VỤ THẢM SÁT BÌNH HÒA - 1966
Địa điểm: Xã Bình Hòa - Huyện Bình Sơn - Tỉnh Quảng Ngãi
Vụ thảm sát Bình Hoà diễn ra trong các ngày 3,5,6,/12/1966 (tức ngày 22, 24 và 25 tháng 10 âm lịch) tại 5 địa điểm: buồng đất nhà ông Trắp, hố bom Truông Đình, Dốc Rừng, Đồng Chồi Giữa, đám ruộng giếng xóm Cầu, mà lính đánh thuê Nam Triều Tiên là thủ phạm.
Trong thảm sát Bình Hoà, bọn lính Nam Triều Tiên giết hại 430 người, trong đó có 269 phụ nữ (có 12 phụ nữ bị cưỡng hiếp đến chết), 104 người già, 174 thiếu nhi, 3 gia đình bị giết sạch không còn một ai.
Năm 1990, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng 1 tấm bia căm thù tại hố bom Truông Đình cao 2m, rộng 3m ghi lại tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và chư hầu. Hiện nay đã xây dựng nhà bia tưởng niệm các nạn nhân và tôn tạo các di tích.
Bia ghi tội ác vụ thám sát Bình Hòa.
Di tích Hố Bom Truông Đình.
Địa điểm: Xã Bình Hòa - Huyện Bình Sơn - Tỉnh Quảng Ngãi
Vụ thảm sát Bình Hoà diễn ra trong các ngày 3,5,6,/12/1966 (tức ngày 22, 24 và 25 tháng 10 âm lịch) tại 5 địa điểm: buồng đất nhà ông Trắp, hố bom Truông Đình, Dốc Rừng, Đồng Chồi Giữa, đám ruộng giếng xóm Cầu, mà lính đánh thuê Nam Triều Tiên là thủ phạm.
Trong thảm sát Bình Hoà, bọn lính Nam Triều Tiên giết hại 430 người, trong đó có 269 phụ nữ (có 12 phụ nữ bị cưỡng hiếp đến chết), 104 người già, 174 thiếu nhi, 3 gia đình bị giết sạch không còn một ai.
Năm 1990, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng 1 tấm bia căm thù tại hố bom Truông Đình cao 2m, rộng 3m ghi lại tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và chư hầu. Hiện nay đã xây dựng nhà bia tưởng niệm các nạn nhân và tôn tạo các di tích.
Bia ghi tội ác vụ thám sát Bình Hòa.
Di tích Hố Bom Truông Đình.
VỤ THẢM SÁT BÌNH AN - 1966
Địa điểm: Xã Bình An (Nay là xã Tây Vinh) - Huyện Tây Sơn - Tỉnh Bình Định.
Chỉ trong hơn một tháng (từ ngày 23/1 đến 26/2/1966), tại Bình An, lính Nam Triều Tiên đã càn quét đốt sạch nhà cửa, tài sản và sát hại trên 1.000 người, hầu hết là phụ nữ, người già và trẻ em.
Diễn tiến: Ngày 23-1-1966, chúng bất ngờ tổ chức một cuộc tấn công vào Bình An. Quân địch bao vây từ 4 phía với quyết tâm tiêu diệt toàn bộ lực lượng của ta, nhưng đã bị đánh trả quyết liệt. Tức tối vì không đạt được mục đích, chúng quay sang đốt phá thóc gạo, nhà cửa và giết hại dân lành. Hơn 100 thường dân, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em đã bị giết trong trận càn này, mở đầu cho một chiến dịch tàn sát trả thù hết sức dã man.
