ONE AWFUL NIGHT IN THANH PHONG
Đây là bài viết về sự kiện Thạnh Phong đẫm máu, do Lan The Hoàng,
tức XâyXậpZì, Binh bộ Thượng thư TSV chuyển ngữ. Cậu Xập khi xưa đóng
lon Thiếu tá Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng Hòa, he he!
Lời
người dịch: "Ở đây, cậu dịch bài này không phải để bênh vực hay lên án
cho một hành động đã xảy ra trong quá khứ chiến tranh, mà chỉ nhằm mục
đích mang đến cái nhìn gần gũi hơn với người trong cuộc. Vì thực tế là
các cô chắc cũng chỉ nghe loáng thoáng về vụ này, ngay chính cậu cũng
không biết gì về nó".
_______
ĐÊM THẠNH PHONG
Một
ngày mùa đông năm 1969, trên một máy bay quân sự cất cánh từ sân bay
quân sự North Island tại Coronado, California. Nhồi nhét bên trong máy
bay là Kerrey và biệt đội Seal của anh, toàn đội đang trên đường đến
Việt Nam tham gia chiến đấu.
Seal (aka Sea-Air Land) là một đơn
vị đặc biệt được thành lập trong Đệ Nhị thế chiến, nhằm để phá hủy mục
tiêu dưới nước. Trong chiến tranh Việt Nam, họ được chuyển thành các lực
lượng đặc biệt, chuyên hoạt động sâu trong lãnh thổ kẻ thù, thu lượm
tin tình báo, và bắt cóc, ám sát địch.
Nhóm của Kerrey thuộc
Trung đội Delta/ Biệt đội 1/ Nhóm Biệt hải Bravo. Kerrey là chỉ huy
nhóm, với biệt danh "Chiến binh Kerrey", người đã từng nhiều lần khẳng
định sẵn sàng "ngậm lưỡi lê tiến đánh Hà Nội". Trong vụ việc này chỉ có 2
người kể lại trải nghiệm về Seals ở Việt Nam là Mike Ambrose và Gerhard
Klann. Những người còn lại (William H. Tucker III, Gene Peterson, Rick
Knepper, Lloyd Schreier và chính Kerrey) không kể chuyện này.
Trung đội Delta mới đầu đặt dưới sự chỉ huy của Biệt hải 115, căn cứ tại
Cam Ranh, bởi Đại úy Roy Hoffmann. Những tuần đầu, nhóm Seals hoạt động
trong vùng tương đối an toàn chung quanh vịnh Cam Ranh. Sau thời gian
này, nhóm bắt đầu thực sự tham gia chiến tranh. Họ được điều chuyển về
phía nam, tới căn cứ Cát Lở và chịu sự chỉ huy của Paul Connolly (một
thượng cấp của Roy Hoffmann). Nhóm sử dụng "Swift boats", một loại tàu
vỏ nhôm, tốc độ cao với hai máy 480 mã lực, trang bị 2 đại liên 50 ly,
dùng để tuần tiễu và hành quân trong vùng sông Cửu Long.
Theo
nhận định của David Marion, cố vấn quân sự, thì Thạnh Phong là một vùng
cửa biển Cửu Long, cách Sài Gòn khoảng 150km. Đây là vùng lúa, đầm lầy
ngập mặn, được coi là vùng nguy hiểm nhất. 5 trong số 8 làng ở đây
(trong đó có Thạnh Phong) được coi là nằm dưới sự kiểm soát của Việt
cộng.
David Marion là cố vấn quân sự tại huyện Thạnh Phú, tại đây
ông quận trưởng Đức (Tiet Lun Duc) đang cố gắng hết sức để tiễu trừ
Việt cộng với câu nói cửa miệng: "Quy tắc ở đây, là bạn thì sống, là
Việt cộng thì chết, chỉ có vậy!"
