Bóng anh hùng
Truyện ngắn của DOÃN DŨNG Đúng là tôi đã chết. Tôi đã thành con ma trên núi. Mẹ tôi nhận được giấy báo tử ở nhà, trong giấy ghi rõ tôi đã “hy sinh vì Tổ Quốc”.
Nhưng tôi thì luôn nghĩ rằng tôi đã chết vì mẹ mình. Chính mẹ đã đưa tôi đến thế giới lạ lùng này.
Xin các bạn chớ hoảng sợ. Người chết không hại được
người sống. Người chết chẳng qua là người sống được chuyển đến thế giới
khác, cũng có tình cảm và suy nghĩ như người trên trần gian. Sợi dây
liên lạc giữa hai thế giới được thông qua một người có khả năng hiểu
ngôn ngữ của người chết, như tay nhà văn này chẳng hạn. Hắn nghe tôi kể
chuyện và chép lại bằng thứ ngôn ngữ các bạn vẫn hay dùng. Tuy vậy, nếu
tình cờ đọc được câu chuyện này mà các bạn không tin thì cũng chẳng sao.
Thường vẫn có quá nhiều câu chuyện được người ta kể như thật, nhưng
thực ra chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Đã nhiều năm tôi không về thăm nhà, nơi trước đây tôi
đã từng sống cùng mẹ. Đừng tưởng người chết rồi là hết, là chẳng còn gì
để mà bận tâm. Nghĩ như vậy là sai lầm! Người chết vẫn về thăm nhà vào
những dịp lễ tết, nhất là ngày giỗ của mình. Thằng Quý hằng năm vẫn sửa
soạn ba lô về quê ăn giỗ mình, háo hức cứ như hồi còn sống được đi tranh
thủ sau đợt bắn đạn thật đạt điểm cao.
Căn hộ của mẹ tôi bé xíu, không có nhà xí riêng, ở trên
tầng năm của khu tập thể. Hồi còn bé, nửa đêm phải đi xuyên qua dãy
hành lang lạnh lẽo hun hút gió, tối như hũ nút để đến được cái nhà xí
dùng chung của mấy hộ gia đình là nỗi kinh hoàng của tôi. Không phải lần
nào tôi cũng đến được đích an toàn, mà thường xuyên tè dầm dọc đường vì
sợ ma. Tôi ao ước có một cái bô nhưng mẹ không mua. Mẹ bảo muốn rèn
luyện tôi thành một người đàn ông mạnh mẽ.
Mẹ làm công tác xã hội ở phường. Hình như ở hội phụ nữa
gì đó. Ban ngày mẹ đi họp, tối đến các gia đình tuyên truyền về sinh đẻ
có kế hoạch, về chính sách mới hoặc bài trừ mê tín dị đoan. Mẹ rất bận.
Nhà chỉ có hai mẹ con, bố hy sinh ở chiến trường B. Hồi
đầu chỉ được báo là mất tích. Mãi chẳng thấy ông về, sau giải phóng
người ta làm lễ truy điệu liệt sỹ cho ông. Đến ngày tôi nhập ngũ, mẹ tôi
vẫn chưa biết mộ ông nằm chính xác ở đâu.
Một ngày cuối hè, cái ngày mà tôi nhận được tin trượt
đại học, mẹ đi làm về gọi tôi lại, bảo: “Thắng này, mẹ đăng ký cho con
nhập ngũ đợt này”. Tôi ngơ ngác: “Nhà mình thuộc diện chính sách. Sao
con phải đi?” Mẹ mở túi, lấy ra một tập tài liệu đánh máy, mắt vẫn dõi
theo những dòng chữ, mồm thủng thẳng: “Ở nhà lêu lổng rồi lại hư mất”.
Tôi năn nỉ: “Mẹ cho con thi đại học một năm nữa”. Mẹ vẫn cắm cúi với
đống giấy tờ, lạnh lùng nhắc lại: “Mẹ đã đăng ký cho con rồi”.
Tôi biết tính mẹ. Mẹ đã phải thay bố vật lộn nuôi tôi,
cuộc sống và công việc bắt bà phải hà khắc với chính bản thân mình và
con cái. Tôi lại là thằng nhút nhát, từ bé chưa bao giờ dám cãi lời mẹ.
Tôi ngậm ngùi chấp nhận sự sắp đặt của bà.
Trước ngày nhập ngũ, phường tổ chức một buổi mít tinh
tiễn đưa tân binh lên đường. Mẹ cùng hội phụ nữ tặng quà cho chiến sỹ.
Mỗi người được hai cái khăn mặt bông và hai tuýp thuốc đánh răng Bông
Lan cứng như đất đồi. Khi trao quà cho tôi, mẹ giơ tay ra bắt, lắc lắc
mấy cái, nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng rất quan cách: “Chúc đồng chí
chân cứng đá mềm, hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”. Tôi không dám
nhìn mẹ, tôi cúi đầu xuống lí nhí câu cảm ơn. Tôi thấy mẹ xa lạ vô cùng!
Hôm sau tôi lên đường. Sân vận động gần nhà, nơi tôi
vẫn đá bóng buổi chiều, chật ních tân binh và người thân đưa tiễn. Đơn
vị về lấy quân mang theo rất nhiều vệ binh. Người ta đọc tên và từng
người bước lên xe trong vòng tròn mà đám vệ binh đứng làm hàng rào.
Những chàng trai ngày thường đá bóng vẫn hùng hổ bắt nạt tôi, bỗng mềm
yếu một cách kỳ lạ, thò đầu qua cửa xe, nức nở khóc.
Mẹ không đưa tiễn tôi. Sáng hôm ấy mẹ bận việc, bà phải
đi hòa giải cho một đôi vợ chồng muốn ly dị. Tôi rất muốn mẹ có mặt ở
đây, vào lúc này.