Với khẩu hiệu "đốt sạch, phá sạch, giết sạch", ngày 7-2-1966, các đơn vị lính Nam Hàn mở màn một chiến dịch hành quân khủng bố tàn bạo chưa từng có. Từ sáng sớm hầu hết các đơn vị pháo binh trong vùng của địch đều được lệnh nã đạn cấp tập vào Bình An. Làng quê nhỏ bé, hiền hòa bỗng chốc chìm ngập trong khói đạn. Vừa dứt tiếng pháo, lính Nam Hàn từ các phía ập đến. Phát hiện ra các hầm trú ẩn của dân ven làng, chúng thả lựu đạn cay xuống bắt mọi người phải trồi lên rồi thả sức tàn sát.
Ngay trong ngày đầu chiến dịch (7-2-1966), lính Nam Hàn đã giết chết 58 người. Riêng tại khu vườn nhà ông Phạm Chương (thôn An Vinh) chúng đã xả súng bắn chết một lúc 64 người. Cả hai vợ chồng ông Chương đều bị giết.
Những cuộc giết chóc, đốt phá ngày càng mở rộng qui mô và tăng thêm tính chất dã man. Ngày 12-2 là một ngày đẫm máu. Từ 10 giờ sáng, lính Nam Hàn bắt đầu cuộc tàn sát tại thôn Bính Đức. Chúng xả súng bắn vào bất cứ ai gặp trên đường hoặc bắt rồi hành hạ cho đến chết. Ở những nơi chúng gây tội ác (nhà ông Trần Ngô, khu vườn nhà ông Lê Phúc, khu nghĩa địa…), địch đã giết hại 26 người. Đặc biệt ở khu nghĩa địa, chúng đã dã man trói người vào các tấm bia mộ rồi để phơi nắng cho đến lúc chết khô. Vào khoảng 1 giờ trưa, quân địch kéo sang chợ Sông Cạn (thôn Nhơn Thuận), dồn tất cả 33 người dân bị bắt vào bãi chợ rồi xả súng trung liên bắn chết. Xác người nằm chồng chất lên nhau. Chưa hả, 5 giờ chiều ngày hôm đó bọn lính khát máu lại gây ra một vụ thảm sát ở Lỗ Sỏi, 40 người dân vô tội bị giết một lúc.
Như vậy chỉ trong một ngày thảm sát, lính Nam Hàn đã giết chết 109 người. Xóm làng tiêu điều, xơ xác, người chết ngổn ngang khắp nơi.
Nhưng đó vẫn chưa phải là tận cùng của tội ác.
Những cuộc tàn sát rùng rợn nhất xảy ra vào giai đoạn cuối của trận càn. Từ ngày 15-2 đến ngày 26-2, chúng đã sát hại gần 600 người, chủ yếu tập trung vào hai ngày 23-2 và 26-2.
Chứng tích về vụ tàn sát tập thể ngày 23-2 là khu vườn nhà ông Trương Niên ở thôn An Vinh. Tại đây chúng đã dồn 90 người dân tới, dùng súng trung liên bắn chết sạch không trừ một ai. Thật tang thương khi trong số các nạn nhân, có những gia đình bị giết hết cả nhà.
Ngày 26-2 đi vào lịch sử Bình An cũng như lịch sử tỉnh Bình Định như là một ngày đẫm máu và nước mắt với sự kiện thảm khốc diễn ra tại Gò Dài (thôn An Vinh). Trước khi kết thúc chiến dịch thảm sát kéo dài 3 tuần lễ, bọn lính Nam Hàn đã dồn tất cả những người chúng bắt được ở các nơi về đây. Như những con dã thú, chúng đã giết hại 380 người bằng những hành động man rợ nhất. Chúng điên cuồng hãm hiếp phụ nữ rồi giết chết dã man bằng cách dùng lưỡi lê đâm vào cửa mình, chất rơm đốt lửa thiêu sống trẻ em…
Vụ thảm sát đã gây nên nỗi kinh hoàng. Sau những ngày hãi hùng, nhiều người còn sống sót phải bỏ làng ra đi. Từ một làng quê trù phú, Bình An bao trùm một không khí chết chóc, hoang tàn. Di tích còn lại về vụ thảm sát Gò Dài là một ngôi mộ tập thể dài 33m, rộng 1,5m chôn xác 380 nạn nhân.
