  gì khác hơn, ngoài việc chấm dứt một sự trao đổi văn thư kéo dài, mà nét  nổi bật nhất từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc là tính tráo trở và  sự mập mờ của các quan chức phục vụ  cho nhà vua.  Chi  tiết của nhiều cuộc đối thoại khác nhau, các sự chấp nhận và các sự  chối bỏ, về phía các quan thượng thư phương đông này, trong các trang  của tập tường trình của Sứ Đoàn, thể hiện mặt thật đặc tính ngoại giao  của họ, nhưng không có vẻ thiện chí nào cả.  (4)
Tuy nhiên, một quan sát viên Việt Nam hiện đại, khi bình luận về phái bộ của Robert sang Cochinchina, nêu ý  kiến rằng Robert xem ra không có “sự linh động về ngoại giao.” Ông ghi  nhận rằng các trang viết trong quyển sách của Roberts riêng về  Cochinchina và về người dân của xứ này đã “ tước đoạt đi mất mọi thiện  chí và sự thông cảm.” (5) Edmund Roberts sinh ra từ vùng Portsmouth, New Hampshire.  Ông ta đã theo đuổi nghiệp thương mại, đi từ một thương gia và “nhà vận  tải hàng hóa siêu hạng” thành một chủ tàu rồi thì mất đi của cải tích  lũy được sau một lọat các sự xui xẻo.  Sau  một số nỗ lực để tự phục hồi, ông đã thành công trong năm 1823 khi được  bổ nhiệm làm Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Demerara, vùng nằm trên bờ biển phía  đông của Phi Châu.  Bốn năm rưỡi  sau đó, một lần nữa ông trở thành nhà vận tải siêu trọng trên một chiếc  thuyền của Hoa Kỳ chạy đến bờ biển phía đông Phi châu và có lẽ đi xa hơn  nữa về phía đông để đến tận Ấn Độ.  Khi  quay trở về Hoa Kỳ, ông có nêu với Thượng Nghị Sĩ Woodbury về ý tưởng  của ông trong việc tìm kiếm các hiệp ước thương mại vớI một số chủ quyền  tại vùng Đông Ấn Độ.
Chiến  dịch vận động của Roberts đã được trợ lực đến mức độ nào bởi sự trao  đổi thư tín ráo riết của ông John Sillaber nhắm đến cùng mục đích hay  bởi cuộc tấn công của hải tặc vào chiếc tàu Friendship ngoài khơi phía tây bờ biển đảo Sumatra khó mà xác định được. Điều chắc  chắc là trường hợp của ông Roberts đã được hỗ trợ bởi sự kiện là vị cựu  Thượng Nghị Sĩ Woodbury nay trở thành Bộ Trưởng Hải Quân và do đó ở vào  vị thế thuận lợi hơn để thức đẩy đề nghị của cử tri của ông.  Bất  luận điều gì đã xảy ra, vào ngày 5 tháng Giêng 1832, Bộ Trưởng Ngoại  Giao Edward Livingston đã thông báo với Bộ Trưởng Hải Quân Woodbury rằng  Tổng Thống đã đồng ý với đề nghị của Bộ Trưởng Hải Quân để bổ nhiệm  Roberts làm “ nhân viên mật cho vùng Ấn Độ Dương,” đi cùng với những  chiếc thuyền sẽ được phái đến đó tiếp theo sau cuộc tấn công của hải tặc  tại Quallah Battoo [hải phận ngoài khơi Nam Dương ngày nay (?), chú của  người dịch].  Bộ Trưởng Ngọai  Giao Livingston yêu cầu Bộ Trưởng Hải Quân thông báo với ông Roberts và  nói ông ta về Hoa thịnh Đốn để nhận các chỉ thị, “khuyến cáo sự bảo mật  cho ông ta,” và cung cấp cho ông “một vài sự tuyển dụng công khai” trên  thuyền mà ông ta sẽ cùng đi. (6)
Ba  tuần lễ sau đó, vào ngày 27 tháng Giêng năm 1832, Bộ Trưởng Ngoại Giao  Livingston đã chuyển các chỉ thị của ông cho ông Roberts về nhiệm vụ mật  của ông ta tại xứ Cochinchina [tức Việt Nam ngày nay, chú của người  dịch] .  Bản văn chỉ thị Roberts cần báo cáo với càng nhiều càng tốt các tin tức mà ông ta có thể thu thập được  về  các sản phẩm và nền thương mại của Cochinchina và tìm cách thương thảo  một hiệp ước thương mại với các giới chức thẩm quyền của quốc gia đó.  (7)  Các thư văn trao đổi sau này  từ Bộ Trưởng Livingston đã chuyển sổ thông hành, ủy nhiệm thư và bản  sao các hóa đơn chuyển vận hàng hóa để xuất trình trước các vị chúa tể  nước ngoài.  Roberts còn được cho phép thực hiện các sự dàn xếp thương mại với Miến Điện và Quốc Vương xứ Acheen (thuộc đảo Sumatra) nếu ông ta nghĩ có đủ thì giờ để tiến hành công việc.  Bộ  Trưởng Livingston cũng lưu ý Roberts hãy chú trọng đặc biệt đến khả  tính tiếp cận được với “một hay nhiều hải cảng tại vùng đất đó mà qua  hiệp ước với các nhà cầm quyền bản xứ, các tàu thuyền của chúng ta có  thể luôn luôn được đón nhận và bảo vê.” (8)
Theo lời tường thuật của chính ông Edmund Roberts, chiếc thuyền Peacock,  có chở ông trên thuyền, được lái đi từ Boston vào tháng Ba năm 1832  chạy về phía tây Thái Bình Dương xuyên qua Rio de Janeiro. (9)  Trên đường đi họ nhận được tin rằng chiếc tàu Potomac đã hoàn tất nhiệm vụ của nó trong việc biểu dương lực lượng ngoài khơi  bờ biển phía tây đảo Sumatra và trong việc trừng phạt những hải tặc thực  hiện cuộc tấn công vào chiếc thuyền Friendship.  Vì thế, chiếc tàu Peacock có thể tiến hành ngay nhiệm vụ thương mại của chính nó.
Sau khi thăm viếng Phi Luật Tân và Trung Hoa, chiếc thuyền Peacock đã đến trong thời tiết xấu vùng vịnh Đà Nẵng, “địa điểm tốt nhất và gần  nhất” để thông tin với kinh đô tại Huế, cách khoảng năm mươi dặm.   Sau khi nằm ở ngoài khơi bờ biển Đà Nẵng trong 4 ngày chiếc thuyền đã gặp phải các luồng gió nồm đông nam thổi mạnh.  Tàu  bị giạt xuống phía nam và sau cùng đã có thể ghé vào cặp bến ở Vũng Lam  [Vũng Liêm?], phía nam Cù lao Pulo Cambir [Cù Lao Chàm?, chú của người  dich.] và phía bắc Mũi Cape Averella, ở một địa điểm phía nam thành phố  Qui Nhơn ngày nay.
Vào ngay ngày kế đó, công tác lâu dài của Edmund Roberts với phía Cochinchina đã bắt đầu.  Một người đàn ông lớn tuổi, một xã trưởng, đã lên tàu dọ hỏi về mục đích của cuộc thăm viếng của chiếc tàu.  Phía  Hoa Kỳ đã nói với ông ta rằng chiếc tàu là một chiến thuyền được phái  đi bởi Tổng Thống Hoa Kỳ chuyên chở trên thuyền một đặc sứ có mang theo  một lá thư để đệ trình Quốc Vương nước Cochinchina.  Họ  còn nói thêm với ông ta rằng vị đặc sứ mong muốn được đi đến kinh đô  càng sớm càng tốt để đệ trình thư của Tổng Thống lên Nhà Vua. (10)  Viên  xã trưởng có vẻ muốn thảo một văn thư trình bày mọi sự việc lên thượng  cấp của ông ta, nhưng ông ta được cho hay rằng chính vị đặc sứ sẽ tự tay  thảo một văn thư lên kinh đô giải thích nhiệm vụ của mình.  Trả  lời các câu hỏi của phía Hoa Kỳ, người đàn ông lớn tuổi này đã mô tả cơ  cấu chính quyền của làng xã, cấp tỉnh, và tại kinh đô, mà ông ta nói  chiếc tàu có thể lái đến đó trong vòng 3 hay 4 ngày.  Chính  Roberts có ghi nhận trong tập tường trình của mình rằng mọi người đã  quá chú trọng đến các chi tiết khác trong các lời phát biểu của viên xã  trưởng đến nỗi họ bỏ sót qua câu nói sau cùng này. (11)
Vào ngày kế tiếp, 6 tháng Một, hai viên chức cấp tỉnh đã phái một phái đoàn đông hơn để dò hỏi nhiều hơn nữa.  Sau  khi các câu hỏi của họ đã được trả lời, các người khách còn đòi hỏi và  đã nhận được một văn bản để trình lên các thượng cấp của họ.   Ngày  kế tiếp, phái đoàn quay trở lại chiếc thuyền, lần này với hai quan chức  cấp tỉnh cùng đoàn tùy tùng gồm “những người cầm lọng, thổi kèn và mang  kiếm.”  Hoa Kỳ đã đáp lễ họ với  cùng nghi thức như thế, và rồi báo cho phái đoàn hay rằng vị đặc sứ đang  soạn thảo một văn thư mà một sĩ quan hải quân sẽ giao thư trên bờ trong  vòng một tiếng đồng hồ để chuyển trình tức thời lên tỉnh lỵ.  Tuy  nhiên, phái đoàn đến thăm đã nêu ra một số “câu hỏi xấc xược, chẳng hạn  như có mang các bất kỳ vật phẩm biếu tặng lên nhà vua hay không,” và  yêu cầu được xem bản sao điện văn của sứ giả được gửi lên kinh đô, cũng  như các giấy tờ ủy nhiệm của đặc sứ và thuyền trưởng.  Điện  văn được chuyển giao đúng nghi thức trên bờ, nhiều câu hỏi được đặt ra  bởi cả hai phía, và phái đoàn các viên chức tỉnh đã khởi hành đi về tỉnh  lỵ tỉnh Phú Yên.
Vào ngày 17 tháng Giêng, hai quan lại từ Huế, kinh đô của đế quốc, bước lên tàu cùng đoàn tùy tùng của họ.  Sự tường thuật của đặc sứ Roberts về cuộc gặp gỡ đã đúc kết sự thất vọng của toàn thể sứ mệnh của ông ta:
Rồi  thì họ tra hỏi là chiếc tàu thuộc về xứ sở nào, và đưa ra một bảng to  lớn, chứa đựng các mẫu tiêu biểu cho mọi quốc kỳ được hay biết, với tên  của các nước đính kèm, viết bằng tiếng Pháp và Hoa ngữ.  Lá cờ của Hoa Kỳ đã được chỉ cho họ, và họ được thông báo rằng chiếc thuyền là một tàu chiến …  Họ nói họ đã nghe từ lâu về xứ sở [Hoa Kỳ], như một nước tốt và sung sướng; và giờ đây lấy làm hoan hỷ được gặp gỡ.  Họ  dò hỏi về mục đích của việc cặp bến của chúng ta, một loại câu hỏi mà  mọi kẻ mới đến đều lập lại, như thể không hay biết gì về bất kỳ sự giao  tiếp nào trước đó với các viên chức của chính quyền.  Câu  trả lời cần thiết đã được đưa ra, rồi họ bị chất vấn về lá thư của vị  đặc sứ gửi lên nhà vua, là bức thư có đến tới kinh đô trước khi họ khởi  hành hay không.  Họ trả lời là lá  thư đã đến nơi, nhưng cách xưng hô ngòai bì thư lại sai lạc; và vì thế  vị thương thư phụ trách thương mại và hải hành … không dám trình lên nhà  vua.  Họ nói, xứ sở bây giờ  không còn được gọi là An Nam, như trước đây, mà là Việt Nam [trong  nguyên bản ghi Wietman, chú của người dịch] (theo quan thoại là Yuenan;)  và được cai trị bởi, không phải là một Quốc Vương (wang, trong nguyên  bản, chú của người dịch), mà là bởi một hoàng đế (hwang-te, theo nguyên  bản, chú của của người dịch) …  Họ  cũng nói rằng họ đã nhận được các mệnh lệnh phải đặc biệt lưu tâm, và  khảo sát mọi việc, để ngăn cản bất kỳ sự hiểu lầm nào hơn nữa hay gây  chậm trễ trong công việc của sứ bộ.  Họ  đã được giải thích rằng những sai lầm mà họ đã nêu ra không phát sinh  từ bất kỳ sự không kính trọng nào đối với nhà vua, (hay hoàng đế,) nhưng  vì sự không hiểu biết các nghi thức, do việc thiếu giao tiếp.  Họ  được yêu cầu chỉ cho việc phải sửa đổi cách xưng hô như thế nào, và  được trả lời rằng, điều thích nghi hơn là nên viết một lá thư cho vị  thượng thư  phụ trách thương mại  và hải hành, thông báo cho ông ấy về sự cập bến của chiếc tàu và mục  đích của cuộc thăm viếng; và yêu cầu vị thượng thư này trình bày nguyên  văn lên nhà vua.  Họ mong muốn  được xem qua bức thư, nhằm ngăn chặn việc ghi chép các “chữ kỵ húy,” có  nghĩa, các thành ngữ mà trong cách viết câu nệ nhiều về hình thức của  Hán tự, được xem là không thể chấp nhận được trong văn thư chính thức  gửi lên các quan chức cao cấp hơn.  Lá  thư gửi đến nhà vua được hòan trả, theo lời yêu cầu của vị đặc sứ; và  các quan chức đại diện bày tỏ ý muốn được biết về nội dung trong lá thư  của Tổng Thống, cũng như về mục đích đặc biệt và cụ thể của sứ bộ.  Họ  được thông báo rằng lá thư của Tổng Thống là thư giới thiệu vị đặc sứ  với nhà vua, và rằng vị đại sứ đã chuẩn bị để thương thảo về các mục  tiêu đặc biệt của sứ bộ này, sau khi ông ta đến được Huế; nhưng mục đích  tổng quát là về một hiệp ước giao tiếp hữu nghị, sẽ bao gồm tất cả các  mục đích khác.Câu trả lời này còn lâu mới được xem là thỏa đáng, và họ  đã lập đi lập lại trên cùng điểm này, cho đến khi nhận thấy họ không có  thể có được một sự giải đáp nào khác, họ đành phải bỏ cuộc.  Bấy  giờ khi đuợc hỏi đưa ra một sự xưng hô rõ rệt cho lá thư sẽ được viết  cho quan thượng thư, họ đã thảo ra một lá thư ngắn ghi như sau:
Ông  Edmund Roberts, sứ giả từ Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, muốn trình bày với  Ngài rằng ông ta đã nhận được lệnh của vị tổng thống của ông ta, ủy  nhiệm cho ông ta, một viên chức cấp thấp, để chuyển một công văn về vấn  đề này như sau: (12) “Tôi đã biết đến tiếng tăm của các vương quốc của  ngài từ lâu với một ước muốn có được một sự giao tiếp hữu nghị; nhưng  trước đây tôi chưa hề có một cơ hội để thiết lập được một sự giao hữu  như thế.  Nay tôi tha thiết khẩn cầu thiết lập một sự giao tiếp thân hữu.  Ngoài điểm này, tôi không mong muốn điều gì khác nữa.