* * *
Cái hang Giời Đánh là nhà của tôi và Quý. Thực ra trước
đây nó không có tên, hoặc có tên mà chúng tôi không biết. Lính tráng
đặt tên cho cái hang này sau cái chết của chúng tôi.
Hồi ấy đơn vị tôi nhận nhiệm vụ tái chiếm một số điểm
cao trong dãy núi đá vôi của mặt trận. Chỉ huy đã cho tập kết một lượng
thuốc nổ khá lớn trong hang để phục vụ công tác chiến đấu. Quý là chiến
sỹ bám trụ trên hang trước tôi. Tôi mới được điều lên sau vụ trốn đơn vị
về ăn Tết. Nếu so với cánh lính trận nói chung, thì công việc coi kho
này thật an toàn và nhàn hạ. Ban ngày chúng tôi ngủ, tối thức nhận hàng
của cánh vận tải gùi lên. Địa hình ở đây hiểm trở và ngay sát nách địch,
nên cánh vận tải chỉ có thể hoạt động vào ban đêm.
Cái hang này không lớn, rộng độ vài mét và sâu hơn hai
chục mét. Trên vòm hang, nhũ đá tua tủa chĩa xuống như những tấm sừng
lọc thức ăn của con cá voi khổng lồ. Trong cùng hang có một ngách nhỏ
bằng phẳng như lát bằng phiến đá to. Lòng hang rộng chúng tôi dùng làm
kho, còn cái ngách nhỏ để ngủ.
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mười bốn tháng giêng,
trời lạnh và mưa phùn. Đêm hôm trước chúng tôi nhận được một chuyến hàng
lớn, cánh vận tải đông và hối hả hơn mọi khi. Những thùng gỗ thông màu
xanh xếp chật lối đi. Sau khi kiểm đếm vào sổ sách xong thì trời sáng,
chúng tôi chui vào ngách hang bắt đầu ngủ. Pháo địch bắn mạnh và nhiều
hơn mọi hôm, tôi nghe thấy từng chặp, nổ từng loạt dài rền rền không
dứt. Mạnh đến mức chúng tôi cảm nhận rõ sự rung rung chấn động của vách
hang.
Ấy vậy mà chỉ năm phút sau chúng tôi chết, bất đắc kỳ
tử như bị giời đánh. Cái chết không anh dũng, cũng chẳng hèn nhát nhưng
lại nhạt toẹt. Một khối nhũ đá to hơn cột đình đã bị đứt chân do chấn
động của cơn mưa đạn pháo, rơi thẳng xuống kích nổ đống vũ khí đạn dược
bên dưới. Khối lửa bùng lên, tôi và Quý bị ép chết ngay lập tức. Ngách
hang bị đá vùi kín mít. Lòng hang nóng bỏng, khói lửa quánh đặc như
trong lò bát quái.
Vụ nổ khiến lòng hang biến dạng, vách hang rộng ra, vòm
hang trơn tuột chẳng còn lấy một thanh nhũ đá, cứ như thể đứng trong
một quả trứng khổíng lồ vậy.
Chúng tôi sang thế giới bên kia nhanh quá, chỉ trong
nháy mắt, không từ từ, không hấp hối. Tim thôi đập và não ngừng hoạt
động đến rụp một cái như tắt công tắc điện. Hồn tôi và Quý lìa khỏi xác,
bật dậy nhìn nhau, rồi nhìn hai cái xác nát bét ri rỉ máu chảy của mình
đang bị đá vùi lấp. Cả hai thằng đều không tin là thể xác mình đã chết,
mình đã thành ma. Chúng tôi nhập lại vào xác, cố gắng lắm cũng không
khiến được cái xác ấy cử động. Lạ thật! Vẫn thấy mình như đang sống,
không chút đau đớn và có thể đi và nhìn xuyên qua vách núi.
Vậy là tôi đã thành ma. Ở những quả núi gần đó còn
nhiều con ma khác, chúng đang ngủ. Ngày của dương gian là đêm của ma.
Hai thằng chúng tôi chợt buồn ngủ rũ mắt, lục tục kéo nhau vào cái ngách
hang đã bị bịt kín để tiếp tục giấc ngủ vừa bị cướp mất.
Ngủ một trận no mắt thì cánh vận tải mò lên. Mọi ngày
giờ này cũng phải dậy để còn nhận hàng. Hôm nay cánh vận tải không gùi
không khiêng gì cả, họ chỉ có đòn tre và võng, công cụ để vận chuyển
thương binh tử sỹ. Họ lên tìm xác chúng tôi.
Một tay đứng trên đống đá vỡ vụn, soi đèn pin nhìn vòm hang nhẵn thín, thở dài: “Còn cái gì đâu, thành tro bụi cả rồi”.
Hai thằng chúng tôi thấy vậy gào toáng lên: “Ở đây,
chúng tao ở đây”. Chúng tôi lồng lộn tìm mọi cách để báo hiệu nhưng
người dương không nghe được tiếng người âm. Đám ấy như điếc lác cả một
lũ với nhau. Chúng nhìn ngó một chặp, lấy đòn tre bới bới chọc chọc mấy
cái rồi lắc đầu ngao ngán bỏ về.
* * *
Chết rồi tôi vẫn không nguôi giận mẹ.
Chỉ hai tuần trước đấy, mười giờ tối đêm ba mươi Tết
tôi bò về đến nhà sau một chặng đường dài trốn tránh lực lượng kiểm soát
quân sự. Mẹ đang làm cơm cúng tất niên, ngẩng lên thấy tôi lù lù đứng
giữa nhà. Mẹ lạnh lùng hỏi: “Bỏ ngũ hả?” Tôi im lặng, không dám trả lời
mà nhìn lên bàn thờ cầu cứu bố tôi. Trên ấy, khói hương nghi ngút, ánh
mắt bố như hư ảo, không ấm cúng mà cũng chẳng ra lạnh lùng.