Chiến dịch thảm sát của địch đã để lại cho Bình An những hậu quả thật thê thảm. Tổng cộng có trên 1.000 dân lành bị giết hại, trong đó phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em. 1.535 trong tổng số 1.592 ngôi nhà bị tàn phá, 649 con trâu, bò bị chết… Sự sống ở Bình An bị hủy diệt đến nỗi dân làn không thể tiếp tục sinh sống được nữa phải phiêu bạt đi khắp nơi, đến 2 năm sau mới có người trở về. Những gì mà quân xâm lược gây ra trên đất Bình An là tội ác trời không dung đất không tha.
Mổ xẻ các cuộc thảm sát của lính Mỹ và Hàn quốc ở Việt Nam, Mậu Thân 1968
Heonik Kwon
Tóm lược: Những gì đã xảy ra ở Mỹ Lai tháng 3/1968 được thế giới biết tới như một trong những chương đau thương nhất của của cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên đó không phải là một sự kiện tách biệt và cần được đặt trong mối liên hệ với những sự kiện giết hại dân thường hàng loạt khác. Bài viết này điều tra về những thảm sát tại các làng mạc trong lịch sử Vietnam War, bao gồm những vụ gây ra bởi các lực lượng của Mỹ và Hàn QUốc, và những thảm hoạ như vậy đã được ghi nhớ như thế nào tại các cộng đồng bị tàn phá đó.
Vào ngày 24 tháng Giêng Âl, Mậu thân 1968, Hà My, một làng nhỏ ven biển Quảng Nam, toàn bộ dân làng đã phải hứng chịu thảm hoạ từ một tội ác chiến tranh. Đó là vào thời gian của cuộc Tổng tấn công, khi mà có thể nói toàn bộ vùng nông thôn miền Nam và Trung Việt Nam trở thành vùng “free-fire zone,” -vùng oanh tạc tự do , nghĩa là bất cứ thứ gì trên đó đều có thể coi (một cách hợp pháp) là mục tiêu để phá huỷ để đáp trả lại các cuộc tấn công của lực lượng cộng sản vào các đô thị kiểm soát bởi chính quyền Sài gòn và đồng minh. Một tháng sau biến cố này, một thảm hoạ tương tự đã xảy ra ở tỉnh Quảng ngãi lân cận, sau này được quốc tế biết đến với cái tên Thảm sát Mỹ Lai.
Hai sự kiện này chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi thảm hoạ lớn với con người đã làm hoang tàn Việt nam vào nửa cuối những năm 60. Sự giết hại dân thường hàng loạt một cách có hệ thống bởi các lực lượng mặt đất đã quét qua một vùng rộng lớn ở miền Trung, và những cuộc ném bom bừa bãi vào các khu vực đông dân cư đã trở nên thường nhật. Những cuộc thảm sát ở Hà My và Mỹ Lai có liên hệ gần gũi với nhau, và sự liên hệ đó vừa mang tính khu vực vừa mang tính toàn cầu. Hai đồng minh quân sự chính của Nam Việt Nam, Mỹ và Hàn QUốc (ROK), chịu trách nhiệm cho sự tàn bạo đó. Vụ thảm sát ở Hà My là một trong vô số vụ giết người tập thể ở miền trung Việt Nam gây ra bởi lực lượng lính viễn chinh Nam Hàn từ năm 1966 tới 1969 và ít được chú ý bởi các sử gia quốc tế của cuộc chiến. Nó xảy ra vào 25 tháng 2, 1968, dương lịch, chẳng bao lâu sau khi trung đoàn số 5 Thuỷ Quân lục chiến Mỹ bàn giao kiểm soát an ninh khu vực cho đồng minh Hàn Quốc.