Vị  sứ giả nói trên được ước định sẽ đưa ra lời tuyên bố này, xin Ngài hãy  trình lên Hoàng Đế, sau khi đã lược duyệt , để Hoàng Đế có thể vui lòng  cho phép vị sứ giả được mau chóng lai kinh, và kính cẩn đệ trình lá thư  này,” v.v…
Giọng  điệu của bức thư này tuyệt đối không thể chấp nhận được, bởi, ngoài  tính nô dịch của các thành ngữ cá biệt, ngôn từ nói chung là ngôn từ của  một kẻ thuộc cấp (cùng một ý tưởng nhưng thường lại được phát biểu bằng  nhiều từ ngữ khác nhau trong Hán ngữ, tùy theo cấp bậc của người viết  đối với người nhận thư;), lá thư vì thế đã tức thời bị bác khước; và một  vài thành ngữ  xúc phạm nhất, chẳng hạn như “một viên chức cấp thấp” và “tha thiết khẩn cầu”, đã được nêu ra và chỉ trích.  Với  vẻ trơ trẽn của sự giả dối thường thấy ở người Trung Hoa, họ phủ nhận  rằng các thành ngữ đó là ngôn từ của một kẻ cấp dưới; nhưng sự thành  thực không phải là là một phần trong đức tính của ho.  Rồi  thì họ đã được thông báo rằng một lá thư sẽ được thảo bởi vị sứ giả  trong ngày hôm sau, và rằng các thành ngữ sẽ phải có vẻ tôn kính, nhưng  không hèn mọn và nô lệ.  Họ lập  lại ước muốn được đọc lá thư trước khi niêm phong, nhằm gạch bỏ các từ  ngữ không thích hợp; và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải làm như thế về  phía họ.  Họ được nói cho biết  rằng họ có thể được xem bức thư; nhưng sẽ không có sự sửa đổi nội dung  quan trọng nào có thể được thực hiện theo như ý kiến của họ, sau khi một  bản sao trung thực của bức thư đã được thảo.  Sau  một vài sự đối thoại nữa và sự tranh huận liên quan đến các điểm nhập  cảng [ở ngạch số] nhỏ, họ đã trở lên bờ vào khoảng mười một giờ trưa.  (13)
Phần công việc sau này của sứ bộ của Robert tại Cochinchina diễn tiến y như thế.  Cho  đến ngày 8 tháng Hai, các cuộc thảo luận tiếp diễn nhưng không đi đến  kết quả nào. Ông Robert không muốn đặt Công Hòa Hoa Kỳ vào các sự sỉ  nhục của các hình thức xưng hô nô dịch, và các quan lại Việt Nam không  muốn liều mình chọc giận vị chúa thượng của họ qua việc chấp nhận các  hình thức xưng hô không thích hợp từ một chính phủ thường dân phương xa  lên vị Hoàng Đế ở Huế.  Vào ngày  26 tháng Giêng, các cuộc thảo luận lập đi lập lại và vô hiệu quả đã được  khai thông bởi một lời mời, từ các viên chức cấp tỉnh theo lệnh của nhà  vua, để khoản đãi một bữa tiệc năm mươi mốt bát. Đặc sứ Roberts và đồng  sự của ông hay biết rằng bữa tiệc là để đáp ứng lá thư của Robert gửi  lên vị Thượng Thư ở Huế và rằng một sự phúc đáp có thể xảy ra trong vòng  hai hay ba ngày. Đặc sứ Roberts giải thích sự chấp nhận bữa tiệc như  sau:
Thực  là điều xúc phạm, và cản trở, nếu không phải là hủy diệt hoàn toàn mục  đích của sứ mạng nếu từ chối lời mời khỏan đãi, nên chúng tôi đã tức  thời chấp nhận với lời cảm tạ; và các viên chức đến thông báo việc đó đã  đuợc báo cho hay rằng mười ba phát đại bác sẽ được bắn để chào mừng nhà  vua vì yến tiệc được nói là do vua ban.  Bữa  tiệc đã được mang lên tàu trong các khay tráp sơn thếp đẹp đẽ; trong  bên ngoài, rất gọn ghẽ và sạch sẽ; nhưng chúng tôi không thể tự mình gạt  bỏ ý nghĩ rằng bữa tiệc đã được nấu trên những chiếc thuyền dơ dáy mà  chúng tôi đã nhìn thấy trên bờ, và rằng đồ ăn đã tiếp cận bởi các bàn  chân dơ dáy, các móng tay cáu bẩn, và các cái đầu đầy chí rận, mà chúng  tôi đã nhìn thấy trên bờ; chúng tôi, vì thế, đã chỉ nếm một món, đó là  mứt kẹo.  Chúng tôi đã nâng ly uống chúc mừng nhà vua, bằng loại rượu nếp đặc biệt của họ. (14)
Ngày  kế tiếp, 27 tháng Giêng, đặc sứ Roberts hay biết rằng hai viên chức,  được phái đến thay vì sự phúc đáp bằng văn thư, đã đến từ Huế và muốn  thảo luân về bức thư với ông ta.
Các  quan chức đến từ Huế tiếp tục nêu lên những khó khăn, nhấn mạnh rất lâu  rằng bởi Tổng Thống là một viên chức do dân bàu cử và không phải là một  nhà vua nên ông ấy phải xưng hô với hoàng đế trong một cung cách lịch  sự và tôn kính.  Vì thế, họ có ý  định xem xét bản phiên dịch và gạch bỏ bất kỳ từ ngữ không thích đáng  nào. Đặc sứ Roberts đã đáp lại “ngôn ngữ sỉ nhục” này rằng tổng thống  của ông không thấp kém hơn nhà vua hay hoàng đế.
Vào  ngày 30 tháng Giêng, khi nhân thấy rõ rệt là các quan chức từ Huế bị  bắt buộc phải làm theo các chỉ thị dành cho họ, đặc sứ Roberts đã gửi  một bức thư lên vị thương thư kèm theo một bản sao thư của Tổng Thống và  trình bày sứ mệnh của ông.(15)  Tuy nhiên, hai viên chức từ Huế nằng nặc đòi xem xét lá thư của Tổng Thống và “sửa chữa” bức thư theo ý riêng của họ.  Sau  khi phía Hoa Kỳ từ chối, hai quan chức hỏi rằng có quà biếu nào để dâng  tặng cho nhà vua hay không và liệu phái đoàn Hoa Kỳ có sẵn sàng tuân  hành theo nghi lễ của triều đình hay không.  Việc  này dẫn đến sự bế tắc chung cuộc bởi đặc sứ Roberts không đồng ý với  điều mà ông xem là các cử chỉ hạ thấp mình trước vị hoàng đế, và các nhà  đàm phán với ông sẽ không chuyển lá thư của Tổng Thống trừ khi ông đặc  sứ đồng ý tôn trọng các lễ nghi tại triều đình.
Vào ngày 7 tháng Hai, các quan chức đến từ Huế, thông báo rằng chiếc tàu phải rời đi vào ngày kế tiếp:
yêu  cầu rằng không nên có hành vi xúc phạm nào sẽ được thực hiện, không có  một cảm giác bất mãn nào được biểu lộ, trong cung cách mà sứ bộ đã để  lại; vì sự thất bại hoàn toàn gây ra do sự khác biệt trong phong tục của  hai xứ sở.  Vị phát ngôn viên  nói rằng ông hy vọng mọi hành vi bất thân thiện sẽ được bỏ qua, và rằng  các thuyền của Hoa Kỳ sẽ lui tới các hải cảng của Cochinchina, nhiều như  thể phái bộ đã thành công.” (16)
Trong  cuộc thảo luận tiếp theo sau, vị phát ngôn viên từ Huế đã lập lại rằng  ông hy vọng sự thất bại của phái bộ sẽ không ngăn cản các tàu thuyền Hoa  Kỳ đến giao thương.  Câu trả lời  rằng nền mậu dịch đã bị đặt trên “một căn bản quá tệ, các quy lệ không  được hay biết, các lệ phí và thuế quan của chính phủ không ổn định, đến  nỗi các thuyền bè không thể đến nơi đây”  Cuộc  thảo luận tiếp diễn, và sau cùng quan chức từ Huế đã tuyên bố: “Mọi dân  tộc đến đây … chẳng hạn như người Anh và người Pháp, đều chịu chung một  căn bản giống như các vị.  Họ không điều nghiên về luật lệ; và không ai dám vòi vĩnh họ gì nhiều hơn là các khoản lệ phí thông thường.”  Phía  Hoa Kỳ đáp lại rằng, “Điều … này không đúng; bởi người Trung Hoa có một  vị thế khác, có thể lai vãng nhiều địa điểm mà người Anh và người Pháp  không thể đi đến.  Anh quốc và Pháp quốc đã cố sức để ký kết các hiệp ước, nhưng không thành công.  Chúng  tôi hay biết về các quy điều dành cho sự mua bán với người Pháp và  người Anh, nhưng chúng tôi không hay biết về bất kỳ quy định nào dành  cho sự mậu dịch của Hoa Kỳ: do đó đã có phái bộ của chúng tôi.” (17)
Nghi  thức nâng ly cầu chúc sức khỏe cho Tổng Thống và cho vị hoàng đế đã  được cử hành. Rồi thì các viên chức từ Huế giã từ, cầu chúc phía Hoa Kỳ  nhiều sức khỏe, có một hành trình vui vẻ, và sớm quay trở lại.  Phía  Hoa Kỳ đáp rằng họ không kỳ vọng sẽ quay trở lại và đã lái thuyền đi  trong sáng ngày hôm sau, ngày 8 tháng Hai. Đặc sứ Roberts đã biện hộ cho  các hành động của mình như thế:
Các  kẻ chịu hạ mình trước mọi hình thức làm mất phẩm giá để dành đạt các  lợi lộc thương mại có thể đã nghĩ rằng tôi tỏ ra khó tính một cách không  cần thiết trong đường lối mà tôi đã chấp nhận trong sự thương thảo với  Cochinchina, nhưng một khi hiểu được học thuyết hạ mình trước các dân  tộc xa hơn khu vực sông Ganges [để chỉ các dân tộc nằm từ vịnh Bengal,  nơi sông Ganges đổ ra biển, trở đi, tức từ phía đông Ấn Độ sang vùng  Viễn Đông, chú của ngườI dịch] sẽ không dẫn đến đâu; và rằng tất cả các  cuộc thương thảo trong quá khứ của các cường quốc Âu Châu sẽ xác nhận  đầy đủ điều mà tôi phát biểu giờ đây, rằng không có đặc quyền nào, không  có đặc miễn nào, không có đặc lợi bất kỳ loại nào, sẽ dành đạt được bởi  sự phục tùng, sự hạ mình, sự dung hòa, hay bởi sự nịnh bợ, (họ sẽ coi  thường loại thái độ trước như là một chứng cớ của sự yếu kém -- loại  thái độ sau là một sự thiếu nghị lực;) rằng các sự đe dọa hay xâm lấn là  không chính đáng và không cần thiết, [trong khi] một thái độ đàng  hoàng, song không kiêu ngạo, cương quyết bảo vệ danh dự của mình, cởi mở  và vô tư, tìm kiếm các lợi điểm cho chính mình, nhưng cũng sẵn lòng  phát huy lợi điểm của kẻ khác, chắc chắn sẽ tạo ảnh hưởng nhiều trên các  dân tộc mang đặc điểm và cá tính này, và sau hết phải có khả  năng để hoàn thành được mục tiêu mong muốn.
Trước  khi viếng thăm Cochinchina, tôi đã đặt ra một số quy tắc ứng xử nào đó,  mà tôi đã quyết nghị thừa nhận đối với các người nước này, cũng như đối  với người Xiêm La.  Tại nước đầu  tiên, tôi đã xác quyết sẽ tôn trọng sự thực ở mức độ nghiêm ngặt nhất,  bất kể là điều này có thể làm phương hại đến quyền lợi thương mại của  chúng ta trong hiện tại, hay bất kể là khó chấp nhận đối với bất kỳ nước  nào khác.  Tôi còn quả quyết hơn  nữa, không hạ mình trước bất kỳ nghi lễ làm hạ phẩm giá nào, bằng việc  vái lạy, cởi giầy đi chân trần vân vân …Đã chứng kiến các sự áp đặt thô  bạo được thực hiện, bởi các dân tộc mang vẻ thân hữu, đối với các nhà  đàm phán khác, tôi càng cương quyết hơn là không vào giờ đặt bất kỳ sự  tin tưởng nào nơi lời cố vấn của họ, mà sẽ để cho sự phán đoán của chính  tôi làm kẻ hướng đạo cho [việc phán đóan] những gì là đúng và phải.  Hơn  nữa, cần tử tế và lịch sự với tất cả mọi người; nhưng sau một vài nghi  thức nhỏ nhặt, chỉ nên tiết lộ càng ít càng tốt cho các viên chức cấp  thấp; và cuối cùng, áp dụng một vài sự trình bày và phô diễn, khi mà  những việc này trợ lực hữu hiệu cho việc gây ấn tượng trên đầu óc kém  văn minh.