Tôi lăn ra ngủ vì mệt.
Pháo giao thừa nhà hàng xóm đã nổ. Hé mắt thấy mẹ đang
lui cui đứng trên chiếc ghế đẩu treo bánh pháo ngoài cửa. Tôi định dậy
thì đã thấy mẹ xòe diêm. Tiếng pháo ròn rã nổ váng óc. Ánh lửa lập lòe
trong mắt mẹ.
Tôi quay lưng lại, trùm chăn lên đầu và ngủ tiếp. Mùng một, mẹ không nỡ mắng đâu mà lo.
Khoảng bốn giờ sáng, mẹ lay tôi: “Thắng, dậy đi cho
sớm”. Tôi nhỏm dậy, giọng ngái ngủ hỏi lại: “Đi đâu hả mẹ?” Mẹ quàng cái
khăn len lên đầu, thít mạnh một cái đầy vẻ cương quyết, nói: “Về đơn
vị, mẹ sẽ đi cùng con”. Nói xong mẹ đứng lên, buộc túi bánh và con gà
cúng lên ghi đông xe đạp. Trong lòng ấm ức vô cùng nhưng tôi không dám
trái lệnh mẹ.
Đường phố Hà Nội sớm mùng một vắng tanh, phủ dày một
lớp xác pháo. Thảng hoặc mới gặp một đôi trai gái đi chơi giao thừa về
muộn trên chiếc xe Cub nổ pành pành. Cô gái ngồi sau thò tay vào túi áo
khoác của bạn trai, ôm chặt, đầu giụi vào vai co ro vì rét. Mùi sương
mai, mùi hương trầm, mùi thuốc pháo quyện vào nhau ngan ngát hăng hắc,
ra mùi của Tết.
Hai mẹ con đèo nhau ra bến Nứa tìm xe khách với hy vọng
mong manh. Những chiếc xe im lìm đỗ trong bóng đêm. Bến xe vắng lặng
không một bóng người. Không tiếng rao đêm, không kẻ nhỡ độ đường, không
cảnh chen lấn xô đẩy leo lên xe. Mẹ chạy đôn chạy đáo rút cục cũng tìm
được người bảo vệ bến xe để hỏi. Kết quả như đã được đoán: không còn
chuyến xe nào.
Mẹ đi ra, tóm lấy ghi đông xe từ tay tôi, lắc lắc mấy
cái, rồi lại kéo lên dậm xuống như muốn kiểm tra độ chắc chắn của chiếc
xe cà khổ. Mẹ nói: “Đi bằng xe đạp. Hai mẹ con mình thay nhau cho đỡ
mệt”.
Nói thế nhưng mẹ lại đạp xe hướng vào thành phố. Tôi
ngồi sau, hồ nghi: “Đi đâu thế mẹ?” Mẹ dứt khoát: “Lên đơn vị”. Tôi bảo:
“Đây là đường về nhà”. Mẹ tôi như sực tỉnh, hấp tấp quay đầu, đổ xe.
Tôi nhìn thấy ánh đèn đường phản chiếu trên gò má mẹ, trong một giọt
nước đang lăn xuống.
Gió bấc lùa hơi nước từ dưới dòng sông lên lạnh buốt.
Gió quất vào thành cầu ù ù. Tiếng quèn quẹt đều đặn của xích xe cọ vào
gácđờxen cộng với tiếng rin rít của đôi pêđan khô dầu vang lên trong đêm
tối mịt mùng nghe như tiếng ma hờn. Mẹ con tôi lùi lũi đạp xe vượt sông
Hồng. Lúc này tôi mới khóc, vì giận mẹ hay thương mẹ? Có lẽ là cả hai.
Sao mẹ không cho con ở lại ăn Tết rồi con sẽ đi. Con muốn ở nhà với mẹ.
Cứ kỳ cạch đạp xe như thế đến gần trưa thì tôi nghe
thấy tiếng động cơ ì ì từ phía sau. Mẹ nhảy phắt xuống, đứng giữa đường
quơ quơ tay chặn xe xin đi nhờ. Đó là chiếc xe Zil 130 mang biển quân
sự, chở nhu yếu phẩm cho chiến sỹ trên biên giới. Tay lái xe hơn tôi vài
tuổi, quân phục nhầu nhĩ, cẩu thả. Sau khi nghe mẹ tôi trình bày lý do,
hắn cười ngất và đồng ý ngay tắp lự. Hắn giúp tôi treo chiếc xe đạp lên
đằng sau thùng xe, buộc cố định lại. Xong hắn nháy mắt cười, châm chọc:
“Ta lại lên đơn vị ăn Tết, hả?”
Đêm hôm ấy mẹ con tôi lên tới đơn vị. Mẹ giao tôi cho
đại đội rồi lên tiểu đoàn thưa chuyện với chỉ huy. Sáng hôm sau mẹ nhất
quyết đòi về, chả ai can được mẹ. Tôi dõi theo dáng mẹ liêu xiêu đạp xe
xa dần cho đến khi mất hẳn. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy mẹ
khi còn sống.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh tăng cường lên hang trông kho thuốc nổ.
* * *
Tắt tiếng súng, cuộc sống ở chỗ chúng tôi cũng thay đổi
dần. Không còn những người bạn mới xuất hiện. Những con ma hàng xóm
cũng dần dần bị đội quy tập phát hiện rồi chuyển đi. Người ta xây một
cái nghĩa trang to như khu đô thị cách đây mấy chục cây số. Xương cốt
nằm đâu thì nhà ở đấy, Quý thỉnh thoảng xuống chơi với anh em rồi lại
về. Tôi cũng kịp hiểu một điều, trong thế giới của chúng tôi, không phải
ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng đến thế giới này bằng cái chết
oanh liệt. Tuy vậy, tất cả đều được đối xử bình đẳng. Có lẽ đó là điều
dễ chịu nhất mà chúng tôi có thể tự hào về thế giới của mình.
