Đối với lính trung đoàn 4 thì ngã ba con voi (Nimith) và Cao Mê-lai là những địa danh cháy bỏng lòng người... tôi quyết định sẽ kể ra đây cho các bạn nghe và tôi hy vọng rằng sau này sẽ có những quyển hồi ký hay hơn nửa về MỘT THỜI MÁU ĐỔ THÌ NHIỀU MÀ HOA THÌ KHÔNG CÓ ĐÂU!
Những chuyện tôi sẽ kể ra đây thì sẽ tốn nhiều thời gian của các bạn đấy, tôi xin lập chủ đề mới là NGÃ BA CON VOI
1. RA CHIẾN TRƯỜNG
Chúng tôi đến Kompong Thom vào một buổi trưa trung tuần tháng 2/1979. Đêm qua chúng tôi ngũ tại Sa Mát trong nhà một bà mẹ đang để tang ai đó, chúng tôi ngũ trong tiếng mõ và tiếng kinh cầu siêu trầm buồn ray rức... Sáng nay, sau khi qua biên giới Campuchia, xuyên qua những con đường đất đỏ bụi mù, đứng trong thùng xe GMC chúng tôi đón nhận những rừng cánh tay của phụ nữ và trẻ em Campuchia vẫy chào đoàn quân tình nguyện Việt Nam qua đánh đuổi bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Thỉnh thoảng ngược chiều với hướng di chuyển của chúng tôi, một vài chiếc GMC chở xác tử sĩ căng phồng trong những bọc nylon, phía trên là những cành lá ngụy trang che nắng. Đường đất đỏ gập ghềnh làm những bọc xác tử sĩ nẩy phập phồng...
Tôi là một tân binh nghĩa vụ mới bước qua tuổi 19 được 2 tháng đang háo hức bước vào cuộc chiến tranh bắt buộc với hành trang là 80 ngày huấn luyện quân sự và chưa có bất kỳ một khái niệm nào về chiến thuật tấn công hoặc phòng ngự trận địa...
Đoàn xe dừng lại trước một dãy nhà sàn dọc con đường đất đỏ bụi mù, đây là hậu cứ của sư đoàn 5 bộ binh, sư đoàn anh hùng thời kỳ chống Mỹ.
Dân Kompong Thom đãi đám tân binh chúng tôi những ống nước thốt nốt ngọt lịm, mát rượi. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được uống thứ nước thơm ngon, ngọt ngào đó. Nó tươi nguyên mới từ trên cây mang xuống trong ống trúc lồ ồ.
Chúng tôi được phân tán ra từng phân đội nhỏ đóng rải rác trong một cánh rừng dầu thưa thớt, đâu đó có tiếng súng tiểu liên nổ râm ran phát một.
Tôi đi theo một cựu binh vác súng AK vào rừng, anh này đi săn chim và tôi đi theo... bắn ké. Bắn được vài phát thì vệ binh tới, bảo lệnh trên cấm bắn súng.
Ăn không ngồi rồi mấy ngày thì một hôm, vào buổi xế trưa có lệnh tập họp. Một cán bộ quân lực đến, báo cáo là mấy hôm nay đơn vị bận đi đánh nhau (nguyên văn) nên hôm nay mới đến nhận quân. Sau đó tôi được đọc tên và biên chế vào đại đội 13, tiểu đoàn 3, trung đoàn 4 trong buổi chiều hôm đó.
Tôi được bổ sung vào trung đội 7, chỉ huy trung đội của tôi là đồng chí Nông Tiến Dũng, dân tộc Tày, gốc Thái Nguyên. Buổi cơm chiều đầu tiên tại đơn vị chiến đấu của tôi có cơm thơm mùi gạo mới, có rất nhiều thịt bò xào, có thể ăn thịt thay cơm được. Những cựu binh trong trung đội ăn ít và uể oải, chỉ có chúng tôi, những tân binh mới bổ sung về đơn vị lần đầu tiên trong đời lính được ăn no thứ thịt bò tươi xào muối, bột ngọt và cơm ăn không hết. Một loại cơm nấu bằng gạo trắng hơi lẩn gạo lứt đỏ thơm mùi lúa mới.
Những anh em trong trung đội thu nhận chúng tôi, những tân binh mới bổ sung bằng một bửa cơm ngon và no đến như vậy. Qua đợt bổ sung quân này, trung đội của tôi tăng lên được vài người, quân số hiện thời của trung đội khoảng 7, 8 người.
Với thể trạng cao 1m 67, nặng 50 kg, tôi lập tức được phân công vác hỏa lực B41 với 6 trái đạn.
B41 là một loại pháo không giật, được trang bị cho bộ binh nhằm chống tăng và phá hủy công sự rất hiệu quả. Khẩu súng tôi vác trên vai do Liên xô sản xuất nặng khoảng 5,5 kg. Mỗi trái đạn nặng khoảng 2,2 kg. Có 2 loại đạn, khoan nổ và chạm nổ. Đạn trang bị cho bộ binh vận động tấn công trên chiến trường thông thường là loại chạm nổ, uy lực mãnh liệt, tiếng nổ đanh gọn, đinh tai điếc óc, quầng lửa phản lực màu sáng trắng, hầu như không thấy khói. Đạn đi tới mục tiêu rất mau, khi lâm trận nghe bùng bình một tiếng là đạn nổ văng mảnh rồi. Bùng là tiếng đạn phát hỏa bay ra khỏi nòng, bình là tiếng đạn chạm mục tiêu phát nổ.