Không chỉ ông quận trưởng Đức
muốn có hành động cứng rắn với Việt cộng, chính Hoffmann (chỉ huy Seals)
đã từng trình ý kiến lên bộ chỉ huy: "Đây là chiến trường chứ không
phải sân chơi trường học" khi xin phép được nới lỏng luật "rules of
engagement". Trước đó, các quân nhân không được phép nổ súng trước khi
địch quân bắn; sau khi được chấp thuận, các quân nhân có quyền khai hỏa
nếu cảm thấy bị nguy hiểm mà không cần chờ địch quân bắn trước.
Đa số đất đai quận Thạnh Phú nằm trong khu vực "oanh tạc tự do", tức
vùng chiến sự, các đơn vị quân sự được tự do nổ súng mà không cần xin
lệnh. Nông dân ở các vùng này đã được kêu gọi di chuyển đến các Ấp chiến
lược do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bảo trợ, những người không chịu rời
khỏi đó vì bất cứ lý do gì, đương nhiên được dán nhãn nếu không là Việt
cộng thì cũng là cảm tình viên Việt cộng.
Nhiệm vụ của Seals là
bắt cóc, ám sát các phần tử lãnh đạo Việt cộng cao cấp ở địa phương,
tiếng lóng là "takeouts" với ý nghĩa: "Đi theo bọn tao, hoặc là chết".
Trong vòng một tuần lễ khi nhóm Seals đến Cát Lở, tình báo cho biết có
lãnh đạo cao cấp Việt cộng tại Thạnh Phong: huyện ủy chuẩn bị họp trong
làng. Huyện ủy viên là mục tiêu chính cần tiêu diệt, nhóm Kerrey lên kế
hoạch takeout, kế hoạch thực chiến đầu tiên của nhóm Seals.
Thạnh
Phong là một làng nhỏ, dân số cỡ 150 người, quá nhỏ nên không có trụ sở
hành chánh hay trường học, bao gồm vài quần thể 3 hay 4 chòi lá, trải
dài khoảng non cây số dọc bờ biển. Theo báo cáo hành quân, vào ngày
13/02/1969, nhóm Seals tiến vào một góc Thạnh Phong, lục soát 2 căn chòi
và "thẩm vấn 14 phụ nữ, trẻ em" để tìm tông tích tên huyện ủy. Ngày hôm
sau, nhóm trở lại trên một canô cao tốc, nhưng phải trở về vì bị trở
ngại vô tuyến.
[Trong cuộc phỏng vấn sau này, Kerrey nói rằng ông
không thể nhớ lại lần đến Thạnh Phong đầu tiên, khoảng hai tuần trước
vụ giết người. Tuy nhiên, các báo cáo sau hành quân từ hai lần trước có
tên Kerrey, với ngày giờ và địa điểm. Và trong cuộc trò chuyện năm 1998,
Kerrey nhớ lại rõ ràng nhiệm vụ này: trước đó ở Thạnh Phong, khi đội
Seals của ông tìm thấy dân làng "ngủ với người đàn ông lạ mặt". Nếu các
báo cáo và hồi ký đầu tiên của Kerrey là chính xác, thì sau đó họ phải
có một chuẩn bị sẵn sàng trong những tình huống mà họ sẽ phải đối mặt
khi họ quay lại ngôi làng).
Vào ngày 25/02, khi các nguồn tin
tình báo một lần nữa xác nhận Việt cộng sẽ tổ chức một cuộc họp cấp
huyện ủy. Theo Kerrey kể lại, một hai ngày trước khi hành quân, ông đã
bay trinh sát Thạnh Phong với một sĩ quan tình báo hải quân, và không hề
thấy có phụ nữ hoặc trẻ em trong làng.
Ngày 25/02, quận trưởng
Đức đã ra một chỉ thị thẳng thừng cho người dân trong khu vực, rằng đây
là lời đáp trả cho một hành động khủng bố trước đó: hai Việt cộng đã ném
lựu đạn vào một ngôi nhà lúc 2 giờ sáng, giết chết một bé 5 tuổi và làm
bị thương vài người khác. Trích từ lời của quận trưởng Đức: "Chúng tôi
muốn dân chúng tuân theo chính phủ. Hãy đến với chúng tôi, chúng tôi sẽ
tái chiếm khu vực này. Ai không đi ra sẽ bị coi là Việt cộng, là kẻ thù,
bạn sẽ chết".