Và sau hết:
Trông  bề ngoài xứ sở bao quanh vịnh hùng vĩ này ở trong một tình trạng đang  phát triển cao độ, nhưng với một sự khảo sát kỹ càng hơn, viễn ảnh tươi  đẹp này không có thực.  Dân chúng ở đây là những người ăn ở bẩn nhất trên thế giới, không có một ngoại lệ nào cả.  (18)  [Họ]  không hay biết … khoảng cách giữa hai xứ sở, hay hiểu biết gì về vị trí  của Bắc Mỹ châu, nhưng lại giả định rằng nó thuộc về Âu Châu, như sau  này chúng ta biết được rõ như vậy (19)
Nhờ  ở một viên chức lãnh sự Hoa Kỳ, ông W. E. Scotten, chúng ta có được một  quan điểm thú vị từ phía Việt Nam về phái bộ Roberts.  Quan  tâm đến các sự tiếp xúc thủa ban sơ của Hoa Kỳ với Đông Dương, Scotten,  trong khi phục vụ tại nhiệm sở ở Sàigòn năm 1932, đã tìm sự trợ giúp  trong việc sưu tầm văn khố hoàng triều về bất kỳ tin tức nào liên hệ đến  phái bộ Robert.  Đoạn trích dẫn dưới đây được tìm thấy trong tài liệu hoàng triều về thời khoảng đó:
Mùa Đông, tháng 11, năm Minh Mạng 13 (tháng Mười Hai, năm 1832)
Tổng  Thống nước Cộng Hòa Nha-di-ly (có kèm theo tên bằng Hán ngữ), tọa lạc ở  Đại Tây Dương (Atlantic Ocean) và còn được gọi bằng các danh xưng Hoa  Kỳ, (có ghi thêm bằng Hán ngữ), (Hợp Chúng Quốc: United States),  Maly-can (có kèm Hán ngữ), (American), Tân-anh-cat-lỵ (có kèm Hán ngữ)  (New England), có phái các công dân là ông Nghĩa-Đức-Mon La-Bach (20)  (có kèm Hán tự), Thuyền Trưởng Đức-giải Tam-gia (có kèm Hán tự), cùng  đoàn tùy tùng, đến xứ sở chúng ta, mang theo một lá thư truyền đạt ước  muốn giao thương với chúng ta.  Thuyền của họ thả neo ở Vũng Lam, hải cảng của tỉnh Phú Yên.  Chính  Phủ chúng ta đã ra lệnh cho Chánh Văn Phòng Nội Các Nguyễn Tri Phương  và Phó Văn Phòng Nội Các Lý Văn Phức đi cùng các quan lại của tỉnh nói  trên lên tàu và mở một tiệc chào mừng trên thuyền. Được hỏi về mục đích  của chuyến hải hành của họ, những ngoại nhân này đã trả lời rằng ý định  của họ là nhằm thiết lập các quan hệ thương mại tốt đẹp.  Ngôn từ của họ mang vẻ tôn kính và lịch sự.  Nhưng, theo bản dịch lá thư, thư bị xem là có chứa đựng nhiều kiểu thức không hợp lý.  Một mệnh lệnh từ hoàng triều vì thế đã được ban ra như sau: “Việc chuyển thư lên Hoàng Thượng thì không cần thiết.  Các  sứ giả Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức được phép đảm nhận khi thi hành  nhiệm vụ của mình chức năng của các quan chức phụ trách Ngoại Thương để  phúc đáp một cách tóm lược cho phía Hoa Kỳ theo ý nghĩa này: “Quý quốc  yêu cầu thực hiện các quan hệ thương mại với chúng tôi.  Chúng tôi quyết định một cách quả quyết là không phản đối các quan hệ như thế.  Mặt khác, quý quốc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc liên quan hiện hành trong xứ sở chúng tôi.  Từ nay trở đi, khi đến nước chúng tôi, tàu thuyền của quý quốc sẽ phải thả neo ở vịnh Trà Sơn.  Trong bất kỳ trường hợp nào, quý quốc không thể xây cất nhà của để sử dụng trên đất liền.  Nếu làm như thế, quý quốc sẽ đi quá các giới hạn của luật pháp” Và họ có thể rời đi sau khi nhận được sự trả lời này.” (21)
Joseph  Balestier, Lãnh Sự Hoa Kỳ tạI Singapore vào thời khoảng đó, cũng đã  tường thuật một phản ứng của phía Việt Nam về phái bộ Roberts.  Thư của ông này gửi lên Bộ Trưởng Ngoại Giao Forsyth đề ngày 30 tháng Ba 1835 có đoạn như sau:
[A]  Vị giáo sĩ Công Giáo La Mã mãi sau mới đến đây từ Cochinchina cho tôi  hay rằng Nhà Vua nước đó đã vô cùng tức giận về [?] sự phúc đáp của nhà  vua cho lá thư mà ông Roberts đã viết gửi lên Nhà Vua trong cuộc thăm  viếng của ông ta đến Vương Quốc đó bằng chiếc thuyền Peacocks. [sic]  Có  vẻ là người chuyển tin được sử dụng bởi ông Roberts đã quá chậm trễ  trong việc chuyển Điện Văn lên Nhà Vua, và Ngài mà ngay sau khi nhận  được đã tức thời cho mời Phái Bộ đến vùng Segong cùng với các chiếc  thuyền.  Nhưng lá thư đã không đến Cảng cho mãi một thời khỏang khá lâu sau khi tàu Peacock đã rời đi. (22)
Những  tin thức về phía Việt Nam này về phái bộ Roberts đều nhắc nhở lời phát  biểu ban đầu trong bản tường thuật của ông Roberts rằng ông và phái đoàn  của ông được cố vấn nên tiến hành đến Vịnh Đã Nẵng, rồi đến Huế.  Trong bản báo cáo tóm lược của mình, chính ông Roberts cũng phỏng định rằng nếu gặp thời tiết thuận lợi hơn cho phép tàu Peacock đến thẳng Đà Nẵng hay thả neo ở ngoài khơi của Huế, các kết quả của phái bộ ông có thể hữu hiệu hơn.  Tuy nhiên, ông cũng ghi nhận rằng có lẽ ông cũng vẫn sẽ bị buộc phải tuân theo các “nghi lễ làm hạ phẩm giá” tại triều đình.(23)  Các  tin tức về các phản ứng của phía Việt Nam đối với phái bộ Roberts có  khuynh hướng hỗ trợ cho sự phán đoán của ông Roberts cho rằng, một khi  gặp các tình huống khác biệt, ông ta có thể đạt được sự thỏa thuận với  triều đình ở Huế.  Trong bất kỳ  truờng hợp nào, ông đã tiến bước với việc thuơng thảo thành công các  hiệp định với nước Xiêm La và Muscat [tức xứ Oman, thuộc Trung Đông ngày  nay, chú của người dịch].  Ông  ta đã quay trở lại Việt Nam ba năm sau đó cho một nỗ lực thương thảo  khác, nhưng ông ta lại thất bại ở lần thứ nhì này -- bệnh tật và chết  chóc đã cắt ngắn sứ mệnh của ộng.
PHÁI BỘ THỨ NHÌ NĂM 1835
Trong  khoảng giữa hai phái bộ không thành công thứ nhất và thứ nhì của  Roberts sang Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch], kẻ quả  quyết cổ võ kế tiếp cho các quan hệ thương mại của Hoa Kỳ với  Cochinchina và các quốc gia khác trong vùng đã xuất hiện: Joseph  Balestier, con rể của Paul Revere.  Balestier  đã đến Singapore vào năm 1834 với tư cách lãnh sư Hoa Kỳ đầu tiên tại  thành phố đó, một năm sau khi Roberts rời vịnh Đà Nẵng [phải là vịnh Phú  Yên, xem phần trước, chú của người dịch].  Gần  như tức thời, ông ta đã khởi sự chiến dịch vận động cho các nỗ lực tích  cực của Hoa Kỳ để bành trướng các quan hệ thương mại trong vùng và cũng  như để trương ngọn cờ Hoa Kỳ ở vùng đó.  Trong  văn kiện có lẽ là văn thư chính thức đầu tiên của ông sau khi đến nhiệm  sở mới, một lá thư gửi lên Bộ Trưởng Ngoại Giao đề ngày 2 tháng Sáu năm  1834, Balestier đã công khai chỉ trích sự kiện rằng Singapore đã đóng  cửa đối với hoạt đông mậu dịch của Hoa Kỳ:
Đối  với chúng ta sự thiệt hại thì lớn lao, bởi chúng ta bị loại bỏ ra ngoài  việc tham gia vào một nền mậu dịch đáng giá nhất với dân chúng thuộc  các Quần Đảo Phía Đông & vùng bao gồm một vòng tròn bao quanh lấy  Trung Hoa, Celebes, New Guinea, Úc Đại Lợi, Java, Sumatra, Bengall, Bán  Đảo Mã Lai, Xiêm và Cochin China: tất cả những nước trông cậy không ít  thì nhiều vào Hải Cảng này, hoàn toàn tự do theo đúng ý nghĩa của từ ngữ  này, với sản phẩm của họ, được dùng để trao đổi lấy vải vóc của Âu  Châu.  Nhiều sản phẩm của chúng  ta có thể tìm đuợc mối buôn bán hàng có sẵn và có lợi nhuận một khi  chúng có thể được chuyên chở tới đây và cất hàng lên bờ từ những chiếc  thuyền của chúng ta, trong khi các chiếc thuyền của các nước khác còn  phải chờ đợi để thực hiện được sự mua bán hay khoản đầu tư, hay để được  thuê mướn trong các cuộc ghé bến mua bán ngắn ngày tại các Hải Cảng hay  Bờ Biển lân cận. (24)
 
  
hình ảnh tàu USS Peacock gặp nạn được vẽ bởi Alfred T. Agate Chín  tháng sau đó, nơi cùng lá thư trong đó ông báo cáo phản ứng của phía  Việt Nam đối với sứ bộ đầu tiên của đặc sứ Roberts (xem phần trên), ông  Balestier đã đệ nạp đơn đầu tiên trong nhiều đơn xin nhận phần việc của  ông Roberts:
Một  khi sự lân cận của tôi, và [một từ không đọc được) của tôi để giao  tiếp, với Cochinchina và Xiêm La được nghĩ là một kênh thích hợp để thực  hiện các mục đích hữu ích, tôi xin đề nghị được sẵn sàng để phục vụ  Tổng Thống …(25)
Tuy  nhiên, trong tháng Ba năm 1835, Bộ Trưởng Ngoại Giao John Forsyth đã  gửi đến ông Roberts một thông báo chính thức rằng Tổng Thống một lần nữa  đã bổ nhiệm ông ta làm Đại Lý, lần này để trao đổi các sự phê chuẩn các  hiệp ước mà Roberts đã ký kết với nước Xiêm La và Muscat. Ông Roberts  cũng sẽ “kiến tạo các sự sắp xếp thương mại như thế với các chủ quyền  khác có lãnh địa nằm dọc Ấn Độ Dương, khi mà chúng có thể mang lại sự  thăng tiến hay an toàn cho nền Thương Mại của Hoa Kỳ tại khu vực đó,”  (26)  Văn thư của Bộ Trưởng Forsyth trao cho Roberts cả những chỉ thị cụ thể lẫn các thẩm quyền chuyên đoán rộng rãi:
Từ  Xiêm La, ông sẽ tiến sang Cochinchina, và vận dụng mọi nỗ lực, phù hợp  với phẩm chất của Chính Phủ này, và với các phương tiện đã được cung cấp  cho ông, để hình thành một hiệp ước thương mại với xứ sở đó.  Trong  các nỗ lực mà ông được ước định sẽ thực hiện để hoàn thành mục tiêu  này, phần lớn công việc nhất định phải để tùy vào sự chuyên đoán của  chính ông.  Mọi điều được thực  hiện bởi Chính Phủ này tự nó đã cho thấy thực sự là nhằm trợ giúp cho  các cuộc thương thảo của ông với một dân tộc có những tục lệ và cảm nghĩ  đặc thù của phương Đông và quá khác biệt với cá tính của chúng ta. Ông  sẽ có thẩm quyền chuyên quyết về số lượng tặng phẩm được nghĩ là cần  thiết để mở đường cho các cuộc thương thảo, mà ông sẽ phân phối trong  cách thức ông có thể nghĩ là hiệu quả nhất cho sự thành công của ông; và  ông cũng được chuẩn cấp thẩm quyền để khoản đãi, và với một lá thư của  Tổng Thống gửi đến vị Hoàng Đế, trong sự chuẩn bị quan điểm cần có đối  với những tư tưởng của quốc gia mà lá thư nhắm đến, trong sự tôn trọng  nghi lễ tiêu biểu cho mọi tiếp xúc với vị Chủ Tể quốc gia.  Tuân  hành theo cùng chính sách, dĩ nhiên ông sẽ tự mình thích nghi với những  khái niệm và tập quán đặc thù của xứ sở đó, bất kể chúng có thể phi lý  đến đâu, ông có thể sẽ làm như thế ở bất cứ nơi đâu nếu đó không phải là  một sự thừa nhận tư thế hèn kém vốn sẽ không phù hợp với phẩm chất của  Chính Phủ của chính ông, một chính phủ mà trong mọi trường hợp, ông sẽ  xác quyết sự đồng đẳng với những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới.  Ông sẽ ghi nhớ một cách chuyên chú về tất cả những nhân vật mà ông có  dịp giao tiếp trong tình trạng đặc biệt, cá tính, và quan điểm về xứ sở  này: đó là một phần cốt yếu trong chính sách của chúng ta để tránh sự  liên hệ chính trị với bất kỳ một Chính Phủ nào khác: rằng mặc dù chúng  ta là một nước hùng mạnh, sở đắc các nguồn tài nguyên vĩ đại, với một  nền mậu dịch trải rộng, và một hạm đội hải quân to lớn, tất cả lịch sử  đã qua của chúng ta cho thấy chúng ta không có tham vọng chinh phục:  rằng chúng ta không mong muốn chiếm hữu các thuộc địa: rằng chúng ta tìm  kiếm một sự giao tiếp tự do và thân hữu với tòan thể thế giới: và rằng  các quyền lợi cùng các xu hướng của chúng ta dẫn dắt chúng ta đến việc  không nên gây chiến với bất kỳ dân tộc nào, ngoại trừ trong trường hợp  tự vệ, hay trong sự bênh vực cho những quyền lợi hay danh dự của chúng  ta đã bị xúc phạm. Ông sẽ vạch rõ, ở bất kỳ nơi đâu cần thiết, sự khác  biệt hiện hữu giữa chính chúng ta với các nước khác trong các khía cạnh  này; và hãy cố gắng để lọai bỏ các sự sợ hãi và các thành kiến có thể đã  phát sinh bởi sự lấn chiếm hay xâm lăng của các cường quốc Âu Châu.  (27)
Một  hạm đội nhỏ gồm hai chiếc thuyền hải quân, chiến thuyền một buồm  Peacock và chiến thuyền hai buồm Enterprise, dưới sự chỉ huy của Thiếu  Tướng E.P. Kennedy, được đặt dưới sự điều động của Đặc Sứ Roberts để thi  hành nhiệm vụ của ông ta.  Thiếu Tướng Kennedy chính vì thế đã trở thành vị tư lệnh đầu tiên của “Hạm Đội Đông Ấn.” (28)
Sau  khi trao đổi sự phê chuẩn với Muscat và Xiêm La trong các buổi lễ trọng  thể, Đặc Sứ Roberts và hạm đội của ông lái thuyền rời Xiêm La sang  Cochinchina hôm 20 tháng Tư, năm 1836.  Chỉ trừ một số ít người, các sĩ quan và thủy thủ của cả hai chiếc tàu đều mắc bệnh, một vài người bị bệnh nặng.  Ngay chính Roberts cũng bị mắc bệnh.(29)  Phái  bộ Roberts đã đến Vịnh Đà Nẵng hôm 14 tháng Năm, 1836, và đã mất tám  ngày để cố xác định xem là liệu sự thương thảo một hiệp ước thương mại  với Cochinchina có là một đề nghị thực tiễn hay không -- thực ra chỉ là  sự tái diễn những thất vọng của phái bộ đầu tiên của Đặc Sứ Roberts vài  năm trước đó.  Khi một phái đoàn  quan chức địa phương lên tàu, mặc dù phái bộ bị trở ngại vì không có một  thông dịch viên thích đáng, Roberts và phái đoàn của ông đã trình bày  mục đích của cuộc thăm viếng của mình và trao cho họ một lá thư, soạn  thảo bằng Pháp ngữ và Anh ngữ, được gửi lên Triều Đình tại Huế. Bức thư  giải thích mục đích của phái bộ và yêu cầu một sự phúc đáp sớm bởi cơn  bệnh nặng của Đặc Sứ Roberts và cơn bệnh lây lan trong thủy thủ đoàn.  Phái đoàn [Việt Nam] thăm tàu báo cho họ hay rằng một sự phúc đáp có thể nhận được trong vòng ba ngày.  Trong  lần lên tàu kế tiếp họ không thể bị thuyết phục rằng ông Roberts là đặc  sứ bởi ông không mang ngù vai [để chỉ cấp bậc, chú của người dịch]  giống như các sĩ quan hải quân Hoa Kỳ khác.  Các  quan chức Việt Nam, sau khi tiên đóan một sự chậm trễ khoảng 5 ngày,  rồi 11 ngày, sau hết đã giải thích rằng, bởi không có một ai ở kinh đô  có thể đọc được thư của ông Roberts, một quan chức đã được hoàng đế phái  xuống và hiện đang chờ đợi trên bờ để đón tiếp Đặc Sứ Roberts.  Ông Roberts đã trả lời rằng “nghi lễ đòi hỏi quan chức do hoàng đế phái tới phải đến gặp ông ấy trước.“  Các  viên chức địa phương quay trở lại sáng ngày hôm sau và đã phải trở về  buồn bã khi đặc sứ Roberts bị bệnh quá nặng để đón tiếp họ.