2. VÀO CHIẾN DỊCH
Không một ngày ngơi nghỉ, chúng tôi hành quân liên tục. Nắng tháng hai đổ lửa trên đầu, đường đất đỏ xuyên qua những cánh đồng rộng bao la, và xa xa là những rặng cây thốt nốt, báo hiệu chuẩn bị đi tới một phum làng.
Chúng tôi thận trọng tiến vào phum theo đội hình hàng dọc, mỗi người cách nhau 10m, đạn AK lên nòng, khóa an toàn bật mở. Tôi được lệnh đẩy đạn B41 vào khấc, tay lăm le cò súng.
Cái phum này yên phăng phắc, địch đã bỏ chạy từ lâu, giếng nước đã bị vứt cây che lấp. Chúng tôi kéo các cành lá lấp giếng nước ra, mong kiếm được nguồn nước giải khát. Nước trong giếng đen thui, hôi thúi mùi hữu cơ phân rã không uống được. Lại có lệnh hành quân đi tiếp, đến chiều tối chúng tôi dừng chân ở một nơi nào đó, có nước để nấu cơm ăn uống, lấy sức ngày mai đi tiếp.
Hành quân dài ngày khiến khẩu súng B41 ngày mỗi thấy nặng, vai áo ka ki của tôi đã sờn rách một lớp vì nó, thỉnh thoảng chúng tôi lại đi trên một con đường nhựa nóng, trời nắng chang chang, lòng bàn chân phồng lên, mọng nước, rồi cái mọng nước vỡ ra, ướt lép nhép lẫn với mồ hôi và huyết tương tươm ra từ lớp da bị bong tróc. Vậy mà vẫn cứ đi, đi không thấy đau, đầu óc mụ mị, nóng và khát.
Khẩu súng B41 vác trên vai không muốn nổi nửa, mõi quá rồi, tôi quàng dây đeo súng lên cổ, ôm súng vào lòng, vai gồng lên gánh 4 trái đạn trên lưng mà đi lặc lè (viên đạn thứ 6 đã có người mang hộ). Trung đội trưởng Dũng thấy tôi đi bệ rạc quá, kêu tôi vác súng lên vai đi thẳng dậy, nhưng đại đội trưởng Chính, người Nghệ Tỉnh gạt ngang bảo : “Thôi”. Ý anh ấy nói là để tôi đi sao cũng được miễn là tới nơi.
Sáng nay đã có một đồng đội của tôi, nhập ngũ cùng đợt nằm bật khóc nức nở giữa đường vì kiệt sức. Anh này lý lịch không phải tầm thường : “Con trai của viên tướng Sài gòn giác ngộ cách mạng Nguyễn Hữu Hạnh”.
Chúng tôi đang bước vào một cuộc hành quân lớn. Sư đoàn chúng tôi đang phối thuộc quân đoàn 4 truy quét tàn quân Pôn Pốt trên một diện rộng từ Takeo đến Kompong Speu, Kompong Chnang. Chúng tôi di chuyển liên tục bằng mọi phương tiện, đi bộ, đi xe GMC, xe tăng T54...
Thỉnh thoảng chúng tôi được đánh phối hợp với tăng, các trung đội của chúng tôi ít người, mỗi trung đội nhảy lên một chiếc T54, chúng tôi bương qua những cánh rừng thưa, xe chồm lên, hụp xuống trên những địa hình mấp mô ụ mối... Gặp địch chúng tôi nhảy xuống, dàn hàng ngang nổ súng tiến lên, khí thế như chẻ tre.
Với khí thế như vậy, chúng tôi đánh là thắng, những cánh quân Pôn Pốt nhỏ lẻ trong thế cờ tàn làm sao đương đầu nổi sức tấn công của chúng tôi có tăng T54 yểm trợ với hỏa lực cực kỳ mãnh liệt.
Sau này đại tá Trần Đối, anh hùng quân đội về làm sư trưởng, trong một lần đi thăm cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 3, ông đã biểu dương là tiểu đoàn 3 đánh với tăng giỏi nhất sư đoàn 5, sư đoàn 5 đánh với tăng giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam, và ông kết luận là tiểu đoàn 3 đánh với tăng giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam. Lính tiểu đoàn 3 nhớ mãi câu nói đó và thấy lòng mình tự hào về truyền thống đơn vị.
Chúng tôi liên tục di chuyển và chạm súng nhỏ lẻ... Rồi bỗng dưng một sáng nọ, chúng tôi tiến vào một cánh rừng dầu, tiếng súng giao tranh xãy ra rất gần, một đơn vị nào đó của ta đang đánh địch.
Đột nhiên tiếng súng im bặt, rừng dầu nín thở yên phăng phắt, chúng tôi dàn quân đứng nấp sau những gốc cây dầu, những cây dầu vươn cành lá thẳng lên trời, cao trên 20m, gốc không lớn lắm, đường kính khoảng 30, 40cm thôi. Chợt một cái gì đó nhẹ nhàng rơi bộp trên vai tôi, làm tôi khẽ giật mình... thì ra đó là một cánh hoa dầu.
Là dân thành phố, đây là lần đầu tiên tôi thấy cánh hoa dầu, nó rơi rơi, xoay tròn trong không khí, rồi nhẹ nhàng đáp lên vai người lính, rồi rơi xuống mặt đất làm phong phú thêm thảm thực vật trong cánh rừng dầu mùa khô 1979.