Quý về quê ăn giỗ, lên mặc bộ đồ rất lạ, trông như quần
áo của chú rể nhưng mầu lòe loẹt, cổ thắt một cái nơ trông rất Tây. Nó
chạy chiếc xe máy màu mận chín đỗ xịch trước cửa hang, vẫn ngồi trên xe,
lấy gót chân trái gạt chân chống rất điệu nghệ, gọi toáng lên: “Thắng
ơi… Thắng”.
Tôi nhìn Quý không nén được cười. Quý kéo tôi lại chiếc
xe, đẩy tôi ngồi lên rồi bảo: “Chạy thử đi, tiện lắm”. Tôi bảo: “Oách
nhỉ, xe này chắc đời mới. Hồi tao với mày đi lính, nhà giàu mới có cái
xe tám mốt kim vàng giọt lệ”. Quý phấn khích: “Thay đổi lắm, mày không
tưởng tượng được đâu. Nhà tao năm nay khấm khá hơn, các cụ mới đốt cho
tao chiếc xe này”.
Nói rồi Quý thần mặt ra, nhìn tôi bối rối như lỡ lời.
Giọng nó trầm hẳn xuống, gần như là thì thào: “Sao mày không về thăm
nhà?” Tôi không trả lời, chui vào ngách hang nằm. Quý mang cái xe máy
xuống để dưới chân núi, mặc lại bộ quần áo cũ rách te tua, rồi chui vào
nằm cùng tôi. Chẳng ai nói thêm một lời nào.
Thực ra là tôi đã từng về thăm nhà. Quý đi hôm trước thì hôm sau tôi cũng về, đúng hôm giỗ mình.
Tôi về đến nhà khi ấy trời đã tối. Cái hành lang hun
hút năm xưa khiến tôi bật cười, chả có con ma nào ngoài chính tôi. Mẹ
không có nhà. Mâm cơm cúng tôi đã nguội ngắt. Hương cháy rụi đến chân.
Đồ cúng không có tiền vàng, không có quần áo mới. Tôi đang phải mặc
chiếc áo bị hơi nổ xé rách như tổ đỉa nhiều năm nay, cũng thấy chạnh
lòng.
Trong góc nhà, những tuýp thuốc đánh răng và khăn mặt
bông được gói thành những suất quà. Tên thuốc đánh răng lạ hoắc chứ
không phải Bông Lan như thời tôi nhập ngũ. Hình ảnh của mẹ khi bắt tay
trao quà lại hiện về như mới hôm qua. Cơn hờn giận trào lên, tôi không
đợi mẹ nữa, phi một mạch về núi rồi nằm lì trong hang cho đến khi Quý
lên.
* * *
Mẹ lên tìm tôi. Cũng đúng vào dịp Tết xong, tôi nghe
oang oang có giọng người ngoài cửa hang. Cái giọng quen quen, khuôn mặt
của một người đàn ông như đã gặp đâu đó mà không thể nhớ ra. Đi sau là
một người phụ nữ, vất vả trèo lên những bậc đá. Mẹ, đúng là mẹ tôi. Tôi
định ào ra đón mẹ, nhưng nỗi giận hờn lại dìm tôi xuống, khóa chân tay
tôi cứng đờ. Tôi nép vào vách đá như chạy trốn, mặc dù tôi có đứng trước
mặt thì mẹ cũng không thể nhìn thấy tôi.
Người đàn ông kéo mẹ tôi lên miệng hang, chỉ: “Đây cô ạ. Chính là ở cái hang này. Lúc chúng cháu lên, chỉ còn toàn đá vụn”.
Tôi đã nhận ra hắn là ai, chính là tay lính vận tải năm
xưa. Người chết không có tuổi, nhưng người sống thì già đi theo năm
tháng.
Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Mười năm kể từ cái đận mẹ đưa
tôi về đơn vị để rồi tôi chết nhạt toẹt trong cái hang này. Mười năm
khiến mẹ tôi già sụp đi. Tóc mẹ bạc phân nửa. Động tác của mẹ đã chậm
chạp đi rất nhiều, nhưng vẫn dứt khoát mang dáng dấp của một người phụ
nữ mạnh mẽ và quyết đoán.
Mẹ ngồi lặng lẽ thắp hương. Không khóc, không sì sụp khấn vái, mắt nhắm lại như thể hóa thạch. Tôi tấm tức khóc vì vẫn giận mẹ.
Một lúc thì mẹ về. Thằng Quý thấy tôi như vậy cũng không cười nói hi ha như mọi khi, nó đi ra đi vào mà chẳng biết làm gì.
Mấy hôm sau Quý bảo: “Chắc là cả kiếp ma ta ở cái hang
này. Chẳng ai biết trong hang này vẫn còn xương cốt của ta. Mày cứ định
như vậy mãi sao? Ra ngoài cho khuây khỏa rồi về thăm nhà đi. Lấy xe của
tao mà đi cho tiện”.
Tôi nghe lời nó. Đi lại thăm bạn bè, nhưng không về thăm nhà.
Cuối năm ấy mẹ lại lên. Lần này đi rất đông, đủ cả cánh
vận tải đêm xưa lên tìm xác chúng tôi, thêm một tay đại úy ở ban chính
sách của tỉnh đội và một phụ nữ là nhà ngoại cảm.