Sau thời gian dài, việc tái hiện chính xác các sự
kiện xung quanh cuộc hành quân đêm đó có thể không khả thi, ký ức mơ hồ,
và sang chấn chiến tranh cường độ cao như vậy có thể gây ra tâm lý ngăn
chặn hoặc thay đổi các chi tiết. Ngay chính Kerrey cũng thừa nhận "hoàn
toàn có thể là tôi đang bôi đen câu chuyện rất nhiều".
Tuy
nhiên, qua hồ sơ chính thức của Hải quân tìm thấy tại Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia và các cuộc phỏng vấn với một số thành viên trong nhóm Kerrey,
thực sự là khoảng gần nửa đêm ngày 25 tháng 2 năm 1969, tại khu làng nhỏ
Thạnh Phong đã xảy ra cuộc hành quân của nhóm biệt hải Bravo. Có hay
không vụ tàn sát?
Có nhiều góc nhìn khác hẳn những gì đã xảy ra
về vụ tấn công. Theo Kerrey, đây là phản ứng tự vệ trong chiến tranh.
Nhưng một phiên bản khác do Gerhard Klann, một biệt kích sừng sỏ trong
nhóm, lời kể của Klann gần giống với lời kể của một phụ nữ Việt Nam và 2
người nhận là thân nhân của các nạn nhân, và đã chứng kiến vụ tấn công.
Những người còn lại trong nhóm, không ai mô tả gì về vụ việc. Các toán
viên Seals khác: Mike Ambrose điều hành công ty Lặn biển ở Texas, Gene
Peterson thám tử Sở cảnh sát Los Angeles đã nghỉ hưu và Lloyd Schreier
điều hành một trang trại ở miền đông Oregon, nói đơn giản rằng họ không
làm gì sai.
William Tucker, nhân viên mặt đất của American
Airlines ở Dallas, không muốn kể chi tiết, cho biết sau cuộc tấn công,
khi nhanh chóng rút lui bằng canô, ông đã quay sang nói với Kerrey bên
cạnh: "I don't like this stuff" (Tao không thích mấy vụ này, mày ợ!),
chính Kerrey cũng đã trả lời: "Ừa, tao cũng không thích". Người còn lại
là Rick Knepper, cựu chiến binh Seals, thì từ chối bình luận.
Theo lời kể của Kerrey, đó là một đêm không trăng, sau khi được thả
xuống bằng canô, nhóm đột kích âm thầm tiến vào chiếm lĩnh khu vực không
xa khu làng. Nhóm nằm im bất động chờ cho quen với bóng đêm đặc quánh
xung quanh. Nương theo bóng đêm, nhóm lắng nghe động tĩnh của địch quân.
Toán bắt đầu hành quân, tiền sát viên Ambrose đi đầu, kế tiếp là
Schreier, Kerrey và Klann, bám sát phía sau là Knepper và Peterson, việc
bọc hậu do Tucker đảm trách. Nhóm trang bị hỏa lực M16, súng ngắn 9 ly,
lưỡi lê, lựu đạn lân tinh, M72. Klann vác khẩu đại liên mà cả nhóm
thường gọi là “đá hộc”.
Nhóm tiến vào bìa làng và phát hiện một
căn chòi mới, hoàn toàn không có trong báo cáo tình báo trước đó, trinh
sát Ambrose và Klann lui trở lại báo cáo: "Có vài kẻ địch trong chòi,
phải thanh toán ngay".
Trong phỏng vấn sau này, Kerrey trong khi
nhận trách nhiệm hoàn toàn về việc giết chóc, đã cho biết ông không ra
lệnh chi tiết phải làm thế nào. "Trong khi thi hành điệp vụ, nếu gặp
người lạ, toán bắt buộc phải tiêu diệt"; "Tiêu diệt tất cả những người
phát hiện nhóm hoặc là phải hủy bỏ cuộc hành quân". Theo đánh giá lúc đó
của Kerrey thì "đây là một trạm tiền đồn, nếu không tiêu diệt, toán
Biệt hải sẽ bị phát hiện".