Đó là một buổi sáng trong lành, tiếng súng đã im lặng lâu rồi, đội hình của chúng tôi được bố trí lại, tôi được phân công đứng gát trên một ụ mối, phía trước là một con đường mòn nhỏ, trung đội rải ở phía sau... Tôi đứng gát như vậy thật lâu, lâu lắm, mãi đến giờ ăn trưa mới có người lên thay tôi canh gát.
Cũng trong cánh rừng dầu này, phía trước lại có một đơn vị chạm súng với địch, mật độ chạm súng càng lúc càng dày, ngay trong đêm tối vẫn có tiếng súng giao tranh khốc liệt. Chúng tôi chỉ cách trận địa một tầm đạn vậy mà cảm thấy rất yên lành, vẫn ăn ngũ bình thường, tất nhiên là luôn luôn cắt cử người thay phiên canh gát.
Trong những ngày này, đại đội tôi có thêm người, trên ban chỉ huy có đồng chí Hội đại đội phó quân sự, còn trung đội tôi có hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng trở về sau thời gian nằm quân y viện.
3. MỘT TRẬN ĐÁNH LỚN
Hạ sĩ Trọng về làm tiểu đội trưởng của tôi hôm trước thì hôm sau chúng tôi xuất kích, nên tôi không có dịp chuyện trò nhiều với anh, thậm chí gương mặt của anh thế nào tôi cũng không nhớ được, bởi vì ngay trong ngày xuất kích đó đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Trong trận đánh đó tôi là người ăn đạn đầu tiên, nhưng tôi không chết, mà tôi nằm đó nghe tiếng đồng đội hô xung phong. Tiếng hô xung phong vang dội của hạ sĩ Trọng đến giờ sau 30 năm vẫn còn ấn tượng trong đầu tôi, một thương binh mới trở lại chiến trường sao máu đến như vậy... Mấy tiếng đồng hồ sau, khi trận địa tương đối yên tiếng súng, đồng đội kéo xác hạ sĩ Trọng về, tôi thấy rõ ràng anh chết đổ ruột trên chiến trường.
Trận này chúng tôi tổn thất nhân mạng lớn là phải, hướng tiến công của cả tiểu đoàn hoàn toàn thất thế, bởi chúng tôi từ đồng trống đánh lên. Trong khi đó lực lượng của địch là lính chính qui, tinh thần vững vàng, hỏa lực đầy đủ, công sự kiên cố. Địch lập trận địa phòng ngự trên một cái phum lớn, đây là đất của địch, chúng thông thuộc địa hình, địa vật như trong lòng bàn tay, chúng bày binh bố trận, chờ chúng tôi đến là sẳn sàng tiếp chiến trong tư thế hoàn toàn chủ động.
Chúng dàn quân trên bờ đê, nhìn thấy rõ chúng tôi từ trong cánh rừng cây lưa thưa phía chính diện xông ra.. Khi chúng tôi xung phong thì phải chạy xuyên qua một cánh đồng khô rộng đến mấy trăm mét, thế thì chúng rãi đạn vào những cái bia thằng người di động đó. Không một người lính nào chạy được quá vài chục bước chân mà lành lặn.
*
* *
Trời hửng sáng, chúng tôi vừa được trinh sát dẩn vào vị trí xuất kích thì đâu đó có tiếng súng nổ rộ. Tôi vác khẩu B41 trên vai, đứng trước một ụ mối, nấp sau một thân cây sẳn sàng trong tư thế xung phong. Đột nhiên tôi thấy một tốp lính chừng 10 tên mặc đồ gar-ba-din Trung quốc mới cáu, chạy lúp xúp theo hàng cây thốt nốt, tôi chỉ cho đồng chí Vịnh xem. Đồng chí hô bắn B41, đồng chí Thạch cản lại khoan, vì tôi đứng trước ụ mối, nếu tôi bắn sẽ bị lửa phản lực dội vào ụ mối bật ngược lại làm cháy cả bọn.
Tôi loay hoay tìm chổ bắn thì thằng Pôn Pốt đã nổ trước, một trái cối 60 ly Trung quốc nổ oành ngay chổ tôi quỳ. Tôi thấy nhói và nóng ngay mông, đưa tay ra rờ thì thấy máu đổ, cái bi đông nước của tôi cản dùm cho tôi một mảnh đạn, còn một mảnh khác chui thẳng vào mông, làm máu tôi đổ chan hòa cùng nước bi đông còn đang nóng. Tôi kêu lên, tôi bị thương rồi.
Đồng chí Vịnh chạy tới băng bó vết thương cho tôi, vừa xong thì có lệnh xung phong, đồng chí để cây AK lại cho tôi, còn đồng chí xách khẩu B41 và giá đạn lao lên phía trước.
Hỏa lực tiểu đoàn hổ trợ bộ binh xung phong bắn cấp tập, trước mặt tôi một khẩu 12 ly 8 được đặt triển khai song song với hướng xung phong đại đội bắn cùng cùng, cùng cùng đầy uy lực... Tiếc thay hướng xuất kích của chúng tôi quá xấu, trước mặt là đồng trảng không có vật che khuất, che đở, nên ngay lập tức chúng tôi bị chặn lại bởi hỏa lực của Pôn Pốt từ trên bờ đê bắn trả. Nhiều loạt đạn được bắn thẳng về hướng chúng tôi và cối của địch rót tập trung vào đội hình xung phong.