Người phụ nữ nhắm mắt, lầm bầm cái gì đó trong miệng
rồi bất chợt mở to đôi mắt ra. Tôi nhìn thấy mắt cô ta mầu xanh lục,
sáng quắc như hai cái bóng đèn. Cơ thể của cô ta dần dần biến đổi, những
mạch máu, dây thần kinh trông như búi dây điện. Nội tạng thành những
bảng mạch và bóng đèn nhấp nháy. Cô ta như một cái vô tuyến, hoặc là cái
điện thoại chứ không phải là con người bằng da bằng thịt.
Tôi và Quý ngồi yên một chỗ. Chưa bao giờ chúng tôi gặp
một người kỳ lạ như vậy. Hình như cô ta đã nhìn thấy chúng tôi. Cô
thông báo với mọi người: “Ở đây có hai vong. Trong ngách hang đằng kia”.
Mọi người nghe vậy nháo nhác.
Cô ta hỏi tôi và Quý:
- Hai vong tên gì?
Tôi bảo:
- Nguyễn Quyết Thắng – Tôi chỉ sang Quý – Còn thằng này là Nguyễn Đình Quý.
Thằng Quý mắt tròn vo, mồm dẩu ra vì ngạc nhiên, sợ rúm lại chẳng nói được câu nào.
Cô ta dịch lại lời của chúng tôi cho mọi người nghe. Mẹ
tôi khuỵu xuống bất tỉnh. Tay đại úy giở sổ ra đọc gì đó, trời lạnh mà
mồ hôi vã ra như tắm, gật đầu lia lịa: “Đúng rồi, đúng rồi”.
Họ bắt đầu đào bới cái ngách hang bị vùi lấp hơn chục
năm. Một lúc sau thì mẹ tôi tỉnh. Mẹ gào lên: “Thắng ơi. Con ở đâu?” Tôi
nói dỗi: “Con không về đâu”. Mẹ lao vào đống đá, dùng tay cào đá bật cả
máu tươi. Mẹ khóc. Lần thứ hai tôi nhìn thấy nước mắt mẹ. Lần đầu lúc
mẹ đánh đổ xe sớm mùng một Tết năm nào. Nhưng khóc thành tiếng thế này
thì bây giờ mới thấy. Mẹ nức nở, không ngớt điệp khúc: “Con không về, mẹ
chết không nhắm được mắt”. Khuôn mặt bà đau đớn, co rúm lại, toàn thân
run bần bật khiến tôi thấy mình thật tàn ác.
Ánh sáng từ mắt của người phụ nữ ngoại cảm đã tắt. Búi
dây điện lại trở thành mạch máu và dây thần kinh. Người ta không duy trì
trạng thái này được lâu vì rất mệt. Cô ta trở về như những người bình
thường và không thể nghe được chúng tôi nữa.
Mẹ ngồi bệt xuống nền đá lạnh, tựa lưng vào vách hang,
đầu ngoẹo sang một bên, thẫn thờ. Tôi ngồi bên cạnh, ngả hẳn vào mẹ,
luồn tay ôm lưng như thời thơ dại. Hình như mẹ cảm nhận được điều ấy,
quờ quờ tay mấy lần tìm tôi. Mặt mẹ đã bớt tái, có chút sắc hồng nhưng
đôi mắt vẫn buồn rười rượi, nhìn vô định xa xăm.
Đến trưa thì họ tìm thấy chúng tôi. Mẹ lại ngất khi
nhìn thấy mảnh giấy có dòng chữ tôi viết tên tuổi, quê quán, đơn vị, hàn
kín bằng ny lông rồi đút vào túi áo ngực trước khi lên hang. Mẹ bế từng
khúc xương tôi vào lòng.
Xương cốt của Quý được tỉnh đội chuyển về nghĩa trang
liệt sỹ. Nó về với anh em dưới ấy nên vui ra mặt. Quý định diện bộ quần
áo chú rể cho sang, nhưng người ta lại mặc cho nó bộ quần áo khác, mầu
đỏ có ngôi sao vàng ở ngực. Nó ngắm nghía bộ cánh mới và cũng thấy hài
lòng.
* * *
Mẹ xin cho tôi về quê. Mẹ đã xây căn nhà ba gian trên
quả đồi nhỏ, ở một vùng quê yên bình, nơi trước kia cả cha mẹ tôi từng
sinh ra và lớn lên. Mẹ cũng đã tìm thấy cha và đưa ông về đây. Tôi ở
gian bên trái, cha tôi ở gian bên phải. Gian giữa đóng khóa im ỉm. Trong
buồng của tôi, mẹ đặt một cái bô tráng men trắng toát. Mẹ vẫn nhớ mong
ước của tôi thiếu thời.
Cha không già hơn tôi là bao nhiêu. Khi ông chết cũng
mới chỉ ngoài hai mươi tuổi. Cha nhìn tôi, vỗ vỗ lên vai bảo: “Cha rất
hiểu con”. Tôi không biết cha hiểu gì. Khi còn sống, chưa bao giờ tôi
được gặp cha. Như đoán được sự nghi hoặc trong ánh mắt tôi. Cha trầm
ngâm, giọng buồn buồn: “Đừng giận mẹ”. Ánh mắt cha lúc này khác hẳn,
nồng ấm yêu thương chứ không hờ hững như trên bức ảnh năm xưa.
Hai cha con nằm ngắm bầu trời dày đặc sao. Có những
ngôi sao sáng quắc, có những ngôi sao lập lòe như sắp tắt, còn cả những
ngôi sao đã tắt mà mắt ma không nhìn thấy, như thể chúng cũng là những
thân phận ở một thế giới khác nữa.
Một thời gian sau thì mẹ tôi mất. Tôi không bao giờ
biết chính xác lý do gì khiến mẹ chết. Đó là bí mật của riêng mẹ. Cha
con tôi đón mẹ về căn buồng giữa.
Mẹ vồ lấy tôi. Chỉ khóc.
Hôm ấy cũng là mười bốn tháng giêng, trời lạnh căm căm và mưa phùn ẩm ướt.