Kerrey ra lệnh tiêu diệt mục tiêu,
toán Seals đã dùng lưỡi lê nhằm tránh tiếng động để thanh toán toàn bộ
địch trong chòi. Các toán viên thi hành lệnh. Kerrey không tham dự vào
vụ giết chóc này, ông cũng không nhớ là có tìm thấy vũ khí ở đây. Sau
khi thanh toán chòi lá bìa làng, cả toán tiếp tục len lỏi theo triền đê
tiến sâu vào Thạnh Phong. Sau chừng 15 phút, nhóm tiếp cận khu vực có
chừng 4-5 chòi, với ánh lửa vàng vọt chập chờn chiếu qua kẽ lá.
Kerrey kể, đúng lúc này chợt "súng nổ từ mục tiêu". Báo cáo hành quân
sau này ghi "vài phát đạn đã bắn ra từ khoảng 100m". Trong phỏng vấn sau
này, Kerrey cho biết: vì ở phía sau, ông cũng không chắc đó là tiếng
súng nổ, nhưng tiền sát viên Ambrose xác định là họ bị tấn công. Trong
đám sương mù chiến tranh, khó mà xác định chính xác việc gì đang xảy ra!
Kerrey cho biết: “Tôi nghĩ có thể hàng ngàn địch quân ở phía trước, ai
mà biết được?" Việc đầu tiên Kerrey làm là ra lệnh bắn trả, dùng cả M72,
và sau đó ra lệnh tấn công chiếm mục tiêu là các chòi. Một báo cáo sau
này của một toán viên Seals cho biết nhóm đã bắn khoảng 1.200 viên đạn.
Cuộc tấn công chỉ kéo dài vài phút, khi nhóm Seals tràn lên, họ thấy
vài người chạy khỏi khu vực, những người này cũng bị tiêu diệt ngay lập
tức.
Trong cuộc phỏng vấn sau này, Kerrey nói: "Thay vì thấy xác
Việt cộng và vũ khí, tôi chỉ thấy phụ nữ và trẻ em". Theo báo cáo hành
quân, có 7 người bị giết, do trong bóng đêm nên không xác định được là
đàn ông hay phụ nữ.
Không chỉ rùng rợn mà còn khó hiểu hơn, nên
nhớ điều ai cũng biết là các chòi lá đó đều có hầm ngầm dưới đất hoặc
ngay cạnh đó; khi có biến động, người dân sẽ lăn chui xuống đó để tránh.
Thông thường ở những vùng mất an ninh, họ ngủ ngay dưới hầm.
Kerrey nhớ lại, toán Seals tìm thấy các thi thể chết thành nhóm, họ
không hiểu tại sao dân chúng lại gom lại như vậy. Có thể ai đó đã gom họ
thành nhóm. "Có thể các du kích đã dùng họ che chắn để tẩu thoát";
"Thực tôi cũng không rõ, nhưng vấn đề ở đây là không có bóng dáng đàn
ông trong làng. Đây là chuyện lớn!"
Nếu chuyện kể của Kerrey là
thật, có nhóm người nào đó gom phụ nữ và trẻ em thành nhóm giữa làng,
rút ra ngoài và bắn vào toán Biệt hải. Trường hợp khác, khi nghe tiếng
súng nổ, dân chúng thay vì chui xuống hầm trú ẩn, thì vì lý do gì đó lại
chạy ra vùng trống và tụm lại thành nhóm.
Vài ý kiến cho rằng
khó thể tin là hỏa lực từ xa 100m - cho dù mạnh cỡ nào - lại có thể giết
chết toàn bộ 14, 15 dân làng. Chắc chắn phải có người sống sót, nhất là
khi toán Biệt hải bắn trong đêm tối hoàn toàn và dưới cơn hoảng loạn.
Nhưng như Kerrey cho biết, sự thật đã xảy ra theo như trí nhớ của ông
(memory is always a liar) trong đêm 25/02/69 là như vậy.