Người ta nói tiên hạ thủ vi cường, khá khen thay thằng chỉ huy Pôn Pốt đã làm đúng điều đó. Chúng đã đánh chúng tôi bằng con pháo đầu và trong loạt pháo đó lượm ngay con tốt là tôi, chiến sĩ hỏa lực của trung đội. Sau loạt pháo đầu, chúng bắt đầu chỉnh cối vào đội hình xung phong của tiểu đoàn, cây 12 ly 8 bắn hết đạn rút ra tránh cối, còn bộ binh nằm tại chổ đưa lưng chịu trận.
Cối cứ bay vo vo trên đầu, hết tầm nó xé gió rít lên rồi nổ oành một tiếng, trúng ai người đó chịu. Đạn nhọn mình còn nằm dán mình xuống đất, chúi đầu vào bờ ruộng mà tránh, còn cối pháo đánh cầu vồng thì chịu!
Súng đạn vô tình, trời kêu ai nấy dạ.
Quân ta lại phát động đợt xung phong lần thứ hai, hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng của tôi hô rất hào hùng, tôi nằm đó sau lưng ụ mối nghe tiếng hô xung phong khí thế của anh mà lòng đầy cảm phục... Nhưng làm sao mà lên được trên cái địa hình trống trãi này, trong khi hỏa lực của địch còn rất mạnh.
*
* *
Qua 2 đợt xung phong, một số đồng đội tôi đã ngã xuống, đang chờ kéo xác về, những đồng chí còn lại đang nằm dán bụng xuống đất, đưa lưng cho cối nện mà chịu trận. Lúc này đây, những động tác huấn luyện căn bản ở quân trường được binh sĩ sử dụng một cách tự giác và triệt để, đó là các động tác lăn, lê, bò, toài. Anh chỉ cần đứng khom lưng lên thôi, chưa kịp nhảy qua bờ ruộng là lập tức ăn đạn. Trong lúc chỉ huy bộ đội xung phong, đồng chí Hội đại đội phó quân sự, mới trở về cầm quân đi đánh trận này đã bị trúng đạn gãy chân ngay tại trận.
Đến khoảng 10 giờ trưa thì các thương binh chúng tôi được đưa về tuyến sau. Còn đây là diển tiến trận đánh đó do đồng đội thuật lại sau này:
Bọn địch phòng ngự trên bờ đê tiếp tục kiểm soát mọi động tỉnh của chúng tôi, nhúc nhích là bắn. Anh em bò lên kéo tử sĩ về, núp không kín để hở người ra là nó bắn, đã có người bị bắn chết kiểu như vậy! Chúng bắn cầm chừng đủ để khống chế chúng tôi phát động tấn công.
Đến trưa chúng bắn đạn lửa đốt đồng cỏ, mục đích thiêu cháy chúng tôi. Đồng chí Ơn về đơn vị cùng đợt với tôi bị bắn chết trong đợt xung phong hồi sáng, lại tiếp tục bị thiêu cháy lần nửa, mất cả hạ bộ, đúng là người chết hai lần, thịt da nát tan...
Đến chiều pháo binh của ta được điều tới bắn thẳng vào trận địa địch, mãi đến tối chúng tôi mới xung phong chiếm lĩnh trận địa được.
Đây là trận đánh lớn cuối cùng của tiểu đoàn 3 trong năm 1979. Trận này rốt cuộc rồi chúng tôi cũng thắng, nhưng tổn thất về nhân mạng quá lớn!
*
* *
Nếu ngay từ đầu, với địa hình bằng phẳng và trống trải này, từ trong rừng chúng ta triển khai hỏa lực cực mạnh, dàn tăng pháo ra đối diện với quân địch, bắn cấp tập, hủy diệt triệt để trận địa phòng ngự của địch trên bờ đê. Rồi cho bộ binh xung kích ồ ạt cùng xe tăng, thiết giáp yểm trợ sau lưng thì chắc chắn chúng ta đã giải quyết trận đánh nhanh hơn, tổn thất nhân mạng ít hơn!
Lực lượng vũ trang của ta vào thời điểm đó dư sức làm điều này, tại sao chúng ta không làm như vậy? Tại sao chúng ta lại triển khai bộ binh xung phong trong một địa hình cực kỳ bất lợi như vậy? Có cái gì đó không ổn? Chủ quan chăng?
Bài học trên chiến trường thấm đẩm máu xương của biết bao đồng chí, đồng đội. Chúng ta phải lấy những bài học xương máu này mà huấn luyện cho binh sĩ của ta sau này. Phải luôn nhớ rằng biết người biết ta trăm trận trăm thắng.
Đưa quân vào chiến trận mà địch tình không nắm, chủ quan khinh địch, tổn thất là điều chắc chắn. Tiểu đoàn 3 đánh nhiều trận, hy sinh nhiều quân nhưng mãi không được anh hùng có lẽ vì vậy... Vì chúng ta thắng không ngon, diệt không gọn, tổn thất nhân mạng lớn!