__________
"Bóng anh hùng" khốn khổ bởi kiểu đọc quy chụp
NHÓM PHÓNG VIÊN VHVN | 20/03/2013 07:33 (GMT + 7)
TT - Dù đã đăng trên các báo trung ương và được
in thành sách, nhưng khi truyện ngắn Bóng anh hùng được đăng lại trên
báo Phú Yên đã bị một số người cho là tác phẩm độc hại, phản động, khiến
ban biên tập báo này phải kiểm điểm.
Ngày 19-3, ông Phạm Ngọc Phi - tổng biên tập báo Phú Yên
- cho biết sau cuộc kiểm điểm (ngày 14-3), ông và ban biên tập đang chờ
phán quyết của cấp trên về việc có bị kỷ luật hay không.
Độc hại, phản động?
Bóng anh hùng (*)
- truyện ngắn của Doãn Dũng - là tự sự về người mẹ, về gia đình và hậu
phương của một người lính ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới
phía Bắc. Truyện đăng trên tuần báo Văn Nghệ (cơ quan Hội Nhà văn VN) số ra ngày 8-8-2009, đăng trên báo Ðại Biểu Nhân Dân
(cơ quan ngôn luận của Văn phòng Quốc hội) số 55 ngày 24-2-2010 và sau
đó được in trong tập truyện ngắn cùng tên của tác giả do Nhà xuất bản
Thời Ðại ấn hành (tháng 10-2012). Truyện này được in lại trên báo Phú Yên cuối tháng 9 và 10-2012.
Ngay sau khi đăng trên báo Phú Yên,
thường trực Tỉnh ủy Phú Yên nhận được nhiều ý kiến, đơn thư của các ông
Vũ Văn Thoại - nguyên trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên, Nguyễn
Tường Thuật - nguyên chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên và các cán bộ hưu trí,
cựu chiến binh: Trần Hành Chính, Huỳnh Cửu, Nguyễn Tiến Lẫm... có chung
quan điểm cho rằng truyện ngắn Bóng anh hùng là độc hại, phản
động và cần phải xử lý những người cho đăng truyện này lên báo tỉnh.
Ngoài ra, còn có một “Thư gửi tòa soạn báo Phú Yên - phòng bạn đọc và nữ nhà báo Lâm Vy” (người viết bài Doãn Dũng - nhiều người trong một trên báo Phú Yên) ký tên Mẹ Hòa Hiệp - Ðông Hòa, nội dung mỉa mai và mạt sát nhà báo Lâm Vy.
Ban biên tập báo phải giải trình, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy phải giải thích rằng không có cơ sở để nói truyện ngắn Bóng anh hùng
là phản động, song những người có đơn thư vẫn tiếp tục có ý kiến đề
nghị thường trực Tỉnh ủy phải có kết luận về việc cho đăng truyện ngắn
“phản động” này là sai trái và phải kỷ luật ban biên tập báo Phú Yên. Thường trực Tỉnh ủy yêu cầu báo Phú Yên tổ chức buổi đối thoại với những người phản ứng để giải tỏa dư luận.
Về tác giả Doãn Dũng, ông Vũ Văn Thoại chất vấn: “Doãn
Dũng là một anh chàng tốt mã thích cưa gái đẹp có chồng. Sao người ta có
chồng mà đi cưa (trong bài báo Doãn Dũng - nhiều người trong một có đoạn: “Nhân vật của anh (tức nhà văn Doãn Dũng - PV) cũng rất đa dạng: một anh chàng tốt mã thích cưa gái đẹp đã có chồng...”)? Anh cổ xúy cho chuyện phá hoại gia đình. Vậy mà Ban tuyên giáo không biết à?”.
|
Cuộc đối thoại được tổ chức tại phòng họp Tỉnh ủy ngày 19-1-2013 do báo Phú Yên chủ
trì, có sự tham dự của lãnh đạo các cơ quan liên quan, các vị nguyên là
lãnh đạo tỉnh, những người có đơn thư. Tại cuộc họp, ông Vũ Văn Thoại
nhận định: “Một người không còn khả năng nhìn thấy ánh sáng nữa, nhưng
khi con cháu họ đọc tác phẩm Bóng anh hùng thì không ai không
thấy rằng đây là tác phẩm cực kỳ độc hại, cực kỳ phản động. Tui nói hồi
xưa, chiến tranh, nếu đọc cái này thì đem cắt cổ”.
Ông
Thoại yêu cầu: “Tôi đề nghị thường trực, thường vụ Tỉnh ủy phải họp,
phải nghe chúng tôi và phải có kết luận đúng sai. Còn các anh lấy kết
luận ở đâu tùy các anh. Hễ các anh nói đúng là được lòng công luận và
tình hình sẽ yên ổn, còn nếu các anh nói sai thì công luận sẽ tiếp tục.
Ðừng lấy ở đâu đó về áp tụi tui, áp không thấu đâu. Ðừng áp. Ông này ông
kia mặc kệ. Ổng chức tước quyền hành kệ ổng, nhưng mà ổng nói tầm bậy,
nói sai là không chấp nhận. Bởi vì sao? Giấy trắng mực đen con chữ không
ai chối được. Chết “nhạt toẹt” (chữ trong truyện Bóng anh hùng - PV) là gì, không nguy hiểm à?”.
Không đến dự được buổi đối thoại này, nhưng ông Nguyễn Tường Thuật có gửi ý kiến tham gia cho rằng tổng biên tập báo Phú Yên nên
có lời xin lỗi các mẹ VN anh hùng và gia đình liệt sĩ vì cái “bóng anh
hùng” kỳ dị đã làm tổn thương họ và xử lý kỷ luật những người dưới quyền
có liên quan. “Làm như vậy sẽ tốt và sự việc cũng được thu xếp ổn thỏa.