Chuyện
kể theo lời Gerhard Klann, di dân gốc Đức khi còn bé, cựu chiến binh
Seals với 20 năm quân ngũ, đã vinh dự được chọn vào nhóm Seal team Six
trong vụ giải cứu con tin cuộc khủng hoảng Iran năm 1980. Klann thuộc
loại người hung hăng, nghiện rượu, đã từng bị giáng cấp vì ẩu đả. Những
người bạn của Klann chưa bao giờ thấy ông biểu lộ ác cảm với Kerrey. Mặc
dù bị cho là nghiện rượu, nhưng các đồng sự đánh giá Klann luôn tích
cực trong công việc. Klann tuyên bố sẽ phản đối bài của Nytimes khi viết
về vai trò của ông trong câu chuyện này.
Sau đây là góc nhìn của Klann:
Khi tiền sát viên Ambrose báo rằng anh ta thấy một người lớn tuổi cạnh
cửa ra vào và 2 phụ nữ, cùng 2 người đàn ông bên trong, "tôi ra hiệu cho
Klann tiêu diệt". Nhưng trong cuộc phỏng vấn, Klann cho biết tại căn
chòi đầu tiên khi nhóm Seals đột nhập, trong đó có một người đàn ông và
một người đàn bà, cả hai đều lớn tuổi, cùng 3 trẻ em khoảng 12 tuổi,
chính Kerrey ra lệnh tiêu diệt.
Klann nhào tới tóm người đàn ông,
bịt miệng và lôi hắn ra xa khỏi đám nhỏ để thanh toán. Klann kể: "Tôi
đâm lưỡi lê vào sườn và tiếp vào phần trên lưng". Người đó xoay ngược
lại, chụp cánh tay đang cầm lưỡi lê của Klann để đẩy ra. "Hắn chưa chết,
vẫn cựa quậy và chống cự". Klann ra hiệu cần sự giúp sức. Trong lúc
Ambrose vẫn cảnh giới, Kerrey nhào vô giúp đè người đó xuống đất, Kerrey
dùng đầu gối chặn lên ngực hắn, Klann soẹt lưỡi lê ngang cổ hắn!
Khann kể, ông không nhớ rõ ràng, thứ tự việc gì xảy ra tiếp theo. Trong
khi ông tấn công người đàn ông, các đồng đội khác tiêu diệt những người
còn lại - người phụ nữ và 3 đứa trẻ.
Trong phỏng vấn với Kerrey,
ông không hề nhớ vụ giết người đàn ông này, nhưng khi nhắc lại hồi ức
của Klann và Ambrose, Kerrey có nhận. Kerrey nhớ lại: Klann có gặp chống
cự khi cố thanh toán đối phương, nhưng ông phủ nhận có can thiệp vào,
"Klenn đã gặp sự chống cự dữ dội khi cố tiêu diệt người này".
Kerrey nói rằng ông biết ai là người giúp Klenn, nhưng nhất định không
nói ra: "Mọi người trong nhóm tôi đều ở sát bên căn chòi đó, nhưng tôi
không phải người hạ thủ, cam đoan 100%". Trong cuộc phỏng vấn này ông
cũng nói: "Tôi không quy kết ai cả, tôi là chỉ huy nhóm, người trách
nhiệm trước tiên phải là tôi".
Trong hồi ức của Klann thì nhớ là
Kerrey đã giúp ông đè đối phương xuống, cả Ambrose cũng nghĩ vậy, nhưng
sau này chính Ambrose cũng nghĩ lại "có thể là Bob". Số 4 người còn lại
trong căn chòi, theo Kerrey là do Klann và Ambrose ra tay thanh toán, vì
"toàn bộ toán viên đều ở ngoài với tôi". Ambrose đã không xác nhận về
điều này.
Phạm Thị Lãnh, được chương trình “60 minutes” phỏng
vấn, đã kể câu chuyện tương tự Klann, về trình tự thời gian của các sự
kiện và một số chi tiết quan trọng. Bà Lãnh, khi ấy khoảng 30 tuổi, vợ
một cán bộ Việt cộng, nói rằng đã chứng kiến toàn bộ vụ giết người, cô
kể rằng cô nhanh chóng lẻn đến gần căn chòi khi nghe tiếng kêu từ đó.