1. TRẠM PHẨU TIỀN PHƯƠNG
Gọi là trạm phẩu tiền phương, bệnh xá trung đoàn hay K23 cũng đều đúng. Trạm phẩu này, bệnh xá này có bác sĩ Mai Cẩm Tú, đại đội trưởng K23 là người nổi tiếng toàn trung đoàn và khắp vùng chiến sự quanh ngã ba Nimith, đó là về sau này khi trung đoàn 4 hùng cứ một phương trời ở khu vực ngã ba con voi (anh nổi tiếng cũng có lẽ vì tên anh quá đẹp!). Còn ngay tại thời điểm này thì nó cực kỳ dã chiến, trạm phẩu không giống, trạm xá càng không phải.
Anh đang mùa hành quân
Pháo lăn dài chiến dịch...
Toàn trung đoàn đang xuất kích đánh địch và cái phẩu tiền phương này cũng theo sát đoàn quân tiên phong, nó chỉ cách tiền tuyến chừng 10 phút đi bộ.
*
* *
Trời càng lúc càng nắng. Kiến trong ụ mối nghe tanh hơi máu, nó bò ra và tìm tôi mà cắn. Nằm trong cái hố tiền tiêu của thằng Pôn Pốt đào sẳn trên ụ mối thì đở nắng vì có tàn cây che khuất, nhưng lại bị kiến và mấy thằng Pôn Pốt khốn nạn cứ nhè chổ tôi ẩn mình chờ chết mà bắn, đạn cứ chíu chíu vào hướng tôi nằm nổ lụp bụp thật là khó chịu.
Tôi kéo súng, tụt ra sau lưng ụ mối mà nằm, chịu nắng nhưng mà tránh được kiến và đạn. Tháng 3 trời nắng lắm và tôi càng lúc càng khát. Cái bình toong của tôi bị mảnh đạn bắn thủng, nước chảy gần hết, còn một ít nước dưới đáy bình đã bị tôi uống cạn từ sáng rồi.
Nấp dưới ụ mối, dưới cái nắng thiêu đốt, người tôi nóng ran, khát khô cổ họng. Tôi suy nghỉ miên man, nghỉ rằng mình sẽ được đưa về nước chữa trị. Về nước lần này phải uống một trận nước đá lạnh cho đã. Hơn một tháng nay, trên cái đất nước khô khan nóng bức này tôi thật không hề được thưởng thức qua một ngụm nước đá.
Mặt trời lên cao, cao lắm rồi! Mãi mới thấy mấy anh em tiếp thương tải đạn vận dụng địa hình địa vật chạy lên.
Thấy đồng chí Đinh Văn, chiến sĩ cối 60, nhập ngũ cùng đợt, lên tham gia tiếp thương, là người thân quen, tôi xin đồng chí ấy nước để uống cho đở khát. Anh ngần ngừ không muốn, vì bài học trên chiến trường chúng tôi thuộc nằm lòng là không cho thương binh mất máu uống nước nhiều, vì như vậy càng làm vết thương chảy máu, càng dễ chết.
Tôi nài nỉ:
- Xin một hớp thôi!
Anh đưa bình toong cho tôi, tôi rót ra một nắp bi đông rồi uống.
Thật đúng là một hớp! Không đã đâu vào đâu!
Tôi trả bình toong lại cho anh, anh cầm bình toong ngạc nhiên, uy tín thiệt, quả đúng là một hớp! Thông thường thì khi người khát gặp nước thì uống ừng ực mà...
Đồng đội kéo xác hạ sĩ Trọng về, anh nằm đó, lấm lem đất cát với vết thương đổ ruột trên người. Đại đội phó Hội bị bắn gãy chân cũng được anh em kè nách xốc về, anh đứng đó, mồ hôi chảy ròng ròng, mặt mày đỏ gay, nhăn nhó, đau đớn nhưng gan lì, không kêu rên một tiếng.
Hạ sĩ Trọng được đặt vào cái võng của anh để cáng thương mang đi, đồng chí Hội mới từ quân y viện trở về không có võng...
Đồng chí Thạch, chỉ huy trung đội xử:
- Lấy võng của thằng Hùng cáng anh Hội, còn thằng Hùng để anh em kè về.
Có một đồng chí nào đó nghe lệnh bước tới, kè vai xốc nách tôi lên. Tôi gượng đứng thẳng dậy, xua tay:
-Khỏi, để tôi tự đi.
Theo đoàn quân cáng thương trở về tuyến sau, anh em mạnh tay khỏe chân đi trước, tôi lết bết theo sau. Cái chân trái khỏe tôi bước tới một bước, cái chân phải kéo lê lên một bước, rồi đứng trụ lại, cho anh chân khỏe bước tới, tôi cứ thế mà đi theo nhịp điệu cà nhắc, cố gắng không làm đau vết thương sau mông bên phải. Đi được một đoạn thấy hai chiến sĩ gánh một thùng nước đi tới, tôi rề lại xin nước uống.
Một đồng chí hỏi, vẻ quan tâm:
- Sốt rét hả, thấy mặt xanh quá!
Tôi cười cười đáp lể, không trả lời, khụy chân xuống, ghé miệng vào thùng nước, uống ừng ực. Đã ơi là đã!
Tôi cảm ơn hai anh bạn, rồi cà nhắc đi về gặp quản lý đại đội của mình. Quản lý đại đội là đồng chí Bùi, lính Bắc, người dong dỏng cao, anh chững chạc và khá là vui tính. Anh kêu tôi ở lại ăn cơm, rồi viết giấy cho tôi đi phẩu trung đoàn.