Vào  khi đó, theo một bản tường thuật của W.S.W. Ruschenberger, một bác sĩ  hải quân cùng đi trong chuyến du hành, bệnh tật lây lan sâu rộng trên cả  hai chiếc thuyền và sức khỏe của Roberts đã ở vào một tình trạng “hiểm  nghèo” đến nỗi tàu bắt buộc phải đi tìm nơi khác để chữa trị.  Tuy  nhiên, phái bộ đã quyết định trước khi trương buồm ra đi là cần phải  tìm hiểu xem liệu có triển vọng khả thi nào hay không cho việc thương  thảo một hiệp ước thương mại.  Nếu  viễn ảnh thuận lợi, các chiếc tàu có thể sẽ quay trở lại khi tình hình  thích hợp hơn và sẽ bổ sung thích đáng các thông dịch viên.  Tuy nhiên nếu viễn ảnh không thuận lợi, không cần phí thời giờ để quay trở lại.  Ruschenberger đã mô tả tình trạng một cách đầy tượng hình như sau:
Điều  được nhận định kế đó rằng chỉ có rất ít hy vọng có thể kỳ vọng được  trong việc thương thảo với một dân tộc biểu lộ sự không tin tưởng và  lòng ngờ vực trên những điểm lặt vặt nhất trong sự giao tiếp; tuy nhiên  lại là những kẻ sẵn sàng chiếm lấy trục lợi một cách không công bằng, mà  xem ra không ưng chịu trao đổi hỗ tuơng bất kỳ điều gì để đạt được các  quyền lợi của chính mình.  Liệu  một hiệp ước giữa Hoa Kỳ và Cochinchina, ở thời điểm này, có đặc biệt  đáng mong ước hay không, tôi đã từng nghe thấy sự tra vấn bởi nhiều  thương gia kinh nghiệm và thông minh, những kẻ đã khuyến cáo rằng người  Cochinchina có tính tráo trở, và sẽ không bao giờ tôn trọng các điều  khỏan của bất kỳ hiệp ước nào; rằng họ ở quá xa xôi khiến chúng ta có  thể nhập khẩu các chế tạo phẩm hay nông phẩm của họ vào thị trường của  chúng ta mà có lời; rằng sự hiện diện của một hiệp ước cũng không mang  lại cho chúng ta quyền hạn để đòi hỏi họ phải kiểu chính bất kỳ sự đối  xử không thích đáng nào đối với công dân chúng ta nhiều hơn mức độ hiện  tại; và rằng lợi điểm duy nhất của một hiệp ước, và rằng, ngay trong  trong tình trạng tốt nhất, điều này cũng còn mơ hồ,  chỉ  có thể được xem là một bước để tiếp cận với chính nước Trung Hoa; thế  nhưng tôi nhường sự thảo luận về chủ điểm này cho các nhà ngoại giao,  các chính trị gia và các viên chức hữu trách, là những ngườI có thể khám  phá ra nơi đây một phương tiện tức thời thúc đẩy được các quyền lợi  riêng của chính họ và sự vinh quang của đất nước họ. (30)
Ruschenberger viết tiếp:
Người  Anh đã thực hiện nhiều nỗ lực nhưng không thành công để ký kết một hiệp  ước với Cochin-china, và đã quy trách sự thất bại của họ cho sự xuyên  tạc của người Pháp và người Bồ Đào Nha, về cá tính của nước Anh.  Nhưng  có những trở ngại khác nằm trong sự ước lượng thấp kém về các thương  nhân mà phía Cochinchina đã có thành kiến, và những cuộc chiến tranh nội  thù và chống ngoại xâm thường xuyên làm cho chính quyền xao lãng [ngoại  thương] trong thời gian dài.  Ngay  hiện giờ, họ đang tranh chấp với người Xiêm La về lãnh thổ của Căm Bốt,  phần đất có vẻ từ lâu họ mong muốn sáp nhập vào lãnh thổ của họ. (31)
Vào  sáng ngày 22 tháng Năm, theo chỉ thị của đặc sứ Roberts sắp chết,  Ruschenberger đã lên bờ cùng với một phái đoàn nhỏ để chuyển đồ vật lên  một quan chức hàng đầu.  Họ đã có  các cuộc gặp gỡ với các nhân vật có chức vụ cao dần cho đến khi sau hết  họ hội kiến với quan chức cao cấp được phái đến bởi hoàng đế.  Trong  các cuộc thảo luận của họ, điều được nhận thấy rõ ràng là phía  Cochinchina lấy làm phật ý vì sự từ chối của Roberts không tiếp kiến các  viên chức địa phương lên tàu ngày hôm trước.  Tuy  nhiên, một viên chức hạng thứ nhì, người mà họ đã nói chuyện trước khi  vị sứ giả của hoàng đế tới nơi, đã đề nghị lên tàu để gặp gỡ Đặc Sứ  Roberts.  Đề nghị này bị từ chối vì “mục đích của chúng ta sẽ chẳng xúc tiến bởi việc chấp nhận đề nghị này.”  Tuy nhiên, Ruschenberger đề nghị sẽ hộ tống vị sứ giả của hoàng đế lên tàu gặp Đặc Sứ Roberts.  Sau  cuộc thảo luận khá lâu, Ruschenberger tuyên bố rằng nếu vị sứ giả của  hoàng đế từ chối không gặp họ, các chiếc thuyền sẽ rong buồm ra đi vào  tối hôm đó. Ông có nói thêm rằng trong trường hợp đó Đặc Sứ Roberts sẽ  lấy làm tiếc không gặp được sứ giả của hoàng đế.
Sau cùng, Lakak [Nội Các ?, chú của người dịch], vị sứ giả của hoàng đế đã đến.  Giống  như các đồng sự của ông ta đã làm trước đó, ông tra hỏi về việc tại sao  Đặc Sứ Roberts không tiếp những viên chức đã đến xin gặp ông ấy vào  sáng hôm trước.  Ruschenberger  lập lại lời giải thích của mình, và nói ông được uỷ nhiệm bởi Đặc Sứ  Roberts để thông báo với quan Lakak rằng đặc sứ Roberts có mang một lá  thư và các tặng phẩm của Tổng Thống Hoa Kỳ gửi cho Hoàng Đế Cochinchina  và được ủy quyền để thương thảo một hiệp ước thương mại hay để tìm hiểu  trên căn bản nào các tàu của Hoa Kỳ cóthể mua bán tại các hải cảng của  Cochinchina. Đặc sứ Roberts muốn thông báo rằng, ông Ruschenberger viết  tiếp, cơn bệnh của chính ông và của bệnh trạng của các thủy thủ rất tiếc  bắt ông phải từ giã cấp thời, nhưng ông hy vọng rằng sẽ quay trở lại  vào lúc nào đó với các thông dịch viên.
Quan Lakak hỏi là liệu Ruschenberger có mang bức thư của Tổng Thống hay không và  được trả lời rằng chỉ Đặc Sứ Roberts mới có quyền chuyển giao thư đó.  Ông quan hỏi rằng Roberts đã giao một lá thư cho ai trong chuyến công  tác đầu tiên và được trả lời rằng lá thư được trao cho một quan chức là  người đã từ chối không chịu chuyển thư đi nếu không được thực hiện các  sự sửa chữa không thể chấp nhận được trong bức thư.  Quan Lakak hỏi là có thông dịch viên nào trên tàu hay không, và, khi ông biết ra  rằng không có thông dịch viên nào cả, ông đã nêu câu hỏi là làm sao có  thể thương thảo được nếu không có các thông dịch viên.  Ruschenberger đã giải thích rằng họ đã trông chờ ở sự giúp đỡ của người Pháp, những người mà họ giả định đang cư ngụ tại Huế.  Sau  đó ông hỏi rằng quan chức Việt Nam có được ủy quyền để ký kết một hiệp  ước thương mại hay không, đưa ra nhận định rằng các tàu thuyền Hoa Kỳ đã  không ghé Cochinchina bởi vì họ không biết rằng họ có được đón tiếp hay  không, hoặc những lệ phí mà họ có thể sẽ phải trả là những khỏan gì.  Ông nói nếu một hiệp ước thương mại được ký kết, công cuộc mua bán mang lợi lộc cho cả hai bên sẽ diễn ra.  Quan Lakak nhận xét rằng người Pháp và người Hòa Lan đã đưa ra các đề nghị tương  tự trong năm trước, nhưng ông ta không rõ câu trả lời mà nhà vua đã phúc  đáp họ ra sao. Ông bổ túc rằng ông không được quyền để nói là liệu  hoàng đế có sẵn lòng thương thảo hay không, hay liệu các thuyền tàu Hoa  Kỳ có được phép mua bán hay không.
Quan Lakak lại yêu cầu nhận lá thư của Tổng Thống, và một lần nữa bị từ chối, tiếp  theo đó ông ta tuyên bố ông sẽ rút về nếu phía Hoa Kỳ không còn gì để  nói nữa.  Khi Ruschenberger bắt  đầu rời bước, lập lại sự hối tiếc của ông ta rằng bệnh tật trên tàu và  sự thiếu thông dịch viên bắt buộc họ phải ra đi, quan Lakak đột nhiên đề nghị giải quyết tức thời mọi chuyện giữa họ với nhau.  Ruschenberger nói rằng điều đó không thực hiện được bởi họ không có các thông dịch viên cần thiết cho một công tác như thế.
Khi viên quan Lakak nhắc lại đề nghị của ông ta hai lần, Ruschenberger nói mình sẽ thông báo đề nghị đó với Đặc Sứ Roberts.  Thế rồi quan Lakak lại hỏi liệu Đặc Sứ Roberts có lên bờ hay không, và Ruschenberger nhắc lại rằng nghi lễ đòi hỏi quan Lakak phải lên tầu gặp Đặc Sứ Roberts trên tàu trước.  Cuộc thảo luận kéo dài hơn nữa kế đó; Ruschenberger lập lại rằng ông sẽ chuyển đề nghị của quan Lakak đến Đặc Sứ Roberts, nhưng ông nghĩ rằng các chiếc tàu sẽ trương buồm rời đi vào tối ngày hôm đó.  Quan Lakak lại nói một sự phúc đáp từ Hoàng Đế chắc sẽ có được từ ba đến năm ngày  nữa, và ông sẽ cố tìm kiếm một vài thuốc men cho các người bị ốm đau  trên thuyền.  Lâm thời, ông nói, các sĩ quan và nhân viên con tàu có thể lên bờ để giải trí.  Ông  ta cũng cố gắng để thuyết phục Ruschenberger, trong một nỗ lực rõ ràng  là muốn chiếc thuyền lưu lại, rằng số tiếp tế nước của các chiếc tàu  không tốt và cần được thay thế.  Roschenberger  kết thúc sự tường thuật này như sau: “Chúng tôi bắt tay nhau, và tôi đã  giã từ với ấn tượng tin tưởng rằng, mặc dù một hiệp định có thể kỳ vọng  được, nó đòi hỏi nhiều thời gian và sự kiên nhẫn, để khắc phục được  thái độ do dự và nghi ngờ của họ” (32)  Cái  chết của Đặc Sứ Roberts tại Macao hôm 12 tháng Sáu năm 1836 đã được báo  cáo bởi Thiếu Tướng Kennedy, tư lệnh hạm đội, lên Bộ Trưởng Ngoại Giao.  Kennedy  có nói thêm rằng không việc gì được hòan thành sau những ngày rời Đã  Nẵng bởi cơn bệnh trầm trọng của Đặc Sứ Roberts. (33)
Viên  chức lãnh sự Hoa Kỳ, Scotten, tìm thấy đoạn tham chiếu sau đây về sứ bộ  thứ nhì của Roberts trong các văn khố hoàng triều ở Huế:
Mùa hạ, tháng Tư, năm Minh Mạng thứ 17 (tháng Năm, năm 1836).