Riêng cá nhân tôi, dù tuổi cao sức yếu vẫn sẵn sàng góp một tiếng nói
vào câu chuyện này trên mọi phương diện... Tôi tin chắc những ai bảo vệ Bóng anh hùng đều không thể đứng vững” - ông Thuật quyết liệt.
Cũng
ngay trong cuộc họp, có những quan điểm không đồng ý với những ý kiến
trên. TS Nguyễn Thành Quang - nguyên bí thư Tỉnh ủy Phú Yên - cho rằng
cốt truyện Bóng anh hùng cảm động, đọc xúc động. “Tôi có nghe báo này báo kia đăng không sao, nhưng báo Phú Yên đăng
thì bị quở trách. Tôi không phán xét rằng chuyện đó đúng hay sai nhưng
với tư cách là một độc giả, nhận thức, cảm nhận tác phẩm này, tôi thấy
trong truyện người mẹ không tự xưng là anh hùng mà chính người đọc tôn
vinh bà mẹ là một bà mẹ anh hùng chứ không có gì phỉ báng cả” - ông
Quang nhận định.
Ông
Huỳnh Như Ngân - phó giám đốc Sở Thông tin - truyền thông Phú Yên - nói
rằng lúc đầu đọc truyện thấy ám ảnh khó chịu, nhưng càng đọc thì thấy
tính nhân văn của tác phẩm. “Tính nhân văn ở chỗ mọi bà mẹ, mọi người
cha, người anh có người thân hi sinh đều mong muốn cuối cùng người thân
mình có mồ yên mả đẹp, nếu không tìm được là nỗi băn khoăn day dứt” -
ông Ngân phân tích.
Không sai phạm về nội dung
Sau
cuộc đối thoại, ngày 6-3-2013 Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên có công
văn truyền đạt thông báo kết luận của thường trực Tỉnh ủy xử lý việc
duyệt, đăng các truyện ngắn, bài viết gây dư luận không tốt trên báo Phú Yên, trong đó có truyện ngắn Bóng anh hùng và giao Ban tuyên giáo chủ trì cuộc kiểm điểm. Tại cuộc kiểm điểm ngày 14-3, tổng biên tập báo Phú Yên đã
nhận thiếu sót: “Ðây là một tác phẩm tốt, tuy nhiên khi đăng đã không
lường được còn có những phản ứng trái chiều gay gắt của một số độc giả
dẫn đến tạo dư luận không tốt”. Cuộc họp có 100% người bỏ phiếu không áp
dụng hình thức kỷ luật ban biên tập và tổng biên tập.
Phúc đáp công văn ngày 6-3 của Tỉnh ủy Phú Yên về việc cho ý kiến truyện ngắn Bóng anh hùng, công
văn của Ban Tuyên giáo trung ương do ông Nguyễn Thế Kỷ ký ngày 12-3
viết: “Sau khi nghe ý kiến trao đổi của các đơn vị liên quan (Vụ Văn hóa
- văn nghệ, Vụ Báo chí - xuất bản, Hội đồng lý luận phê bình văn học
nghệ thuật trung ương) và cơ quan chuyên môn (Hội Nhà văn VN), Ban Tuyên
giáo trung ương có ý kiến như sau:
“Truyện
ngắn này không có gì đặc biệt và sai phạm về nội dung và hình thức.
Truyện đề cập đến tình yêu của người mẹ, tuy có phần khắc nghiệt nhưng
ẩn giấu trong đó là tình yêu, là ý thức trách nhiệm của một công dân đối
với Tổ quốc.
Một
trong những đặc trưng của tác phẩm văn học là tính hư cấu. Khi đánh giá
xem xét một tác phẩm văn học cần chú ý đến đặc trưng này. Vì thế khi
đọc Bóng anh hùng, cần có thái độ khách quan đánh giá tác phẩm,
đồng cảm với lao động sáng tạo của nhà văn, tránh sự suy diễn chủ đề, tư
tưởng của tác phẩm, hoặc quy kết tác phẩm có nội dung độc hại, phản
động. Ðề nghị Tỉnh ủy Phú Yên chỉ đạo, chủ động xử lý việc trên, ổn định
tình hình tư tưởng trên địa bàn tỉnh liên quan đến truyện ngắn Bóng anh hùng”.
Trước
đó, vụ trưởng Vụ Văn hóa - văn nghệ (Ban Tuyên giáo trung ương) cũng đã
có công văn gửi Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên nêu ý kiến: “Không nên
quy kết tác giả có ẩn ý này khác”.
Dõi theo sự mệt mỏi của báo Phú Yên với truyện ngắn Bóng anh hùng,
nhiều người cầm bút ngán ngẩm và lo ngại không biết bao giờ mới hết
kiểu đọc văn thơ quy chụp như thế này, bởi đây không phải là chuyện lần
đầu xảy ra ở Phú Yên.
Nhà văn Nguyễn Trí Huân - phó chủ tịch Hội Nhà văn VN, tổng biên tập báo Văn Nghệ, tờ báo đã đăng truyện ngắn Bóng anh hùng vào năm 2009 với cái tên Hồi quang - đã ký công văn số 391/CV-BVN ngày 22-12-2012, gửi các cơ quan ở tỉnh Phú Yên, trong đó cho biết: “Khi đăng tải trên báo Văn Nghệ, suốt ba năm qua chúng tôi không nhận được hồi âm nào phản ảnh tiêu cực về truyện ngắn kể trên.