*
* *
Sau khi đồng chí Vịnh băng bó, vết thương của tôi đã ngưng chảy máu, hồi nảy nằm trên ụ mối, bị kiến chui vào người đốt, tôi đã tháo băng ra bỏ, để phủi kiến. Cái quần tôi bị xé ra lúc băng bó, máu me và rách nát, tôi vất bỏ nó đi không thương tiếc. Lấy quần áo mới thay vào, người tôi lúc này trông cũng đã khá lại.
Vẫn còn khát, tôi tranh thủ uống nước nhiều hơn ăn cơm. Vết thương tôi đã cầm máu lâu rồi, nên tôi thoải mái uống nước không ai ý kiến gì.
Cơm nước xong xuôi, tôi cầm giấy của quản lý đại đội đi lên phẩu trung đoàn. Phẩu trung đoàn cũng gần ngay đó, tôi bước tới bàn phẩu xuất trình giấy giới thiệu rồi đứng đó... Tôi nghe văng vẳng bên tai hình như đài phát thanh đang phát chương trình văn nghệ chiều chủ nhật thì phải, và hình như nói cái gì đó về ngày sinh nhật đoàn 26 tháng 3. Cả tháng qua, hành quân chiến đấu liên tục tôi thực sự không biết hôm nay là thứ mấy, ngày gì. Trận đánh này xãy ra ở đâu, vào ngày nào, đến nay tôi thực sự cũng không tường tận. Tôi không phải là nhà viết sử, và cũng không có nguồn tài liệu nào để truy cập chính xác thời gian, địa điểm trận đánh, tôi chỉ viết lại những gì mình còn nhớ sâu đậm trong ký ức một thời chinh chiến, một thời ngang dọc.
Có tiếng ai đó giọng chỉ đạo:
- Làm lọc.
Tôi đứng bên bàn phẩu, đưa cái mông bên phải ra cho đồng chí quân y sĩ tiêm thuốc tê, rồi lấy kéo cắt thịt nghe sựt sựt, sựt sựt... Không thấy đau, trong tai tôi tiếng đài phát thanh văng vẳng, văng vẳng.
Tiếng dao kéo rổn rảng, đồng chí quân y sĩ đã làm lọc vết thương xong, đã khoét một cái lổ sâu hoắm trong cái mông của tôi, ước cở ngón tay đút vô lọt. Đồng chí trét một loại thuốc mỡ màu xanh vào cái lỗ đó, rồi băng miệng vết thương lại bằng keo dán, vậy là xong. Vậy là trong người tôi vẫn còn mảnh đạn cối 60 Trung quốc mà tôi không hề hay biết!
Tôi không hề hay biết gì về cái mảnh đạn để đời đó. Mãi đến năm 2008, chân tôi bị đau, đi cà nhắc, tôi tưởng bị thấp khớp, tôi tưởng cái cổ xương đùi của tôi có vấn đề, tôi đi chụp X quang để tìm bệnh...
Bác sĩ phát hiện một dị vật phản quang ngay sau mông gần đốt xương cùng, ông hỏi tôi trước đây có bị thương không. Tôi trả lời có, trước đây đi ở lính Campuchia tôi có bị thương. Ông bác sĩ nói vậy là còn mảnh đạn đó, rồi chỉ cho tôi cái dị vật phản quang kia. Nó nằm đó đã hơn 29 năm, trong phần mềm sau mông tôi, hình thoi, nhỏ thôi, dài gần một phân rưởi, còn rộng không tới một phân.
Nó làm tôi thốn, làm tôi khó chịu, tôi muốn lấy nó ra cho đời bớt khổ!!! Tôi đến phòng mạch của một ông thạc sĩ bác sĩ ở Bến Tre nhờ ông thu xếp mổ cho tôi, ông lắc đầu:
- Coi vậy chứ khó lấy ra lắm, có khi phải rạch nát cái mông ra mới thấy nó.
Tôi nghĩ là do phương tiện y khoa ở Bến Tre không được hiện đại nên bác sĩ họ ngại. Tôi lên Sài gòn, đến bệnh viện Hoàn Mỹ, tôi nhờ bác sĩ khám và mổ cho tôi. Ông bác sĩ nhìn phim chụp thẳng, rồi nhìn phim chụp nghiêng, rồi lắc đầu nói:
- Khó lấy ra lắm, nó nằm yên như vậy lâu rồi thì cứ để cho nó yên.
Tôi nói bác sĩ xem cố gắng mổ lấy ra có được không, chứ nó làm tôi thốn lắm!
Ông này trả lời cũng y như ông bác sĩ ở Bến Tre:
- Không dễ lấy nó ra đâu, có khi phải rạch nát mông đó.
Thấy tôi có vẽ chưa phục, ông mới nói rõ:
- Mảnh đạn này chỉ có thể mổ khi nào nó di chuyển, nó làm mủ, khi đó mình lần theo đường mũ mà lấy nó ra.
Ông nói như vậy thì quá ư là khoa học, quá ư là biện chứng rồi, thôi đành chấp nhận chung sống hòa bình với nó vậy!