Mỹ Lai cũng chịu thảm hoạ liên quan tới sự chuyển giao lực lượng. 16 tháng 3, 1968, 3 trung đội Task Force Barker khép chặt Mỹ Lai từ 3 hướng và bắt buộc dân làng phải tập trung ở 3 địa điểm. Ngay trước khi diễn ra chiến dịch gây sát thương hàng trăm dân thường này, “cả vùng được khoanh mực đỏ, đặt dưới nhiệm vụ đặc biệt của Lữ đoàn 2, Thuỷ quân lục chiến Hàn Quốc từ tháng 1/1967 tới 31/12/1967 thì được bàn giao lại cho Task Force Barker, lữ đoàn 11, của Mỹ như đã đề cập tới ở trên.”
Sự liên hệ giữa các sự kiện đó không chỉ bị giới hạn trên sân khấu của lạnh địa chiến tranh mà nó còn có tầm vóc toàn cầu. Nó không chỉ bởi vì tội lỗi của các diễn viên tới từ phía Đông và phía Tây. Những tội ác đó không thể tách rời khỏi trật tự thế giới lưỡng cực và liên minh giữa các quốc gia mà ở thời gian đó chúng ta gọi là Chiến Tranh Lạnh. Trật tự đó đã đưa 2 diễn viên quốc tế này(và các diễn viên khác nữa) lại với nhau dưới cái tên cuộc viễn chinh chống lại chủ nghĩa cộng sản và mạng lưới này đã đẩy diễn viên vai phụ, người mà đôi khi được giới quan sát trước kia gọi là “lính đánh thuê” trở nên hung hăng bạo liệt hơn ở các cuộc bình định nông thôn so với diễn viên chính mà không hề bị chú ý bởi cộng đồng quốc tế.
Những cuộc thảm sát thường dân trong chiến tranh Việt Nam có thể được chia thành 2 kiểu riêng biệt, dù có liên hệ giữa chúng. Trong một kiểu việc giết chóc thường diễn ra ở diện rộng, mức độ bạo lực thường tương đối bị giới hạn và các nạn nhân chủ yếu là người già và trẻ em. Các vụ thảm sát ở các làng lân cận Hà My là Ha Gia và Ha Quang được xếp vào loại này, cũng như hàng loạt các vụ khác diễn ra ở tỉnh Quảng Nam năm 1968 và ở Quảng Ngãi năm 1966. Hoàn cảnh của các vụ bắn giết này, dù khác nhau nhiều, cũng có một điểm chung. Ở Hà Gia và Ha Quang, vào thời điểm vụ bắn giết hầu hết dân làng đã được đưa tới các trại tập trung gọi là “ấp chiến lược” hoặc đã di chuyển tới các khu ổ chuột ở thành phố. Những người còn lại ở trong làng hầu hết là những người già gắn bó với ruộng đồng và không có thân nhân.
Năm 1966,tại huyện Bình Sơn tỉnh QUảng Ngãi, lực lượng quân sự địa phương đã được tăng cường bởi quân chính quy miền Bắc bổ sung. Lực lượng lớn này phụ thuộc một phần vào cung cấp lương thực và tin tức từ các làng xóm nằm rời rạc ít dân cư ở đây. Trong nhiều trường hợp mà tôi đã điều tra, những người già ở lại có con cháu hoặc những người họ hàng gần phục vụ trong lực lượng du kích địa phương, và bởi thế họ ở lại để giữ liên lạc cũng như tiếp tế lương thực. Sau hoạt động thành công chống lại kẻ thù, lực lượng quân sự ở QUảng Ngãi tạm thời rút lui khỏi khu vực và cổ vũ người dân rút theo. Họ biết rằng những hành động trả đua đối với thường dân đã diễn ra thường xuyên vào mùa hè 1966. Rất nhiều những người già đã không thể di tản khỏi làng thậm chí chỉ là tạm thời, hoặc là bởi vì họ chẳng có nơi nào để đi, hoặc là họ cả đời chỉ quanh quẩn trong luỹ tre làng và do dự khi phải di chuyển. Trong trường hợp Ha Gia, làng kế cận Hà My, một vài các nạn nhân lớn tuổi vốn là Việt Minh lão thành đã ủng hộ kháng chiến từ thời chống Pháp. Con cháu họ cứ đi về giữa làng và ấp chiến lược, khi nào tình hình cho phép, để giúp đỡ việc đồng áng. Trong hầu hết các vụ mà Noam Chomsky gọi là “43+ (hơn) vụ Mỹ Lai gây ra bởi lính đánh thuê Nam Hàn”, nhiệm vụ search and destroy (tìm kiếm và phá huỷ) được thực hiện bởi đồng minh thân cận nhất của Hoa Kỳ và họ đã tấn công những nhóm dân làng tương đối nhỏ này.