"Tôi đã ẩn đằng sau một bụi chuối, và trông thấy họ cắt cổ ông già, như
vầy như vầy…". Cô nói thêm "Đầu ông ta vẫn dính lại ở phía sau". Cô cũng
cho biết cô chứng kiến những Biệt hải giết bà già và 3 đứa nhỏ. Cô Lãnh
cho biết đó là ông bà của 3 đứa nhỏ.
Một phụ nữ khác tự nhận là
thân nhân của các nạn nhân đã dẫn nhóm “60 minutes” tới một khu nghĩa
địa. Ở đó có 2 mộ phần tên Bùi Văn Phát, vợ là Lưu Thị Canh, cùng 3 ngôi
mộ nhỏ hơn chôn các cháu của họ. Nhưng ngày chết ghi trên mộ phần lại
là 10 năm sau vụ này, nên không có chứng cứ gì để khẳng định là 5 người
này do nhóm Biệt hải giết ngày 24/02/1969.
Ambrose kể, sau vụ thủ
tiêu tại chòi lá. "Tôi, Klann và Bob hội ý nên tiếp tục hành quân hay
hủy bỏ, vì chúng tôi đã gây ra khá nhiều tiếng động, tôi sợ nguy hiểm vì
đã bị lộ". Tiếng động là do nạn nhân la hét gây nên. Ambrose đề nghị
rút lui nhưng bị các toán viên khác bác bỏ, họ muốn tóm bằng được tên
huyện ủy Việt cộng.
Khoảng 15 phút sau, nhóm Biệt hải tới đám
chòi lá trong làng. Tới đây, hai phiên bản chuyện kể của Klann và Kerrey
khác nhau rõ rệt. Kerrey kể rằng họ đã bị tấn công và toán biệt hải bắn
trả từ khoảng cách 100m hay xa hơn thế. Nhưng Klann lại kể: toán đã tập
trung những phụ nữ và trẻ em ở giữa làng, tra hỏi về hành tung của tên
huyện ủy, vì cuộc lục soát sơ bộ các chòi không tìm thấy gì.
Klann nhớ lại, toán Biệt hải thực ra đang ở trong tình thế cực kỳ nguy
hiểm, hơn là các tù nhân đang bị giữ kia. Toán đang ở sâu trong lãnh thổ
địch, trong tay là 15 tù nhân mà toán không thể mang theo. "Chúng tôi
có rất ít hy vọng thoát ra an toàn". Klenn kể, nhóm bàn các kế hoạch và
quyết định "thủ tiêu nhân chứng, rút lui". Cô Lãnh kể lại, lúc đó cô nấp
gần đó, đang kiểm tra xem các con mình có an toàn không, và đủ gần để
chứng kiến vụ tàn sát. Klann cho biết Kerrey ra lệnh khai hỏa. Cả nhóm
đứng ở khoảng cách 6-10m và xả các loại súng tự động chừng 30 giây. Họ
nghe tiếng rên, nên lại tiếp tục bắn thêm 30 giây nữa.
Klann kể
tiếp, cuối cùng chỉ còn lại tiếng khóc của một đứa bé. "Đứa bé là người
cuối cùng còn sống". Ông lau nước mắt kể tiếp: "Máu và thịt tung toé
khắp nơi". Nhưng Klann không nhớ được ai là người đã bắn, đoạn sau giống
như lời kể của Kerrey và trong báo cáo hành quân. Toán Seals rút lui
ngay sau đó.
Sự mâu thuẫn trong hồi ức của Klann là: theo như lời
kể thì vì sợ bị lộ nên họ đã tập trung và giết hết dân làng. Nhưng
chính hành động xả súng hàng loạt như thế đã tố cáo sự hiện diện của
toán Seals, và càng khiến họ khó thể rút lui yên lành. Khó hiểu hơn, vì
trước đó 2 tuần, toán Seals đã từng đến đây và điều tra dân chúng, rồi
rút lui mà không bị gì; tại sao lần này họ lại "do sợ bị lộ nên phải thủ
tiêu những người bị bắt"?