Thế nhưng tôi vẫn còn tức cái ông mảnh này lắm! Dặn vợ con tôi khi nào tôi chết, thiêu tôi xong, khi hốt cốt tôi, nhớ kiếm cái mảnh đạn này, lấy ra để nguyên đó, đặt lên dĩa (như dĩa cúng trái cây), đem lên bàn thờ, để trước di ảnh của tôi, để cho tôi nhìn thấy cái mặt thằng tay sai Bắc Kinh, cái thằng Made in China này. Tại nó nên tôi mới phải ra trận, tại nó nên tôi mới phải bị thương đi cà nhắc... và bây giờ thỉnh thoảng lại lên cơn đau với nó.
Rời bàn phẩu, tôi đi qua trạm xá. Đây là một cái nhà sàn cao và rộng rãi, lính tráng ồn ào đang tụ hội đánh tiến lên, sàn nhà dơ bẩn, tàn thuốc đầy rẩy, tôi bị đau ở mông, không nằm võng được, mà cũng không còn võng đâu mà nằm. Coi bộ nằm ở đây không ổn, lính đông quá, nằm dưới sàn nhà sợ bị anh em nó đi qua đi lại đá trúng mông thì khổ. Tôi đi qua cái nhà sàn kế bên, một căn nhà sàn thấp nhỏ và sạch sẽ. Tôi dọn vệ sinh chổ tôi nằm cho tươm tất xong thì có kẻng cơm.
Tôi khập khiểng đi lãnh phần cơm của mình, một phần cơm trắng với một gói bột nêm (giống như cái gói bột nêm mì gói bây giờ). Tôi đong cho mình một bi đông nước, chỉ đong 2 phần 3 bình thôi, vì cái bình toong này nó đã bị lủng một lổ ở phía trên, khi tôi ăn trái đạn cối 60 của thằng Pôn Pốt hồi sáng sớm.
Tôi lếch thếch trở về, gặp một anh quân y sĩ dáng vẽ thông cảm, hỏi:
- Đau không?
Tôi gượng cười trả lời:
- Đau ít thôi!
Ăn cơm với bột nêm vậy mà ngon miệng. Thông thường, nhiều bửa chúng tôi chỉ được ăn cơm với nước muối pha một ít nước gạo rang cho có màu vàng vàng, rồi nêm bột ngọt. Thế thôi!
Sáng hôm sau thức dậy, tôi lấy kem và bàn chải ra đánh răng tử tế, xúc miệng bằng chỉ một ngụm nước còn sót lại trong bi đông.
Tôi đang hòa nhập vào cuộc sống ở trạm xá trung đoàn một cách nhẹ nhàng, cơm ngày ba bửa, nước đun sôi để nguội uống thoải mái mỗi bửa 2 phần 3 cái bình toong thủng...
Tối đó tôi lên cơn sốt, nằm rên hừ hừ trong căn nhà sàn nhỏ bé của mình. Cái mảnh đạn tôi ăn hôm qua, hôm nay nó hành cho tôi sốt.
Vậy mà sáng ra tôi lại tỉnh như không, tôi vẫn đi lãnh cơm ăn bình thường, tôi còn rảnh rổi đi thăm ngôi làng tôi đang nằm dưỡng thương nửa chứ. Tôi đi vào một căn nhà sàn lớn hư hại nham nhở, nồi niêu, chén bát ngổn ngang, có cả màn, gối, chăn, chiếu, nhưng chẳng có cái nào lành lặn để mà tận dụng. Nhiều căn nhà bị đốt cháy nham nhở... Rồi tôi kiếm được ở đâu đó một ống nylon trắng, đó là ống đựng đạn B41. Tôi đốt chảy cái nhựa nylon cao cấp đó ra, nhỏ vào cái lổ thủng của bình toong để vá. Vậy mà vá được, cái bình toong của tôi lại chứa nước ngon lành.
Tối hôm đó đang nằm ngũ thiêm thiếp thì tôi giật mình tỉnh giấc vì có quá nhiều tiếng động trên con đường đất đỏ trước nhà. Người, quá trời là người! Dân Campuchia bồng bế nhau về làng, đi suốt đêm như trảy hội. Người khá giả đi bằng xe bò, người nghèo lội bộ gánh con, phụ nữ đội thúng trên đầu... Đoàn người áo đen đông đảo nhưng không ồn ào, con nít không quấy phá, một trật tự đáng kinh ngạc. Chế độ Pôn Pốt đã thủ tiêu hoàn toàn ý chí kháng cự của những con người này, đến con nít nhỏ cũng không dám cười, dám khóc, sợ Ăng-ca bực mình, đập cho một cái cán cuốc là tiêu đời.
Chiến dịch giải phóng các tỉnh đồng bằng sông Mê-kông trên phần đất Campuchia của quân đoàn 4 và sư đoàn 5 chúng tôi đang phát huy tác dụng: Hàng vạn, hàng vạn người dân được giải thoát từ các trại tập trung đang quay trở về làng bản của mình.
Chúng tôi những thương bệnh binh K23 kéo cả ra đường để xem cuộc hành hương vĩ đại này. Một anh lính nào đó kêu tôi lại, dạy cho tôi một câu tiếng Campuchia, rồi chỉ cho tôi đến chổ một cô gái xinh đẹp, dáng người cao ráo, nước da ngăm đen, nét mặt buồn buồn đang đứng nghỉ chân, hỏi:
- Ôn sa lanh boòng tê?
Một anh lính Bắc đứng kế bên buộc miệng chửi liền:
- Bôi bác.
Còn anh lính dạy tôi câu nói tiếng Campuchia đó khoái chí đứng cười ha hả.