Loại thứ 2 của thảm sát thường dân có liên hệ với loại thứ nhất nhưng ít nhất cũng khác biệt ở một điểm chính yếu. Năm 1972, nhân viên cứu trợ của American Quaker, Diane Jones và Michael Jones đã sưu tập thông tin về các vụ thảm sát thường dân, đặc biệt là những vụ gây ra bởi lực lượng ROK (Nam Hàn) ở các tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam. Họ cho biết rằng hơn 100 thường dân bị giết chết ở 13 trong số hơn 45 vụ việc mà trong đó lính ROK được cho là đã giết những nhóm hơn 20 người dân thường không có vũ trang. Cuộc thảm sát ở Hà My và Mỹ Lai được xếp vào nhóm 13 cuộc giết chóc đó, cũng như các vụ việc xảy ra ở Thuy Bo, Phong Nhất, và Phong Nhị ở Quảng Nam; Phuc Binh ở Quảng Ngãi; 5 làng thuộc tỉnh Bình Định; và còn nhiều nữa. Nếu như tình hình ở các làng đó ổn định, người dân ở các trại tập trung thường xuyên thăm viếng nhà cửa của mình và ở lại lâu hơn trong các cuộc trở lại đó. Những người dân ở Hà My đã làm điều đó, và những người dân ở Mỹ Lai cuối 1967 cũng vậy. Những cuộc trở về của họ thường được bỏ qua bởi lực lượng Nam Việt Nam và các đồng minh trong khu vực. Lực lượng của Mỹ đồn trú ở Mỹ Khê, phía Nam Mỹ Lai, và Thuỷ quân lục chiến ROK ở căn cứ Con Ninh ở Hà My tăng cường an ninh ở mỗi khu vực. Khi người ta nghĩ rằng tình hình ở các làng đã yên ổn, những người di tản xin chính quyền địa phương, hoặc trực tiếp tới gặp các lực lượng nước ngoài để xin được gia hạn thời gian hoặc về ở tạm ở làng, dân làng có thể thu thập của cải để hối lộ các viên chức của trại cũng như những nhà chức trách Việt nam khác để cho phép họ rời khỏi trại. Khi một vài dân làng ra được khỏi trại di tản theo cách này, nó làm khuấy động những người khác. Khi 2,3 gia đình đã được về với quê hương bản quán, những gia đình khác theo dõi và phân tích thông tin một cách kỹ lưỡng từ làng. Khi những người già và những người đứng đầu làng kết luận rằng tình hình đã yên ổn thì sẽ kéo theo những đợt trở về lớn. Điều này dã xảy ra ở Hà My tháng 12 năm 1967 và ở Mỹ Lai trước đó một chút.