Một chiến thuyền Hoa Kỳ đã thả neo ở vịnh Trà Sơn, hải cảng Tourane, tỉnh Quảng Nam.  Các  sĩ quan có báo tin rằng họ có một lá thư của tổng thống nước họ muốn  tìm cách thiết lập các quan hệ và yêu cầu được đệ trình lên Hoàng Đế.  Các  quan chức của tỉnh này đã trình vấn đề này lên Hoàng Thượng và Ngài  cũng đã thảo luận vấn đề này vớI ông Đào Trí Phú, một quan chức của Bộ  Hộ: “Các ý định và các lời lẽ của những người này đối với ta xem ra có  tỏ vẻ tôn kính và lịch sự.  Nếu không chấp thuận các nguyện vọng của họ, chắc sẽ là điều không thích hợp.
“Thưa Ngài, họ là những người ngoại quốc và chúng ta không biết rằng liệu các cảm tình mà họ biểu lộ là chân thật hay giả dối.  Hạ  thần nghĩ rằng chúng ta nên cho phép họ lai kinh và và sắp xếp cho họ  trú ngụ tại cơ sở của phòng ngoại thương, và chỉ thị các quan của ta  tiếp đãi họ tử tế và thăm dò các mục đích của họ”
Ông  Hùynh Quỳnh, một viên chức thuộc ban thư ký riêng trong Hoàng Cung, có  nêu ý kiến của mình: “Thưa Ngài, dân tộc của họ thì rất quỷ quyệt và  [ta] có lý do để cắt đứt mọi quan hệ với họ.  Khoan nhượng với họ lần này có thể gây ra các khó khăn cho chúng ta trong tương lai.  Cổ  nhân từ thời xa xưa đã đóng cửa biên cuơng đất nước của mình để không  phải tiếp đón người dân của các nước tây phương và để bảo vệ mình chống  lại sự xâm lăng của giống dân mọi rợ.  Đó là một chính sách hay.”
Hoàng Thượng đáp lời:
“Vượt  các đại dương và một khoảng cách bốn mươi nghìn dặm *, thúc đẩy bởi các  cảm tình của lòng ngưỡng mộ quyền lực và đức hạnh của Chính Phủ chúng  ta, họ đã đi hết con đường này để đến đây.  Nếu chúng ta nhất quyết cắt đứt mọi quan hệ với họ, chúng ta tự phơi bày cho họ thấy rằng chúng ta không có thiện chí bao dung.”  Và  Hoàng Thượng đã phái ông Đào Trí Phú và ông Lê Bá Tư (viên chức thuộc  Bộ Lại), được ban cấp các chức năng của phòng ngoại thương, được thực  hiện các quan hệ hữu nghị và tìm hiểu tình hình.  Khi đến nơi, vị chỉ huy chiếc thuyền nhắn tin rằng ông ta bị đau ốm và không thể đích thân tiếp đón họ được.  Các  sứ giả hoàng triều vì thế đã gửi một thông dịch viên đến thăm viếng ông  ta và viên chỉ huy thuyền, để đáp lễ, đã phái đạI diện đến để bày tỏ sự  cảm ơn.  Trong cùng ngày đó,  chiếc tàu đã trốn đi. Ông Đào Trí Phú đã gửi lên Ngai Vàng một bản báo  cáo ghi chép về công việc của ông và cùng với các sự việc khác có nêu  nhận định: “Trong vội vã, họ đến; trong vội vã, họ ra đi; chắc hẳn là họ  thiếu lễ nghị”
Hoàng Đế đã phê trên bản báo cáo đó bằng một bài thơ tứ tuyệt như sau:
Chúng ta không chống đối khi họ đến,
Chúng ta không truy kích khi họ đi,
Chúng ta cư xử theo cung cách của một dân tộc văn minh,
Chúng ta đâu được lợi gì khi phàn nàn về các ngoại nhân man rợ? (34)
---------
·         một dặm tương đương với 888 mét. 
======================   
GHI CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH:
 1. Đính kèm theo bài dịch là các văn kiện lịch sử kể sau:
 PHỤ LỤC A: Bản dịch Chỉ Thị  chính thức đầu tiên của Bộ Trưởng Ngoại Giao Edward Livingston gửi cho  Đặc Phái Viên Edmund Roberts về công tác ngoại giao tại Việt Nam, đề  ngày 27 tháng Một, năm 1832..
 PHỤ LỤC B: Bản sao chụp thư  của Tổng Thống Hoa Kỳ Andrew Jackson gửi Quốc Vương An Nam Minh Mạng,  không được chuyển giao vì bị xem là không xưng hô đúng cách.
PHỤ LỤC C: Bản sao chụp Dự Thảo Hiệp Ước Thương Mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, do ông Edmund Roberts soạn thảo.
 PHỤ LỤC D: Bản dịch Báo Cáo Tóm Lược của Đặc Phái Viên Edmund Roberts về Sứ Bộ đầu tiên sang Việt Nam.
 2.  Vài nét về các nhân vật liên hệ:
 a. Edmund Roberts: 
 Ông Roberts sinh ngày 27 tháng Sáu năm 1784  tại Postmouth, New Hampshire và chết tại Macao, Trung Hoa ngày 12 tháng  Sáu năm 1836.
 Tiếp theo sau cuộc chiến tranh năm 1812, hoạt  động thương mại hải hành của cảng Portsmouth, nơi sinh của ông Roberts,  bị suy giảm đáng kể.  Mặc dù nhiều kỹ nghệ mới có mở ra nhiều cơ hội  đầu tư, nhưng một số gia đình bỏ vốn vào ngành vận tải đường biển vẫn  tin tưởng rằng họat động hải thương rồi sẽ lại đuợc phát triển.  Một  trong những kẻ tin tưởng đó là Edmund Roberts, người đã thừa kế doanh  nghiệp vận tải đường biển của người chú tại nước Ba Tây và đã dọn doanh  nghiệp đó về Portsmouth.
Ông Roberts lập gia đình với bà Catherine  Whipple Langdon vào năm 1808, không lâu sau khi trở về từ Ba Tây.  Ông  có một gia đình hạnh phúc và sinh được tám người con.  Tuy nhiên, công  việc kinh doanh của ông không được phát triển, và cuối cùng ông đã mất  hết các của cải thừa kế.  Khoảng cuối thập niên 1820, ông tìm kiếm một  chức vụ thích hợp trong chính quyền.  May mắn là một thân nhân tên Levi  Woodbury, Bộ Trưởng Hải Quân, đã vận động cho ông được giao nhiệm vụ làm  đặc phái viên để thiết lập các quan hệ mậu dịch với vùng Trung Đông và  Viễn Đông.
 Đó là hoàn cảnh đã đưa đến việc ông Edmund  Roberts trở thành Đặc Sứ Hoa Kỳ đầu tiên sang Việt Nam để thương thảo về  một hiệp định thương mại vào năm 1832, như trong bài viết được dịch ở  trên.
 b. William Samuel Waithman Ruschenberger
 Ông William Samuel Waithman Ruschenberger  sinh ngày 4 tháng Chín năm 1807 tại gần Bridgeton, tiểu bang New Jersey,  là một bác sĩ phục vụ trong ngành Quân Y Hoa  Kỳ.  Ông công tác như bác  sĩ giải phẫu trên nhiều tuần dương hạm của Hoa Kỳ. Ông đuợc bổ nhiệm  làm ủy viên ủy ban soạn thảo nội quy và lập kế hoạch để thành lập Học  Viện Hải Quân Hoa Kỳ.  Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ, ông được bổ  nhiệm là bác sĩ trưởng khoa giải phẫu tại Bệnh Viện Boston Navy Yard.   Ông lên đến chức Thiếu Tướng trước khi hồi hưu. Ông từ trần tại  Philadelphia, Pennsylvania ngày 24 tháng Ba, 1895.
 Sau khi Edmund Roberts qua đời trên chiếc tàu  Peacock trong sứ bộ lần thứ nhì sang Việt Nam, bác sĩ Ruschenberger đã  phụ trách phần Nhật Ký Hải Hành trên tàu, và do đó chúng ta có được các  đoạn tường thuật về hoạt động của sứ bộ này, như đã được chuyển dịch ở  tren.
 3. Nhận xét của công tác của sứ bộ đầu tiên:
 Theo các tác giả Stephen Pan và Dennis Lyons,  trong quyển Vietnam Crisis, do The East Asian Research Institute xuất  bản tại Riverside, New York, 1966, sự thất bại của sứ bộ ngoại giao Hoa  Kỳ đầu tiên tại Đông Á là do các yếu tố kể sau (các trang 4-5):
 I. Lá thư của Tổng Thống Andrew Jackson, mà  ông Roberts mang theo, được đề gửi đến Quốc Vương An Nam, trong khi cần  đề gửi cho Hoàng Đế.
 II. Khi các viên chức Việt Nam nêu ý kiến với  ông Roberts rằng ông cần viết một lá thư lên vị Thương Thư phụ trách  Ngoại Giao, Thương Mại và Hải Hành, ông ta nói với họ là cách dùng chữ  mà họ đề nghị có tính cách nhục ma.  Các viên chức giải thích rằng đây  chỉ là hình thức lịch sự của Đông Phương.
 III. Ông Roberts tự mình soạn thảo lá thư gửi  vị Thượng Thư Ngoại Giao, Thương Mại, Hải Hành tại Huế, yêu cầu có một  cuộc phỏng vấn với Hoàng Đế Cochin-china “trong thời khoảng ít mất thời  giờ nhất có thể được.”  Các phụ tá của quan Thượng Thư yêu cầu ông  Roberts phát biểu về mục đích của ông khi yêu cầu một cuộc yết kiến  Hoàng Đế.  Họ cũng đòi phải có một bản phiên dịch sang Hán ngữ bức thư  của Tổng Thống Jackson gửi cho Hoàng Đế. Đại diện của ông Roberts, một  ông Morrison nào đó, trả lời rằng “các thư từ của các nhà lãnh đạo Quốc  Gia không thể được đọc bởi các Bộ Trưởng [tức Thượng Thư của Việt Nam,  chú của người dịch] .
 IV. Ông Morrison nhấn mạnh rằng lá thư gửi  Hoàng Đế không được mở ra, mà phải được chuyển giao trực tiếp đến Hoàng  Đế ở Huế, hay phải mang trả về Tổng Thống.
 V. Sau đó ông Roberts đã tố cáo rằng các quan  chức Việt Nam là “thô lỗ” và “kém văn minh,” chỉ trích họ thiếu hợp  tác.  Các quan chức Cochinchina duy trì quan điểm rằng một số nghi lễ,  thủ tục và tập quán nào đó cần phải được tôn trọng.  Họ vạch ra rằng bất  kỳ sứ giả nào từ một nước ngoại quốc đều phải làm việc xuyên qua các  viên chức được ủy nhiệm bởi Hoàng Đế, và không được tiếp xúc trực tiếp  đến chính Hoàng Đế chỉ vì việc mang một lá thư đến Hoàng Đế, mà không  tiết lộ phần còn lại trong mục đích thực sự của việc thăm viếng hoàng  triều.
 VI. Cuối cùng ông Roberts có được một bản  thông dịch sang Hán ngữ lá thư của mình và tiết lộ mục đích của sứ bộ  của mình, nhưng nội dung bức thư của Tổng Thống gửi cho Hoàng Đế thì  không được tiết lộ, vì thế các đại biểu Cochinchina từ chối không chuyển  lá thư của Tổng Thống Jackson đến Hoàng Đế [Minh Mạng] .
 VII. Khi các viên chức Việt Nam hỏi là liệu  ông Roberts có tuân theo một cử chỉ tỏ vẻ kính trọng ở phương Đông bằng  việc mang biếu một món quà cho Hoàng Đế hay không, ông Roberts từ chối  không trả lời.
 VIII. Các viên chức bản xứ có nói với ông  Roberts rằng ông ta sẽ phải làm lễ kow tow [khấu đầu ?, chú của người  dịch], trước Hoàng Đế, có nghĩa, cúi đầu cho trán chạm mặt đất như một  cử chỉ bày tỏ sự tôn kính. Ông ta mạnh mẽ phản đối điều này.  Vì những  lý do này, ông Roberts đã không được phép đến Huế, và các nỗ lực đầu  tiên của Hoa Kỳ để ký kết một hiệp ước tại vùng Đông Á đã kết thúc với  sự thất bại.  Tuy nhiên, ông Roberts đã thành công trong việc kết thúc  các hiệp ước tại Xiêm La ngày 20 tháng Ba và tại Muscat vào ngày 21  tháng Chín, nhân danh Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.
 Phái bộ Roberts chứng tỏ rằng ngay từ năm  1832 Hoa Kỳ đã quan tâm đến việc thiết lập các quan hệ hữu nghị và giao  dịch thương mại với khu vực sau này sẽ được biết là Đông Dương thuộc  Pháp.”
 ------
 CHÚ THÍCH:1.  James D. Richardson, A Compilation of the Messages and Papers of the  Presidents, 1789-1897, Washington D.C.: Government Printing Office,  1896, tập iii, trang 53.
 2. Edmund Roberts, Embassy to the  Eastern Courts of Cochin-China, Siam, and Muscat, in the U.S.  Sloop-of-War Peacock, David Geisinger, Commander, During the Years  1832-3-4, New York: Harper & Brothers, 1837, các trang 5-6.
 3. Về các tin tức khác liên quan  đến các nỗ lực của Shillaber – và các sự thất vọng – cùng sự bổ nhiệm  ông Roberts, xem “Edward Livingston, Secretary of State,” The American  Secretaries of State and Their Diplomacy, Samuel Flagg Bemis, chủ biên,  New York: Alfred Ạ Knopf, 1928, vol. iv.  Cũng xem Tyler Dennett,  Americans in Eastern Asia, New York: Barnes & Noble, Ịnc, 1941,  chương vii.
 4. Edmund Roberts, Embassy, trang 6.
 5. Nguyễn Thế Anh, Bibliographie  Critique sur les relations entre le Viet-Nam et l’Occident, Paris: G-P  Maisonneuve et bLarose, 1967, trang 156, chú thích số 611).
 6. Văn khố Bộ Ngoại Giao, Văn Khố  Quốc Gia, Washington D.C., Special Missions, tập i (1832), Thư gửi ông  Levi Woodbury, Bộ Trưởng Hải Quân, của Edward Livingston, Bộ Trưởng  Ngoại Giao, 5 January, 1832.
 7. Cũng nguồn dẫn trên.  Toàn văn  dịch lại trong Phụ Lục A cùng với bản chụp nguyên văn dự thảo hiệp ước  với Cochinchina (Phụ Lục C) được đính kèm. Đây là những chỉ thị chính  thức đầu tiên của Hoa Kỳ về Việt Nam (Cochinchina).