Riêng tôi thì quê xệ, lui ra đứng ngẩn ngơ nhìn cô gái. Cô không nói gì cả, thong thả đội thúng lên đầu bỏ đi, vẽ mặt vô cảm như người mất hồn.
Tôi lính mới tò te, đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với dân, được dạy cho một câu nói tiếng Campuchia để nói chuyện với dân, vậy mà trớt quớt...
Sau này tôi mới hiểu nghĩa của cái câu ôn sa lanh boòng tê? Tức là em có thương anh không? Câu hỏi này trong hoàn cảnh đó quả là trớt quớt, làm tôi nhớ mãi.
Hành trình trở về quê hương của những người dân Campuchia đau khổ đến mất hồn này kéo dài mấy ngày mới ngớt. Nổi đau diệt chủng của Pôn Pốt để lại quá lớn, trên gương mặt thất thần của những con người đang lũ lượt kéo nhau đi trước mắt chúng tôi.
*
* *
Vết thương của tôi lành rất mau, mấy ngày sau thay thuốc, tôi thấy cái lổ đạn sâu hoắm đó giờ chỉ còn sâu khoảng hơn một đốt ngón tay.
Trung đoàn tiếp tục hành quân theo chiến dịch, tôi bây giờ thuộc quân số K23, cũng lên xe hành quân theo chiến dịch trong đội hình khối hậu cần. Nhờ quân y cho thuốc mát tay, nên tôi di chuyển lúc này cũng đở khổ, không còn lết bết như lúc mới vào viện.
Trong thời gian hành quân trong đội hình khối hậu cần, tôi đã trãi qua nhiều phum làng trù phú. Có một cái phum rất đẹp, nhà hai bên đường lợp ngói đỏ rất bắt mắt, không biết là xây cho ai ở?
Thường thì chúng tôi lên xe đi một buổi, dừng lại vài ngày rồi đi tiếp. Trong khoảng thời gian này tôi không khám phá được gì nhiều, vì bị thương đi đứng khó khăn nên ít di chuyển. Nhưng có một chuyện làm tôi nhớ mãi:
Sáng này, theo sự chỉ dẩn của dân địa phương, một đơn vị của ta xuất kích đi truy quét và bắt được 4 thằng Pôn Pốt mang về, bốn thằng này là chỉ huy Ăng-ca có nợ máu với nhân dân, bị dân địa phương căm thù sâu sắc. Bộ đội bàn giao 4 thằng này cho dân làng xử.
Buổi chiều hôm đó, ăn cơm xong, mấy thằng nằm viện chung rủ tôi cùng đi xem dân làng xử tội Pôn Pốt. Chúng tôi kéo nhau đi, cũng gần đây thôi, cách trạm xá vài trăm bước.
Pháp trường là một bãi đất trống ven đường đất đỏ, một đám người đông đúc quay tròn quanh bãi. Xa xa, cách đó vài chục bước chân, người ta đang đào hố chôn tập thể, và xa hơn nửa, mặt trời chênh chếch xế về Tây, tuôn trào lửa đỏ, trời tháng tư hầm hập nóng. Tôi xen vào đám đông cùng xem cảnh dân Campuchia hành quyết bọn Ăng-ca.
Trước mắt chúng tôi là bốn người đàn ông Campuchia vạm vở, đen đúa, trần trùng trục, quấn xà-rông, nằm sấp dưới đất, tay bị trói thúc ké ra sau lưng bằng khăn cà-ma, đầu bê bết máu... Máu loang lổ trên nền đất khô, trên những thân thể đang nằm thoi thóp. Họ bị đập đầu cũng đã lâu, máu trên đầu đang khô lại. Có người thở phì phọp, máu từ trong miệng người đó thổi ra từng bong bóng nhỏ, phồng lên, xẹp xuống, phồng lên, xẹp xuống...
Một ông già dáng người quắt thước, vẽ mặt căm phẩn, đi vòng quanh, cầm cây đập thẳng cánh vào đầu từng thằng nghe bốp bốp... Những người bị đập đầu có vẽ tê liệt rồi, không nghe la, không dẫy dụa, chỉ thấy một người còn sức co giật từng cơn nhẹ nhẹ.
Một phụ nữ trọng tuổi, dáng người ốm yếu, mắt mũi ròng ròng, bà vừa đánh, vừa khóc, vừa kể, cảnh tượng thật bi ai, thê thảm! Không biết tiếng, nhưng tôi hiểu bà đang kể tội mấy thằng này đã giết chồng bà, giết con bà, để lại một mình bà đau khổ tàn tạ trong tuổi xế chiều. Bà không có sức, bà đánh không đau, bà đánh như mẹ đánh con, không hung ác, không giận dữ.
Bốn thằng Pôn Pốt đó sắp chết rồi, không thấy phản xạ vì trước những cái đánh của bà. Chỉ thấy máu trên đầu chúng bê bết, bê bết trên những cái đầu đen, tóc quăn tít.
Đứng coi hoài cũng chán, tôi bỏ ra, đi về. Đầu nghỉ mông lung, đúng là nợ máu trả bằng máu. Mình giải quyết mấy thằng Ăng-ca theo cách này quá hay, những người dân của cái làng này vậy là không còn đường lùi, phải triệt để xây dựng chính quyền mới, triệt để tiêu diệt Pôn Pốt, không để nó có cơ hội quay về trả thù khốc liệt.
Nguồn: Vnmilitaryhistory