Theo đánh giá của chúng tôi, truyện ngắn Bóng anh hùng hay Hồi quang là
một truyện ngắn có chất lượng. Tác giả đã cố gắng thoát khỏi cách viết
khuôn sáo quen thuộc để đề cập, ca ngợi phẩm chất của một người mẹ yêu
con, thương con, nhưng cao hơn cả là tình yêu Tổ quốc, trách nhiệm đối
với Tổ quốc. Và tình yêu có vẻ khắc nghiệt của người mẹ đã đánh thức ý
thức của người con, hóa giải dần những hiểu lầm của người con đối với
mẹ. Một truyện ngắn cảm động, mới mẻ khi đề cập đến chiến tranh cũng như
văn học viết về chiến tranh. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên khi một số
cán bộ hưu trí, cựu chiến binh có cách đánh giá nặng nề, không thỏa đáng
về truyện ngắn này”.
|
Trọng một cách viết, trách một cách đọc
NGUYỄN THẾ THANH | 22/03/2013 09:48 (GMT + 7)
Nguồn: Tuoitre
NGUYỄN THẾ THANH | 22/03/2013 09:48 (GMT + 7)
TT - Tôi đọc truyện ngắn Bóng anh hùng của Doãn Dũng muộn hơn rất nhiều người, vào một buổi trưa công sở yên ắng.
Câu chuyện của một hồn ma chiến binh còn rất trẻ, lại
là đứa con duy nhất của một gia đình liệt sĩ, đã lay động mạnh trái tim
tôi và kéo tôi đi một mạch đến dòng cuối cùng. Không một chi tiết nào
của truyện gợi lên “sự khinh miệt”, “sự phỉ báng”, “sự đớn hèn”.
Tràn ngập trong từng trang truyện là niềm xúc động về
cách thể hiện tình yêu mà người mẹ và cũng là người vợ liệt sĩ dành cho
con trai duy nhất của mình: kiên quyết đưa con nhập ngũ, kiên quyết đưa
con trở lại đơn vị vào mùng 1 tết để không vi phạm điều lệnh quân đội,
kiên quyết đi làm nhiệm vụ thăm tết các gia đình chính sách vào đúng
ngày giỗ con.
Tưởng như tình yêu ấy quá “gỗ đá” nếu như không có các
chi tiết truyện lay siết trái tim người đọc đến rơi nước mắt, như chi
tiết người mẹ quyết liệt dùng xe đạp chở con trở lại đơn vị vào sáng sớm
mùng 1 tết, nhưng khi lên xe thì hướng mà bà đạp tới lại là hướng ngôi
nhà của mình, chỉ đến khi con trai nhắc bà mới sực tỉnh quay đầu xe!
Thì ra tận đáy lòng người mẹ “gỗ đá” ấy, quán tính
thông thường vẫn là nỗi khát khao được cùng con đón tết tại căn nhà vốn
đã quanh năm hiu quạnh bóng chồng, bóng con.
Hay như chi tiết này nữa: khi đồng đội tìm thấy hài cốt
của con trai trong cái hang mà anh đã ngã xuống “Mẹ ngất đi khi nhìn
thấy mảnh giấy có dòng chữ tôi viết tên tuổi, quê quán, đơn vị hàn kín
bằng nilông rồi đút vào túi áo ngực trước khi lên hang. Mẹ bế từng khúc
xương tôi vào lòng”. Không còn được bế con vì nó đã chết trong khi làm
nhiệm vụ vì Tổ quốc thì người mẹ ấy bế những gì còn lại của đứa con bà
đã dứt ruột sinh ra.
Trong trái tim người mẹ, không có sự hi sinh nào là
“nhạt toẹt” khi đứa con biết rời mái nhà ấm cúng, thân thuộc của mình để
đi về hướng Tổ quốc cần.
Và tận đáy lòng, chẳng người mẹ nào lại cần danh hiệu này khác hơn chính đứa con sống cạnh mình bằng xương bằng thịt.
Nếu không có những bà mẹ vĩ đại như bà mẹ trong truyện
ngắn Bóng anh hùng và hàng triệu bà mẹ khác, nếu như không có những đứa
con biết nghe lời mẹ đi làm nhiệm vụ và mất đi tính mạng vì nhiệm vụ ấy,
đất nước chúng ta sẽ ra sao khi phải đi qua ngần ấy cuộc chiến tranh
giữ nước dai dẳng và ác liệt?
Vậy sao có thể hiểu rằng miêu tả nhân vật người chiến
sĩ trẻ đã hi sinh trong truyện và người mẹ trong truyện là hạ thấp người
lính và hậu phương người lính?
Đọc những thông tin mấy hôm nay trên báo Tuổi Trẻ về
truyện ngắn Bóng anh hùng, tôi càng thấm thía lời tự răn lấy mình khi
còn đương nhiệm công tác quản lý văn hóa.
Làm quản lý văn hóa tức là vừa làm cảnh sát vừa làm bà
đỡ. Làm cảnh sát thì dễ rồi, cái gì sai quy định thì thổi còi. Nhưng làm
bà đỡ thì không dễ chút nào.
Cái đã quen, đã cũ thì cần gì tới sự đỡ đần. Cần đến
vai trò của “bà đỡ” là ở chính những khi xuất hiện cái mới, cái chưa
quen. Chưa cảm được, chưa hiểu được cái mới đâu phải chỉ do người sáng
tạo ra nó, mà rất nhiều khi do sự giới hạn của người thưởng thức.
Vậy nên chăng thay vì vội vã quy kết, chụp mũ cho tác
giả, hãy bình tĩnh xem xét một cách công bằng năng lực sáng tạo và cả
năng lực thưởng thức sự sáng tạo nữa.
Với tôi, một người có cha hi sinh trong cuộc chiến
tranh giữ nước và từng trải nghiệm công tác quản lý trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật, tôi thật sự trân trọng cách viết độc đáo về chiến tranh
của tác giả Doãn Dũng trong truyện ngắn Bóng anh hùng, và thật tiếc
không thể không bày tỏ một lời trách về cách đọc không xuất phát từ văn
chương của những bạn đọc nào đó.
Nguồn: Tuoitre
*****