Chuyện kể của Klann cũng cho lý giải
về hành động của nhóm Seals. Có thể lần trước chỉ là đến điều tra rồi
rút lui nên an toàn; nhưng lần này thì vì đã giết người ở chòi lá đầu
tiên, do sợ có nhân chứng về việc đó nên họ phải thủ tiêu hết. Lý luận
của Klann: "Chúng tôi đã tự đưa mình vào tình huống nguy hiểm khi đã
giết những người ở chòi lá".
Trong một cuộc phỏng vấn sau này,
Ambrose một mực phản đối góc kể của Klann về việc quây gom dân chúng và
tàn sát họ. Mặc dù ký ức về câu chuyện đã nhạt, nhưng ông kể lại: sau
khi xông vào một chòi lá và phát hiện ra toàn đàn bà, "bọn tôi lãnh
nguyên tràng đạn từ phía sau, chỗ Knepper và Peterson đứng. Ai đó la lên
là đã bị tấn công. Khi bị bắn, bọn tôi bắn trả ngay tức thì". Sau đó,
mọi việc hỗn loạn. "Mọi việc nháo nhào khi súng nổ, lúc đó chúng tôi chỉ
bắn theo phản ứng sinh tồn. Trời tối đen, chỉ thấy bóng đen mờ mờ,
không thể phân biệt nam hay nữ". Cuộc chạm súng xảy ra chỉ ở khoảng cách
20-50m. Khi tiếng súng im, chỉ thấy xác của phụ nữ và trẻ em.
Sau khi toán Seals được bốc ra khỏi Thạnh Phong, thuyền trưởng William
Garlow lái chiếc canô với trưởng toán Seals (Kerrey) cùng lên máy truyền
tin báo cáo về Bộ chỉ huy ở Cát Lở. Trong đó, nhóm Seals chỉ đơn giản
báo cáo là đã tiêu diệt 21 Việt cộng, không nhắc gì tới dân chúng.
Tài liệu quân sự tìm thấy sau này là cuộc điện đàm lúc 8pm ngày
27/02/1969: "Lưu ý, một ông già từ Thạnh Phong đến gặp quận trưởng, yêu
cầu trừng phạt về một vụ giết chóc đêm 25 và 26/02/1969". Theo lời kể,
có 24 người bị giết tại Thạnh Phong, ngoại trừ 13 người gồm 12 phụ nữ
trẻ em và 1 ông già, số còn lại 11 người không nhận diện được, mặc định
là Việt cộng. Navy Seals đang hoạt động trong vùng, đang điều tra". Đây
chỉ là một điện báo, không phải báo cáo hành quân, cho nên con số người
chết có thể không chính xác.
Connolly, chỉ huy chiến dịch tại
Trung tâm Cát Lở đã giải trình về cuộc điều tra của quân đội, việc bắn
nhầm dân thường trong đêm là không tránh khỏi, vì trong bóng tối không
thể phân biệt là dân hay địch. Tuy nhiên ông cũng thêm là chưa bao giờ
trực tiếp nói chuyện này với Kerrey.
LỖI LẦM, TRẢ GIÁ
9
tháng sau, lại xảy ra vụ Mỹ Lai với 350 người bị giết. Đại úy William
Calley bị tố cáo đã giết 22 thường dân tay không vũ khí, bị xử tù chung
thân. Mỹ Lai là gáo nước lạnh tạt vào chính sách can thiệp quân sự của
Mỹ ở Việt Nam, chỉ chứng tỏ cuộc chiến là vô ích, không thể thắng.
Vào tháng 2/1970, chừng một năm sau vụ Thạnh Phong, 5 Thủy quân Lục
chiến Mỹ trong một cuộc tuần tra ở thôn Sơn Thắng, cách phía Nam Đà Nẵng
30km, đã bắn chết 16 phụ nữ và trẻ em. 2 người trong số bị truy tố (gồm
cả sĩ quan chỉ huy) đã được tha bổng, buộc giải ngũ, số còn lại lãnh
khoảng 10 tháng tù.