Khi dân làng quay trở lại, lực lượng liên quân ở địa phương thường hỗ trợ lương thực phẩm và vật liệu xây dựng cho họ ổn định. Dân làng Hà My nhận được sự hỗ trợ của Thuỷ quân lục chiến RoK theo cách đó, và những người trở về Mỹ Lai cũng xem những người lính Mỹ ở Mỹ Khê như những người bạn. Mối quan hệ này lý giải tại sao một vài dân làng ơ Hà My đã tin rằng cuộc tập trung vào ngày thảm sát là để phân phối thực phẩm. Ở Phong Nhị, Quảng Nam, dân làng và lực lượng Thuỷ quân lục chiến Mỹ đồn trú đã có mối quan hệ gần gũi trong suốt thời gian 1966-1967. 36 gia đình trong làng này có con em là lính trong quân đội cộng hoà, và mười người trong số đó, theo lời của một cựu chiến binh vẫn sống ở làng, đang làm việc trong chương trình phối hợp để bảo vệ khu vực cùng với lực lượng lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Điều đó cũng không thể giúp làng này tránh được sự tàn phá hoàn toàn trong một cuộc bình định riêng rẽ vào tháng 3, 1968.
Trong các trại tập
trung, có những chỉ điểm của cảnh sát, cũng như có những dân thường bí
mật hoạt động, trung thành với phía cộng sản. Mật thám reo rắc thông
tin về tình hình bạo lực ở khu vực nông thôn
và khuấy động sự sợ hãi; Những người hoạt động của Việt Cộng đấu tranh lại với màn tâm lý chiến này bằng những thông tin phản chứng. Cả hai hình thành nên một thông tin thường bị phóng đại và không có độ tin cậy. Việt cộng cổ vũ những người di tản trở về làng và hãy ngừng, theo một cách nói phổ biến được tuyên truyền của thời kỳ, “ăn đồ ăn và bám cẳng Mỹ”. Một thông cáo được ngầm truyền đi đòi hỏi dân làng phải được gia nhập vào các làng an toàn, nếu như họ không thể trở về làng mạc của chính mình, để giúp đỡ lực lượng du kích cũng như để biểu lộ ý chí chống lại sự cưỡng bức di chuyển. Khi nó không thuyết phục được những dân làng đang lo lắng, thông điệp trở nên thẳng thừng hơn – “Mỹ Lai có c nơi trú thân và có nhiều lương thực. Hãy đưa gia đình tới nơi tốt đẹp đó” một người hoạt động ngầm ở QUảng Ngãi nhớ lại.
Cuộc chiến thông tin sai lệch này làm dấy nên sự bối rối và bất ổn của những dân làng đi tập trung. Trong tình hình quân sự rối ren đỉnh điểm sau cuộc tấn công Tết Mậu thân 1968, sự an toàn ở một vùng nông thôn là một điều quá tuyệt vời. Tình hình chiến sự thay đổi nhanh chóng ở cả hai phía. Cỗ máy chiến tranh đã bắt đầu guồng quay mạnh mẽ hơn ở cả hai bên chiến tuyến và số phận của những người dân địa phương ngày càng không thể nói trước trong sự chuyển hướng chiến lược “hướng lực lượng cách mạng vào những thành phố, thị xã, chợ búa, và các cơ quan đầu não của địch.” Cùng lúc đó các biện pháp trả đũa thúc giục “Chúng ta phải chiến thắng trong cuộc đua tới các vùng nông thôn, tiếp tục tấn công, thiết lập an ninh ở những vùng nông thôn, và phục hồi sự hiện diện của chính quyền [Sài Gòn] ở các làng mạc. Trong tình hình bất ổn chung đó, một vài nơi được xem là tương đối an toàn, và nơi đó thu hút nhiều cư dân tạm thời từ các làng khác. Người của “các làng hồi hương” tự hào về đặc quyền của mình và thường khơi dậy sự ghen tỵ từ người của các làng khác, những làng kém may mắn hơn.