 8. Cùng nguồn dẫn trên.  Các văn  thư của Đặc Sứ Roberts gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Livingston, ngày 14  February 1832 và ngày 23 July 1832.
 9. Roberts, trang 13.  Trừ khi được  trích dẫn khác đi, bản tường thuật về sứ bộ đầu tiên của Edmund Roberts  sang Cochichina được rút ra chính yếu từ bản tường thuật của chính ông  Roberts.  Tuy nhiên, cũng xem thêm Bemis, Dennett, Hunter Miller,  Treaties and Other International Acts of the United States of America,  Government Printing Office, 1931; tập 3; và Charles Oscar Paullin, Early  Voyages of American Naval Vessels to the Orient, được in lại từ tập san  US Naval Institute Proceedings, bản quyền năm 1910, các trang 716-724.   Các bản báo cáo chính thức của chính Đặc Sứ Roberts về sứ bộ của ông ta  được tìm thấy trong Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Special Agent, tập 10.  Toàn  văn bản báo cáo tóm lược đầu tiên của ông được ghi lại trong Phụ Lục  D.  Cũng cần ghi nhớ rằng tác giả Dennett có liệt kê, như các nguồn tư  liệu về sứ bộ của đặc sứ Roberts, các tài liệu của Roberts được lưu trữ  tại Bộ Ngoại Giao và Thư Viện Quốc Hội, Phòng Lưu Trữ Bản Thảo Viết Tay  (Manuscript Division).
 10. Bản chụp thư của Tổng Thống Andrew Jackson gửi Hoàng Đế Việt Nam đuợc đính kèm nơi Phụ Lục B.
 11. Roberts, Embassy, các trang 171-188. 
 12. Đây là thành ngữ được dùng bởi các viên chức cấp dưới, trong sự giao tiếp với cấp trên, khi tự xưng hô cho chính mình.
 13. Roberts, Embassy, các trang 182-184.
 14. Cùng nguồn dẫn trên, các trang 189-190.
 15.Cùng nguồn dẫn trên, trang 201.
16.Cùng nguồn dẫn trên, trang 214.
17. Cùng nguồn dẫn trên, trang 215.
18. Cùng nguồn dẫn trên, các trang 219-220.
19. Cùng nguồn dẫn trên, trang 225.
20. Ông Edmund Roberts.
21.  Bulletin des Amis du Vieux Hue, năm thứ 24, số 1, January-March 1937,  “Notelettes,” bởi L. Sogny, II, “An American Mission in Annam under Minh  Mang,” các trang 63-64.  Cũng xem W. Everett Scotten, “Sire, Their  Nation is Very Cunning…,” The American Foreign Service Journal, tập xii,  January 1935, trang 15.
22. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Các Văn Thư Tòa Lãnh Sự Singapore (Singapore Consular Letters) .
23. Xem báo cáo của Roberts, Phụ Lục D.
24. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Phòng Đọc Vi Phim, Văn Khố Quốc Gia, Washington D.C., Singapore Consular Letters.
25. Cùng nguồn dẫn trên, thư đề ngày 30 March 1835.
26. Cùng nguồn dẫn trên, Special Missions, I, văn thư gửi đặc sứ Edmund Roberts của Bộ Trưởng Ngoại Giao Forsyth, 20 March 1835.
27. Cùng nơi dẫn trên.
28. Charles Oscar Paullin, Early Voyages …, trang 721.
29.  W.S.W. Ruschenberger, A Voyage Round the World; Including An Embassy to  Muscat and Siam, in 1835, 1836, and 1837, Philadelphia: Carey, Lea,  & Blanchard, 1838, trang 347. Đoạn tường thuật này về sứ bộ lần thứ  nhì của Roberts sang Việt Nam được dựa chủ yếu vào quyển sách của  Ruschenberger.
30. Cùng nguồn dẫn trên, trang 357.
31. Cùng nơi dẫn trên.
32. Cùng nguồn dẫn trên, trang 364.
33. Hunter Miller, tập 3, các trang 780-786.
34.  Bulletin des Amis du Vieux Huế, “An American Mission,” Có sự khác biệt  nhỏ trong các bản dịch của các tài liệu của hoàng triều này trong quyển  “Les premìeres relations entre le Viet-Nam et les États Unis  d’Amérique,” của Thái văn Kiểm, Bulletin de la Société des Études  Indochinoises, Saigon, tập 37, số 3, 1962, trang 285.  Tuy nhiên, hai  bản dịch không khác nhau về mặt nội dung./-
      
PHỤ LỤC A
Các Chỉ Thị Của Bộ Trưởng Ngoại Giao Livingston 
gửi Đặc Sứ Edmund Roberts
Gửi ông Edmund Roberts,
Bộ Ngoại Giao,
Hoa Thịnh Đốn, ngày 27 tháng Một, 1832
 Thưa Ông: --- Tổng Thống đã bổ nhiệm  ông làm phái viên của Tổng Thống với mục đích khảo sát, tại vùng Ấn Độ  Dương, các phương thức để mở rộng nền thương mại của Hoa Kỳ bằng sự sắp  xếp thương mại với các quyền lực mà lãnh địa giáp ranh với vùng đại  dương nói trên, ông sẽ đáp lên chiếc chiến hạm Hoa Kỳ, mang tên Khổng  Tước (Peacock), trên chiếc tàu đó để che dấu nhiệm vụ của ông nhằm tránh  các quyền lực có quyền lợI khác có thể tìm cách phá hoại các mục tiêu  mà Tổng Thống nhắm đến, ông sẽ đóng vai Thư Ký của Thuyền Trưởng.  Lý  lịch thực sự của ông được thông báo cho Thuyền Trưởng Geisinger, và  không cần tiết lộ cho bất kỳ người nào khác trên tàu trừ khi ông thấy là  cần thiết, cho công việc của ông, để bộc lộ cho các người khác.
Khi  mà ông tiến vào vùng Ấn Độ Dương từ phía đông, địa điểm đầu tiên mà các  bổn phận của ông khởi sự sẽ là Cochinchina [Việt nam ngày nay, chú của  người dịch] .  Tại đây ông sẽ tiến đến thủ đô của xứ sở đó tức Huế, đôi  khi được gọi là Huéfoo [phố Huế ?, chú của người dịch], hay một thành  phố hoàng triều như thế là nơi có Quốc Vương cư ngụ.  Trên hành trình  đến nơi này, ông sẽ phải tự tìm hiểu một cách tỉ mỉ sự mua bán được thực  hiện giữa Vương Quốc này với các xứ khác -- bản chất các sản phẩm của  nước này, bất luận là sản phẩm thiên nhiên, canh tác, hay chế tạo -- nền  thương mại hải hành và sức mạnh quân sự của nó – và về các loại hàng  hóa cho sự tiêu thụ tổng quát, hay được yêu cầu cho nền thương mại riêng  của họ với các nước khác -- về những đặc ân được ban cấp, hay các sắc  thuế quá đáng được hành thu, nền thương mại của các quốc gia khác đang  trao đổi với họ.
 Khi đến nơi, ông sẽ đích thân yết  kiến Nhà Vua và trình bày thẩm quyền của ông và đệ trình thư gửi đến  Quốc Vương. Ông sẽ phát biểu rằng Tổng Thống chúng ta có nghe biết về  danh tiếng của Quốc Vương [là người] yêu chuộng lẽ công bằng, và mong  muốn cải thiện các ưu thế của nền thương mại để làm lợi cho người dân  của Ngài, nay phái ông sang để tìm hiểu là liệu Quốc Vương có sẵn lòng  cho phép thuyền bè của chúng ta cập bến các hải cảng của Ngài với những  loại hàng hóa sẽ hữu dụng cho Ngài và thần dân của Ngài, và đổi lại, để  thu mua các sản phẩm công nghiệp hay sản phẩm canh tác từ đất đai của  họ.  Rằng chúng ta chế tạo, và có thể mang đến, các vũ khí, đạn dược,  vải dệt bằng bông và len, thủy tinh, vân vân (hãy liệt kê tất cả những  loại hàng mà ông biết được là họ thường nhập cảng) -- rằng chúng ta có  thể cung cấp các hàng hóa đó với giá rẻ hơn bất kỳ nước nào khác, bởi vì  các nguyên tắc của quốc gia chúng ta là chống lại việc xây cất các  thành lũy, hay kiến tạo các cớ sở tốn kém tại các xứ sở ngoại quốc --  rằng chúng ta không bao giờ thực hiện các cuộc chinh phục [thuộc địa],  hay đòi hỏi bất kỳ quốc gia nào khác cho phép chúng ta định cư tại quốc  gia của họ, như các người Anh, người Pháp hay người Hòa Lan đã làm tại  vùng Đông Ấn Độ.  Tất cả điều mà chúng ta yêu cầu là quyền tự do đến và  đi cho mục đích mua và bán, sẵn sàng tôn trọng các luật lệ của xứ sở  trong khi chúng ta có mặt ở đó.  Nhưng trong khi chúng ta không đòi hỏi  đặc lợi chuyên độc nào, chúng ta sẽ không tiến hành việc mua bán của  chúng ta tại nơi mà chúng ta bị đối xử ở bất kỳ mức độ nào tồi tệ hơn  các quốc gia khác.  Chúng ta sẽ đóng tất cả các sắc thuế được yêu cầu  bởi thẩm quyền của Quốc Vương, nhưng chúng ta sẽ không chịu trả nhiều  hơn bất kỳ quốc gia nào khác, hay chúng ta sẽ không chịu đóng các khoản  lạm thu quá đáng của bất kỳ quan chức thuộc cấp của Quốc Vương -- rằng  vị Tổng Thống của chúng ta rất hùng mạnh, có nhiều chiến thuyền đặt dưới  quyền chỉ huy của ông nhưng các chiến thuyền chỉ được dùng vào việc bảo  vệ nền thương mại của chúng ta chống lại sự cưỡng chế -- rằng nếu Quốc  Vương mong muốn đạt được các ưu thế của nền mâu dịch của chúng ta, Quốc  Vương phải ký kết một hiệp ước theo đó các sự quy định nêu trên phải  được bảo đảm cho các thương nhân của chúng ta -- rằng ngay tức thời khi  mà hiệp ước này được công bố các tàu bè của chúng ta sẽ lui tới các hải  cảng của Quốc Vương, làm giàu cho Ngài bằng các số thuế mà Ngài sẽ thu  được, và cho thần dân của Ngài qua việc mua bán của họ.  
 Một điểm quan trọng là, phải có được  một sự cho phép công khai để trao đổi mua bán, nói chung, với người  dân, bởi chúng ta được biết rằng tại phần lớn, hay tại tất cả các hải  cảng, các Quan Chức, hay các viên chức khác, hiện đang nắm độc quyền  ngoại thương, đã không chấp thuận cho bất kỳ công dân nào được mua bán  với người ngọai quốc.
Ông sẽ được ban cấp thẩm quyền để ký kết  một hiệp ước -- nếu có thể đạt được một hiệp ước với các điều khoản  xác  định ở trên, và các điều khoản khác như sẽ được nêu ra sau này – và [  thẩm quyền ] để hứa hẹn, mà ông có thể hứa bằng miệng hay bằng văn bản,  rằng các tặng phẩm thông thường sẽ được thực hiện khi trao đổi sự phê  chuẩn [hiệp ước] -- về việc mà ông có thể ấn định một danh sách các phẩm  vật sao cho chúng có thể làm hài lòng nhất, nhưng trị giá không được  vượt quá mức độ mười ngàn mỹ kim cho mỗi vị Chúa Tể.
 Khoản bồi dưỡng của ông sẽ là sáu mỹ  kim mỗi ngày, và tất cả các chi phí cá nhân cần thiết -- chỉ được kể  trong những trường hợp không tiên liệu được, bởi việc ăn ở trên tàu đã  được cung cấp cho ông.  Một khoản ứng trước sẽ được chuyển cho ông số  tiền là một ngàn mỹ kim vào trương mục để ông chi trả, và khoản năm trăm  mỹ kim cho các tặng phẩm có thể cần có để dành được sự yết kiến.
 Các chỉ thị nêu trên sẽ được áp dụng  cho các sứ mệnh của ông tại nước Xiêm La, và các quyền lực tại vùng Ả  Rập trong miền Hồng Hải (Red Sea), nơi mà ông cũng sẽ được phái đến.
 Ông được phép rút tiền từ Bộ Ngoại  Giao đến ngạch số trợ cấp của ông, khi chúng đáo hạn, sau khi khấu trừ  đi khoản ứng trước nay vừa xuất ngân cho ông, và cho các chi phí cần  thiết của ông, như được chúng thực bởi chỉ huy trưởng chiếc tàu mà ông  cùng đi.
Tôi xin trân trọng chào ông,
 Kính thư,
Edw. Livingston
 Tái bút: Khoản thù lao bồi dưỡng của  ông sẽ được tính từ ngày 9 tháng Giêng năm 1832, ngày ông rời nơi cư  trú để lên đường công tác. 
 ***
   PHỤ LỤC B:
 Bản sao chụp thư của
 Tổng Thống Hoa Kỳ Andrew Jackson
 gửi Quốc Vương An Nam Minh Mạng, 
không được chuyển giao vì bị xem là 
không xưng hô đúng cách. 
 
   
PHỤ LỤC C:
 Bản sao chụp Dự Thảo Hiệp Ước Thương Mại
 giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, 
do ông Edmund Roberts soạn thảo.