Quân lệnh rõ ràng, tiêu biểu là trong "Chính
sách quân sự Mỹ trong chiến tranh" ghi rằng: "Một chỉ huy không được
phép giết tù binh vì lý do tù binh cản trở việc hành quân, hay do làm
yếu đi khả năng chiến đấu vì phải cắt người canh gác, hay vì những tù
binh đó ăn bớt thực phẩm của đơn vị, hay vì họ sắp được địch quân giải
cứu. Do vậy, không được giết tù binh nhằm bảo vệ an toàn cho mình, ngay
cả trong chiến dịch nhảy dù hay đột kích địch, cho dù điều này gây khó
khăn cho việc canh giữ tù binh".
Kerrey, trong phỏng vấn, khi trả
lời câu hỏi: "Phải chăng nhóm Biệt hải đã sử dụng những quy tắc của
chiến tranh bí mật, hay họ là tội phạm?" Ông cho biết: "Hãy để bọn họ tự
phán xét là về quân sự hay đạo đức. Hãy để bọn đó tự tìm, vụ này chỉ là
một trường hợp đã xảy ra".
Kerrey nhấn mạnh, dù ở góc nhìn nào
thì những hành động của toán Biệt hải cũng đã được cho phép với quy định
chiến tranh thời đó: "Nếu bắn bỏ tốt hơn bắt sống, chúng tôi được phép
tiêu diệt mục tiêu". Trong cuộc phỏng vấn này, Kerrey nói thẳng thừng:
“Chúng tôi được chỉ thị: không mang theo tù binh".
Tiêu chuẩn
chiến tranh, phải hiểu rằng bất cứ ai trong vùng "oanh tạc tự do" đều là
"địch quân" và sẽ bị bắn bỏ. Kerrey kể, thượng cấp ra lệnh "phải tiêu
diệt tất cả các chòi và cả người trong đó". Nhưng Hoffmann (chỉ huy
chiến dịch) nói rằng ông không ra lệnh giết đàn bà trẻ em; song ông cũng
thêm là không cách gì phân biệt được dân thường hay chiến binh. Kerrey
cũng nhấn mạnh: "Hãy nhìn những tên họ khắc trên bức tường Việt Nam
(Vietnam Memorial in Washington), nhiều người có tên trên đó vì đã không
nhận ra rằng một phụ nữ hay đứa trẻ cũng có thể giấu khẩu súng trong
người".
Kerrey cũng cho thấy sự khó khăn của trưởng toán Seals
phải đối diện trong chiến dịch. Trách nhiệm đầu tiên của chỉ huy là sự
an toàn của cả nhóm. "Với 7 chiến binh, nếu chỉ một người bị thương phải
cáng theo, có thể sẽ dẫn đến sự thiệt mạng cả nhóm".
Chính những
sự việc xảy ra trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến trận đánh quyết
định cuối cùng của Kerrey. Mọi chuyện sai lầm ngay từ đầu vì Kerrey đã
quyết tâm né tránh tình huống phải lựa chọn giữa việc phải lựa chọn bắn
bỏ hay bắt giữ tù binh. Vào ngày 14/03/1969, nhóm Biệt hải nhận lệnh đột
kích bắt cóc nhằm vào một đơn vị Việt cộng tại Hòn Tằm, Cam Ranh. Thận
trọng, Kerrey ra lệnh cho toán chỉ bắt giữ chứ không được giết những ai
họ chạm trán. Sau những khó khăn khi trèo vượt qua khu vách đá gần như
thẳng đứng cao khoảng 100m, nhóm Biệt hải chuẩn bị tấn công. Việt cộng
phát hiện ra họ và đã khai hỏa dữ dội. Trong mù mịt khói súng, một trái
lựu đạn phát nổ ngay dưới chân Kerrey.
Y tá của toán, Lloyd
Schreier, cố gắng băng bó cho Kerrey và bơm tối đa morphine nhằm chống
kích ngất. Sau đó trực thăng tải thương đưa Kerrey về Quân y viện 26 tại
Cam Ranh, rồi chuyển qua Quân y viện Hải quân tại Philadelphia. Kerrey
tỉnh dậy với chân phải cưa đến đầu gối...
Nguồn: http://www.nytimes.com/2001/04/25/magazine/25KERREY.html…