 
        PHỤ LỤC D
Báo Cáo Của Đặc Phái Viên Edmund Roberts
về Sứ Bộ Đầu Tiên
Batavia
Ngày 22 tháng Sáu, 1833
 Thưa Ngài,
 Tôi hân hạnh báo tin Ngài hay rằng  chúng tôi đã lái tàu rời Lin-tin vào ngày 26 tháng Mười Hai vừa qua để  đến Turon Bay [vịnh Đà Nẵng ngày nay, chú của người dịch] nơi bờ biển  phía bắc của nước Cochinchina, đã chờ đợi sự đến nơi của chiến hạm  U.S.S. Boxer cho đến khi mọi hỵ vọng về sự xuất hiện của nó đã tan  biến.  Vào ngày đầu tiên của tháng Một chúng tôi đã đến ngoài khơi của  Vịnh, trong một thời tiết vô cùng giông bão, & và thời tiết tiếp tục  như thế trong vài ngày, cùng với một trận cuồng phong và sóng lớn thổi  từ một khu vực bất ngờ (khu Tây Bắc) [viết tắt là “the N.W.” trong  nguyên bản, chú của người dịch] thay vì từ Đông Bắc [viết tắt là “the N.  E.” trong nguyên bản, chú của người dịch], cùng lúc có luồng gió mạnh  thổi về hướng Đông Nam.  Chúng tôi tiếp tục chống trả các khó khăn chồng  chất này cho đến ngày mồng 5, và khi đó chúng tôi nhận thấy mình bị  trôi giạt xuống phía đảo Pulo Canton, & và lui dần mỗi khi gió đổi  chiều, cuối cùng chúng tôi bị đưa đẩy vào hải cảng gần nhất, thuộc vùng  Vịnh Phú Yên, & và thả neo vào ngày kế đó tại bến tàu của Vunglam  [Vũng Liêm (?), chú của người dịch], Ngay sau khi cập bến, một lá thư  viết bằng Anh Ngữ, với một bản dịch bằng Hán ngữ, đã được chuyển lên  Kinh Đô Huế bởi Quan Chức tại Vunglam, gửi đến Vua Minh Mạng, Quốc Vương  nước An Nam, thông báo với Quốc Vuơng về sự đến nơi của chúng tôi và  trình bày mục tiêu của sứ bộ.  Vào ngày 17 một phái đoàn gồm ba Quan  Chức đã đến, một người là Phán Quan [Án Sát ?, chú của người dịch] của  tỉnh Phú Yên, được tháp tùng bởi một đoàn tùy tùng dài cưỡi Voi hay ngựa  hay di chuyển trong các cỗ kiệu, mang lại cùng với họ lá thư được gửi  đến Quốc Vương.  Họ tuyên bố rằng họ được phái đến bởi vị  “Thượng Thư   phụ trách Ngoại Nhân” để thông báo bằng miệng với tôi rằng ông Thượng  Thư đã hoàn trả lá thư chưa hề được mở ra, do bởi thư đề gửi cho Quốc  Vương An Nam.  Vị chúa tể của xứ Cochinchina giờ đây bắt chước tối đa vị  Chúa Tể của ông ta, Hoàng Đế Trung Hoa, tự xưng tước của mình là Hoàng  Đế Wiet Nam [ viết y như trong nguyên bản, đây chắc là bản văn chính  thức của Hoa Kỳ đầu tiên nêu danh xưng Việt Nam, chú của người dịch]  (được phát âm là Yũnam) thay vì vương hiệu trước đây của ông là An Nam  Quốc Vương.  Viên Thượng Thư vì thế yêu cầu rằng cần gửi một lá thư  khác, trình bày về mục đích của sứ bộ, và đề gửi lên ông ta là cơ phận  thích hợp để đối thoại với vị Hòang Đế.  Một lá thư đã được thảo theo  đó,  bao gồm những thông tin mong muốn, và có bổ túc thêm rằng tôi được  ủy nhiệm mang một lá thư của Tổng Thống Hợp Chúng Quốc gửi đến Hoàng Đế  mà tôi cần phải đích thân giao thư.   Vào ngày 26 hai Quan Chức ở phẩm  trật cao hơn đã đến & nói rằng họ được sai phái đến bởi vị Thượng  Thư để nhận bức thư của Tổng Thống, hay một bản sao lá thư mà lúc đầu  tôi đã từ chối chấp thuận, bởi họ đã không mang sự phúc đáp cho lá thư  của tôi, hay họ cũng không có bất kỳ văn bản cho phép nào từ vị Thượng  Thư đưa ra sự đòi hỏi như thế.  Tôi còn cáo giác nhiều hơn để chứng minh  cho sự từ chối của tôi, rằng trong một trường hợp tương tự ông W.  Crawford [đúng ra là Crawfurd, sứ giả người Anh, đã đến trước đây từ Ấn  Độ, xem một bài dịch khác trước đây, chú của người dịch] đã nhận được  một sự khiển trách từ vị đương kim Chúa Thượng xuyên qua cùng vị Thượng  Thư này về việc cho phép vị Tổng Đốc vùng Hạ Lưu Sàigòn được đọc lá thư  của Quan Tòan Quyền tại Ấn Độ gửi Hoàng Đế.  Tuy nhiên, nhận thấy sẽ  không làm được gì nếu không chấp nhận việc đó, sau chót, tôi đã nhượng  bộ, & giao cho ông ta một bản sao lá thư bằng tiếng Anh và Hán ngữ,  được mở công khai, bởi họ từ chối bất kỳ giấy tờ có niêm phong nào, cho  hay rằng họ đã nhận được các chỉ thị dứt khoát từ vị Thượng Thư, để thẩm  tra mọi văn kiện do tôi giao cho, & họ sẽ không chuyển bất kỳ văn  kiện nào đi trừ khi văn thư được diễn đạt bằng ngôn ngữ nhũn nhặn và  lịch sự, & với thành ngữ phù hợp với nghi lễ tại triều đình – và từ  đây khởi sự cho hàng loạt những trở ngại sau hết đưa đến một sự thất bại  hoàn toàn cho mục tiêu của Sứ Bộ.  Tôi sẽ bỏ qua những kháng nghị nhỏ  được đưa ra về các dùng chữ trong lá thư của Tổng Thống, & tiến tới  các trở ngại chính bao gồm các điều sau đây – trong bản sao lá thư bằng  Hán ngữ, họ chỉ rằng các danh từ Hòang Đế, & Cochinchina phải được  nhấc cao, như một sự bày tỏ lòng kính trọng, hơn bao nhiêu trên hàng kẻ  trên cùng của trang giấy, -- trên thực tế cao hơn các chữ Hợp Chúng Quốc  & Tổng Thống một mẫu tự, để chỉ rằng Tổng Thống & Hợp Chúng  Quốc thấp kém hơn Hoàng Đế và nước C.C. [viết tắt trong nguyên bản, chú  của người dịch] – sau cùng họ quyết định rằng việc Tổng Thống chỉ đơn  giản đề thư gửi cho Hoàng Đế là điều rất không hợp lệ -- họ nói nó phải  đựoc chuyển dịch với từ ngữ  “im lặng kính sợ “ (silent awe: suh-te) hay  “với đôi bàn tay nâng cao để kính dâng” (with uplifted hands: Yung hay  te shang) thường được dùng bởi ngườI Trung Hoa & các kẻ bắt chước sự  nhũn nhặn của họ tức người C.Chinese [viết tắt trong nguyên văn, chú  của người dịch] trong cách xưng hô của thần dân với vị Chúa Tể.của họ. Ý  kiến này tức khắc bị từ khước & họ bị nhắc nhở rằng đừng lập lại  đòi hỏi sỉ nhục như thế bởi Tổng Thống Hợp Chúng Quốc có một vị thế hoàn  toàn bình đẳng với vị Hoàng Đế uy quyền nhất & do đó không từ ngữ  nào có thể được dùng có thể làm cho ông ấy bị xem là thấp kém hơn Hoàng  Đế C. China [viết tắt trong nguyên bản, chú của người dịch].  Các Quan  Chức Đại Biểu được thông báo rằng cùng từ ngữ sẽ được dùng để xưng hô  với Er [viết tắt trong nguyên bản để chỉ Emperor tức Hoàng Đế, chú của  người dịch] như đã được dùng trong thư của Đặc Sứ gửi cho Thượng Thư,  hàm ý sự bình đẳng mà không có bất kỳ ý nghĩa ngạo mạn bất kính nào  trong đó.  Các quan chức đã phủ nhận mọi chủ ý muốn sỉ nhục Tổng Thống  & cho hay rằng theo tập tục các Sứ Giả của Burmah (Miến Điện) &  Xiêm La vẫn hay sử dụng các thành ngữ này khi xưng hô vớI Hoàng Đế của  họ.  Chờ đợi tám ngày sau cuộc đối thoại này, & không nghe thêm điều  gì từ Huế, chúng tôi đã trương buồm lên hôm 8 tháng Hai để lái đến Vịnh  Xiêm la.  Nếu chúng tôi may mắn hơn, như đến được Turon [vịnh Đà Nẵng  ngày nay, chú của người dịch] hay đến ngoài khơi của Huế vào lúc khởi  đầu có gió mùa Tây Nam [viết tắt là  “S.W. “ trong nguyên bản, chú của  người dịch], tôi tin rằng kết quả có thể rất khác biệt.  Chúng tôi ở quá  xa Kinh Đô, & công việc vì thế bị ủy thác quá nhiều cho các viên  chức thấp kém.  Cho đến nay tôi mới chỉ gửi đến ông một bản tường trình  tóm lược về những khó khăn tại C. China [viết tắt trong nguyên bản, chú  của người dịch] vốn đã chiếm một phần đáng kể đến năm mươi trang trong  “Tập Nhật Ký Chính Thức” của tôi.
 Trong diễn tiến của cuộc thương  thảo, họ mưu toan dành đạt mọi lợị điểm nhỏ nhặt cũng như  mọi ưu thế có  tầm quan trọng hơn, & nếu họ thành công, nó sẽ được phóng đại thành  sự chiến thắng trên Chính Phủ của xứ sở của tôi.
 Ngay dù tôi đã có thể đánh mất đi sự  tự trọng và quên đi những trách vụ đối với xứ sở tôi & và vị Thẩm  Phán Tối Cao để chấp nhận các đề nghị của họ, sự việc cũng chưa chấm dứt  ở đây.  Tôi phải được nói cho biết rằng khi đến Huế nếu muốn yết kiến  Hoàng Đế, điều cần thiết là tôi phải tuân hành các nghi lễ của triều  đình & chịu làm lễ Ko-tow [khấu đầu ?, chú của người dịch] hay “lễ  lạy đầu sát đất”, và việc này sẽ được nối tiếp bởi các điều kiện nhục mạ  khác, bởi đó là bản chất của những dân tộc nằm quá khu vực sông Ganges  [vùng phía Đông cửa sông Ganges, Ấn Độ, chú của người dịch] là sẽ gia  tăng các đòi hỏi của họ đến mức mà họ cưỡng hành được hay trong bằng bất  kỳ cách nào đó đạt được sự thần phục trước ý chí của họ, vì họ vẫn bị  ảnh hưởng một cách bất thường bởi sự cứng rắn, liều lĩnh & quả quyết  hơn là bởi sự tranh luận vững chắc & thuyết phục nhất, [bởi] thái  độ ôn tồn, không ép buộc, dung hòa nhất.  Lịch sử các cuộc thương thảo  trong quá khứ đủ để chứng minh rằng không có đặc quyền, đặc miễn, hay ưu  thế thuộc bất kỳ loại nào lại có thể dành đạt được bởi sự phục tùng,  bởi sự hạ thấp mình, hay ngay cả bởi sự nịnh bợ -- Họ khinh miệt thái độ  trước như là một bằng cớ của sự yếu đuối, loại thái độ sau như  là một  minh chứng cho một tâm hồn hèn hạ.  Một thái độ đàng hoàng, song không  kiêu ngạo, cương quyết bảo vệ danh dự của mình, cởi mở và vô tư, tìm  kiếm các lợi điểm cho chính mình, nhưng cũng sẵn lòng phát huy lợi điểm  của kẻ khác, chắc chắn sẽ tạo ảnh hưởng nhiều trên các dân tộc mang đặc  điểm và cá tính này, và sau hết phải có khả  năng để hoàn thành được mục  tiêu mong muốn. Rằng một dân tộc vĩ đại, chẳng hạn như dân tộc của đất  nước tôi, [vẫn] phải gánh chịu khả năng là danh dự quốc gia bị làm hoen ố  bởi bất kỳ một dân tộc nào dưới ánh mặt trời, càng hiếm khi [bị hạ  nhục]  bởi một vài dân tộc mọi rợ, kinh nghiệm [này] làm cho vấn đề trở  nên ít ngạc nhiên hơn là đáng ân hận. Chúng ta không thể hoàn toàn dửng  dưng đối với ý kiến phải được nhìn nhận cho quốc gia của mình bởi một  thành phần quá đông đảo trong nhân loại, như thành phần cư ngụ tại những  xứ sở nằm giữa Hồng Hải (Red Sea) & Nhật Bản.
 Nếu chúng tôi đã thất bại trong nỗ  lực thương thảo này song danh dự của chúng ta chưa bị hoen ố & sư/  đề kháng đã đuợc đưa ra để chống lại các đề nghị sỉ nhục của họ nhằm làm  giảm vị thế cao cả của một Tổng Thống Hoa kỳ, sẽ dạy cho họ rằng tôi  tin tưởng vào bất kỳ cuộc thương thảo tương lai nào với chính phủ của  chúng ta, rằng danh dự không phải chỉ là một âm thanh vô nghĩa, hay một  danh từ rỗng tuếch, bởi trên âm thanh này là sức mạnh của các Vương  Quốc, là sự an toàn của các dân tộc – đó là điều làm rung động cánh tay  của chiến sĩ, đó chính là động lực mạnh mẽ hơn bất kỳ điều gì khác đã  biến đổi con người trở thành Anh Hùng.
 Tôi hân hạnh giữ mãi các sự đánh giá cao nhất cho lòng yêu mến và tôn kính,
Một công bộc rất trung thành của Ngài
(ký tên) Edmund Roberts
 Tái bút:  
 Tôi không được bỏ quên không lưu ý  rằng các Quà Cáp là những vật không thể thiếu được ở những xứ sở  này.& được xem như một dấu hiệu của sự kính trọng, chúng làm cho  người tặng quà trở nên có vai vế nhiều hay ít tùy vào tầm mức to nhỏ của  quà tặng.  Cả ở C.China [viết tắt trong nguyên bản, chú của người dịch]  và Xiêm La, trong số các câu hỏi đầu tiên là câu, “Ông có mang quà tặng  gì đến cho Nhà Vua?”, xem như chuyện tự nhiên là khách không đến thăm  với bàn tay không./-     
 
            Ngô Bắc dịch
© 2006 gio-o
__________
 
Quan hệ Việt - Mỹ dưới thời Minh Mạng
Cuộc tiếp xúc Mỹ - Việt chính thức đầu tiên diễn ra vào năm Minh Mạng thứ 13. Phái bộ ngoại giao của Mỹ lúc ấy do ông Edmund Roberts (Nhã-Di-Lý) cầm đầu với quốc thư của Tổng thống Jackson.Cần nhắc lại chuyện người Mỹ đã tiếp xúc với Việt Nam tự bao giờ?
 Qua  thư tịch, từ tháng 7 – 1787, ông Thomas Jefferson trong thời gian làm  Công sứ Hoa Kỳ ở Paris đã chú ý đến y giống lúa ở Việt Nam (Đàng Trong) vì nó trắng đẹp, ăn ngon và năng suất cao.(1).  Một năm sau, gặp phái bộ Pigneau de Béhaine ở điện Versailles, Thomas  Jefferson được Hoàng tử Cảnh hứa sẽ gửi những mẫu lúa ấy cho Hoa Kỳ. Có  thể xem đây là cuộc tiếp xúc Việt - Mỹ đầu tiên. Về sau, vì bận chiến  tranh với phong trào Tây Sơn, Hoàng tử Cảnh không thực hiện được lời hứa  ấy. Ba mươi năm sau (1817), một người Mỹ lên là John White (2) (Hôn -  Viết) tiếp tục thực hiện ý muốn của Thomas Jeffrson đến Sài Gòn trong ba  tháng, tiếp xúc nhiều lần với quan lại và dân chúng Việt Nam. Ngày rời  Sài Gòn, John White đã mua một ít lụa, đường và một thuyền gạo… nhưng  trên đường về chẳng may gạo bị mọt và các loại sâu bọ ngũ cốc ăn hỏng cả (3). John White đã ghi lại cuộc hành trình đến Việt Nam trong cuốn A Voyage to Cochin – China (Hành trình qua Nam Việt) - cuốn bút ký được cá nhà sử học Việt - Mỹ rất quan tâm.
Cuộc  tiếp xúc Thomas Jeffrson và Hoàng tử Cảnh tuy có nhiều thuận lợi nhưng  chưa chính thức. Cuộc tiếp xúc Mỹ - Việt chính thức đầu tiên diễn ra vào  năm Minh Mạng thứ 13. Phái bộ ngoại giao của Mỹ lúc ấy do ông Edmund  Roberts (Nhã-Di-Lý) cầm đầu với quốc thư của Tổng thống Jackson. Phái bộ  đi tàu Peacock, đến đậu tại Vũng Lấm, vịnh Xuân Đài, tỉnh Phú Yên vào  cuối năm 1932. Edmund Roberts gặp được Tuần vũ tỉnh Phú Yên và trình bày  ý muốn của nước Mỹ muốn giao hảo với nước Việt. Tuần Vũ tâu lên vua  Minh Mạng và được nhà vua đồng ý đón tiếp.
Ý kiến của vua Minh Mạng được ghi rõ trong Minh Mạng chính yếu (quyển thứ 25, tr. 27a và 27b) như sau: Bản dịch: Quốc  gia Nhã – Di – Lý sai sứ thần tới dâng quốc thư yêu cầu thông hiếu với  Việt Nam. Thuyền của sứ bộ bị sóng dạt ghé vào vùng duyên hải tỉnh Phú  Yên.
Nhà  vua hay tin, liền sai quan viên ngoại là Nguyễn Tri Phương tới nơi cật  vấn. Sứ bộ trả lời là nước họ chỉ muốn giao hiếu thông thương mà thôi.
Về việc này, nhà vua dụ các quan Nội rằng:
-  Người ta từ xa tìm tới, bản ý là cung thuận. Triều đình ta với tinh  thần mềm dẻo quí mến người phương xa, không tiếc gì mà không dung nạp  họ. Tuy nhiên, họ mới tới lần đầu các chi tiết lễ nghi về ngoại giao  thông hiếu, chưa được am tường; có thể sai quan Thương bạc viết tư văn  thông báo cho nước họ biết, nếu muốn thông thương mậu dịch với nước ta,  ta cũng không cự tuyệt, nhưng phải tuân theo những hiến định đã có từ  trước tới nay.
Từ  nay nếu có thương thuyền tới, thì cho phép được ghé vào cửa Đà Nẳng,  Trà – Sơn – Úc, bỏ neo tại đó, chứ không được tự ý lên bộ. Đó là ý cảnh  giác phòng gian nằm trong chính sách ngoại giao mềm dẻo của ta vậy’ (4).
Thái độ của Minh Mạng thể hiện rõ chủ trương cởi mở, cụ thể, chặt chẽ của một nước.
Về sự  kiện này, bộ sử biên niên của triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên,  Đệ nhị kỷ, quyển 86, ghi vào tháng 11 năm Nhâm Thìn (1832) rằng:
“Quốc  trưởng nước Nhã-Di-Lý (nước này ở Tây dương, hoặc gọi là Hoa Kỳ, hoặc  gọi là Ma-Ly-Căn, hoặc gọi là Anh-cát-lợi mới đều là biệt hiệu nước ấy)  Sai bọn bề tôi là Nghĩa-Đức-Môn La Bách Đại, Uý-Đức-Giai-Tâm-Gia (tên  hai người (5) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa vụng Lấm thuộc  Phú Yên. Vua sai viên ngoại lang Nguyễn Tri Phương, tự vụ Lý Văn Phức đi  hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thiết tiệc, và hỏi lí do đến đây làm  gì. Họ nói: “Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương”. Nói năng rất  cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức.
Vua  bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lãnh chức Thương bạc  làm tờ trả lời. Đại lược nói: “Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên  là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay,  nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không  được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi”.  (Bản dịch của Viện Sử học, Sdd. tập XI, tr. 231).
Nội  dung lá thư “có nhiều chỗ không hợp thể thức” như thế nào, xin trích  nguyên văn: Andrew Jackson, Tổng thống Hợp Chúng Quốc Mỹ.
Kính gửi Đại quí hữu…Thư  này sẽ dâng lên Hoàng thượng do Edmund Roberts, một công dân danh vọng  của Hợp Chúng Quốc. Ông này đã được bổ nhiệm chức Đặc Uỷ viên của Chính  phủ chúng tôi để thương thuyết với Hoàng thượng những vấn đề quan yếu.
Tôi  trân trọng xin Hoàng thượng che chở đương sự trong khi thừa hành nhiệm  vụ đã được giao phó và xin cho đương sự được đối đãi tử tế. Tôi tin cậy  hoàn toàn những điều mà đương sự sẽ đề đạt lên Hoàng thượng nhất là tình  thân hữu hoàn toàn và tất cả thiện chí của chúng tôi đối với Hoàng  thượng.
Tôi cầu xin Đức Chúa Trời luôn luôn phò hộ Đại quí hữu.
Để  chứng minh các điều nói trên, tôi cho kiềm quốc ấn của Hợp Chúng Quốc  trên bản tài liệu này. Lập với bản ấn tại thành Hoa Thịnh Đốn, ngày ba  mươi mốt (31) tháng Giêng dương lịch 1832 và là năm thứ năm mươi sáu của  nền độc lập Hợp Chúng Quốc.
ANDREW JACKSON
Thừa lệnh Tổng thống
EDW, LIVINGSTON
Quốc Vụ Khanh. (6)
Lý do  vua Minh Mạng không tiếp phái bộ Hoa Kỳ chỉ vì lá thư của Tổng thống Mỹ  “… có nhiều chỗ không hợp thể thức”. Những chỗ không hợp thể thức đó có  lẽ là trong bức thư có một khoảng trống chưa điền rõ tên Hoàng đế (Minh  Mạng) và tên nước Việt Nam (7). Một ông vua uy nghiêm, tự trọng, nguyên  tắc như vua Minh Mạng không thể nhận một cái quốc thư không đề tên nước  được nhận như thế. Sự thiếu sót này một phần do phái bộ Edmund Roberts  và một phần do hai nhà ngoại giao Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức không  giúp đỡ cho họ trước khi họ đệ trình lên vua Minh Mạng (8). Như vậy  việc quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt đầu tiên không thành chính vì những  người thừa hành của hai nước chứ không phải vì vua Minh Mạng hẹp hòi, cự  tuyệt mọi quan hệ với người Tây phương.
Rời  Việt Nam, tàu Peacock qua neo tại cửa sông Ménam vào ngày 18.2.1833 và  được triều đình Thái Lan đón tiếp rất linh đình. Bốn năm sau (1836),  Edmund Roberts lại được chính phủ Hoa Kỳ giao nhiệm vụ đi tàu Peacock  trở lại Việt Nam để ký một hiệp ước thương mại (9). Người trưởng tàu  Peacok là đại uý Hải quân E.P. Kennedy.
Sự  kiện Edmund Roberts trở lại Việt Nam lần thứ hai được Đại Nam thực lục  chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 168, trang 3 chép như sau:
Tháng 4 năm Bính Dần niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836). Ma-Ly-Căn.
Tỉnh  thần Quảng Nam tâu: Có sứ thuyền nước Ma-Ly-Căn đậu ở vũng Trà Sơn  thuộc Đà Nẵng Quảng Nam, nói có quốc thư cầu thông đạt, xin vào chầu.  Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua hỏi thị lang Bộ Hộ Đào Trí Phú rằng: -  Xem tình ý lời lẽ của họ tỏ ra cung thuận, vậy có nên nhận hay không?  Trí Phú thưa: - Họ là người nước ngoài, tình ý giả dối cũng chưa biết  chừng. Thần tưởng hay cho họ vào Kinh, lưu ở công quán Thương bạc, phái  người đến khoản đãi để thăm dò ý họ đến.
Thị  lang Nội các Hoàng Quý tâu nói: Nước họ xảo quyệt muôn mặt, nên cự  tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau. Người xưa đóng cửa ải  Ngọc quan, tạ tuyệt Tây vực, thực là chước hay chống cự Nhung địch.
Vua nói: 
- Họ xa cách trùng dương trên 4 vạn dặm, sao lại cự tuyệt, chẳng hoá tỏ ra cho người ta thấy mình không rộng rãi ư?
(Vua)  liền sai Đào Trí Phú cùng với Thị lang Bộ Lại Lê Bá Tú, làm thuộc viên  Thương bạc, đến tận nơi uỷ lạo thăm hỏi. Khi đến nơi, viên thuyền trưởng  nói là bị ốm, không tiếp kiến được. Ta sai thông ngôn đến thăm: họ cũng  sai người đáp lễ. Rồi ngay ngày ấy, giương buồn kéo đi. Bọn Trí Phú đem  việc tâu lên và nói:
- Chợt đến chợt đi thật không có lễ nghĩa.
Vua phê bảo rằng:
- Họ đến, ta không ngăn. Họ đi, ta không đuổi theo. Lễ phép văn minh có trách gì man di cõi ngoài (10).
Đoạn  sử này một lần nữa thể hiện rõ ý kiến sáng suốt của vua Minh Mạng. Nhà  vua đã gạt bỏ ý kiến bảo thủ “bế quan toả cảng” của quan Thị lang Nội  các Hoàng Quýnh và sai Đào Trí Phú và Lê Bá Tú thực hiện chính sách giao  hiếu với Hoa Kỳ của ông. Không may khi đoàn ngoại giao ta đến gặp thì  trưởng phái bộ Hoa Kỳ Edmund Roberts bệnh nặng không tiếp được. Đoàn ta  cử thông ngôn đến thăm và phái bộ Mỹ đáp lại bằng cách cử người đến gặp  phái đoàn Việt Nam để cảm ơn. Ngay sau đó thì phái đoàn Mỹ rời Việt Nam  một cách vội vã. Việc ngoại giao không thành, những quan lại bảo thủ  được một phen lên mặt mỉa mai.
Việc  quan hệ Việt - Mỹ lần thứ hai không thành vì trưởng phái bộ Hoa Kỳ  Edmund Roberts bệnh và phải rời Đà Nẵng gấp chứ không phải vì bất cứ một  lý do nào về phía vua Minh Mạng. Nếu lúc đó nhà vua biết được tin  trưởng phái bộ Hoa Kỳ Edmund Roberts bệnh nặng và đã mất sau đó (ngày 12  – 6 – 1836) có lẽ nhà vua không khỏi nhỏ một giọt lệ tiếc thương. Việc  tàu Peacock phải đưa phái bộ Edmund Roberts rời Đà Nẵng ngay đã được đại  uý trưởng tàu E.P. Kennedy nói rõ trong một cáo trình gởi cho Bộ trưởng  Hải quân Pháp sau đây:
Chúng  tôi phải ở lại 8 ngày tại vịnh Đà Nẵng, nhưng vì chứng bệnh quá nặng  của ông Roberts, chúng tôi không làm gì được ở đây cả, và chúng tôi phải  rời hải cảng ấy vào ngày 21 – 5.
Quan hệ Việt - Mỹ là một công tác hoàn toàn mới. Về chủ  trương  chung không có điều gì có thể chê trách được vua Minh Mạng. Sở dĩ việc  ấy không thành là vì cấp thực hiện. Cuộc tiếp xúc lần đầu (1832), do khả  năng ngoại giao hạn chế của Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức. Lần gặp  gỡ thứ hai (1836) gặp phải sự “bàn lui” của Hoàng Quýnh nhưng vua Minh  Mạng đã vượt qua bằng cách sai Đào Trí Phú và Lê Bá Tú thay thế. Việc  không thành chính vì bệnh tình đột ngột của người cầm đầu phái bộ Hoa  Kỳ. Nếu Edmund Roberts không ngã bệnh thì Hiệp ước thương mại Mỹ - Việt  đã có thể ra đời cách đây 164 (1836 – 2000) năm. Nếu Hiệp ước thương mại  đó đã được ký kết, qua quan hệ buôn bán trên một thế kỷ, hai dân tộc  Việt - Mỹ chắc hẳn đã hiểu nhau hơn.
__________________
1. The Paper of Tomas Jefferson, Princeton, N.C: Princeton University Press, 1958, vol 12 – 13 – 14, trích lại của Ph.Q.
2. John White sinh năm 1782 ở Marblehead (Massachusetts), mất tại Boston vào năm 1840
3. Robert Hopkins Miller, The United States and Vietnam 1787 – 1941, National Defense, University Press, Washington DC, 1990, trích lại của Ph.Q.
4. Bản dịch của Hoàng Văn Hoè và Nguyễn Quang Tô.
5. Tức Edmund Roberts và Georges Thompson
6 Bản dịch của Thái Văn Kiểm, Đất Việt trời Nam
7. Năm 1832 vẫn còn giữ tên Việt Nam có từ năm 1804, mãi đến năm 1838 mới có tên nước Đại Nam.
8. Theo Giáo sư Thái Văn Kiểm, bức Quốc thư này còn lưu trữ tại Văn khố của Chính phủ Mỹ, dưới danh từ “Chochinchina) Communications to the Sovereigns and Foreign Sattes 1829 – 1846, Vol, p, 69.
9. Bản thảo gồm 8 điều dài 2 trang viết tay, ngắn hơn Hiệp định thương mại Việt Mỹ ngày nay 150 trang. Tài liệu lấy từ internet.
10. ĐNTLCB, t, XVIII, NXB KHXH, trang. 109 – 110.
Nguồn: Xưa và Nay, số 81, tháng 11 – 2000Tác giả bài viết: Nguyễn Đắc Xuân