May mắn này, tuy vậy, có thể biến thành sự bất hạnh khủng khiếp. Những làng nhìn có vẻ tương đối an toàn lại thường dẫn tới các thảm kịch lớn hơn. Những “làng an toàn” và “làng hồi hương” có thể trở thành bãi giết chóc khi đột nhiên một cái tên làng được nhấc ra và nó trở thành một “làng Việt Cộng”, bị khoanh mực đỏ trên bản đồ chiến sự. Sự chuyển biến đó diễn ra đột ngột, người trong làng không được biết, không nằm trong tầm kiểm soát của họ, và trên thực tế, thường ngoài sự kiểm soát của cả những người tham chiến được vũ trang của cả hai phía.
Tóm tắt lịch sử
Có 3 đồn đóng xung quanh Hà My. Một trong số đó, gọi là Con Ninh, được chuyển giao vài lần. Trước khi nó bị bỏ không tạm thời vào năm 1954, một tiểu đoàn Pháp trú quân trong đó bên trong những bức tường cao bọc dây kẽm gai, khuất tầm nhìn bởi rặng thông trải dài. Vào thời điểm thịnh vượng của nó, Con Ninh là một địa điểm khá toàn cầu, nơi những người Pháp ăn đồ Pháp, những người An giê ri nấu đồ ăn cay của họ, những người Ma rốc nướng thứ bánh mỳ ngon của họ, và những người lính bản xứ Việt Nam
chuẩn bị những bữa ăn với nước mắm và bánh mỳ nướng của Pháp, và rán cá chuồn cho các sỹ quan Pháp. Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, và tục thờ cúng tổ tiên được tiên hành một cách riêng rẽ, và một vài người lính bản xứ tranh cãi về sức mạnh của các vị chúa trời và thần thánh theo quan niệm của mỗi người tương ứng với số thương vong trong mỗi nhóm văn hoá, sắc tộc. Tiểu đoàn Pháp này tiến hành các hoạt động thu dọn trong các làng lân cận và giết chết một vài nhóm thường dân trong giai đoạn cuối. Nói một cách hoa mỹ, đó là hành động tự vệ chống lại sự lan rộng của Chủ nghĩa Cộng sản; trên thực tế nó là hành động xâm lược lại một thuộc địa.
Tháng 3 năm 1965, lực lượng viễn chinh Mỹ đầu tiên, lực lượng xe lội nước của Thuỷ quân lục chiến đã đổ quân xuống Đà Nẵng. Các tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ nhanh chóng bình định các làng mạc lân cận. Hoạt động đó thông thường bao gồm việc bao vây các làng vào sáng sớm; rải truyền đơn từ máy bay hướng dẫn người dân tập hợp và trải qua quá trình sàng lọc; và tiến vào làng để xác định các hầm ngầm, vũ khí được che dấu và lương thực dự trữ. Sự nhận diện Việt Cộng là mục tiêu chính của bình định. Các hoạt động đó nghe hợp lý và có thể tiến hành được đối với các nhà hoạt động quân sự, nhưng ra thực tế, nó không hiện thực, và quá trình sàng lọc chỉ là ý tưởng.Jonathan Schell báo về từ miền trung Việt Nam, đã miêu tả việc này. Ông ta dẫn lại lời một nhân viên thẩm vấn người nước ngoài : “Việt cộng tổ chức đoàn thể cho mọi người – Liên hiệp nông dân, liên hiệp ngư dân, hội phụ lão. Họ có hội, hiệp cho tất cả mọi người. Thật là khó khăn với dân chúng mà anh không thể biết ai là V.C. Công việc của chúng tôi là tách V.C. ra khỏi họ.” Bắt đầu vào mùa khô 65-66, TQLC Mỹ bắt đầu di chuyển xuống phía nam chiếm Hoà Vang và Điện Bàn (nam Đà Nẵng) và chuyển vùng này thành một “vùng đệm trắng”, xoá bỏ ảnh hưởng của Việt Cộng. Họ tiếp nhận căn cứ cũ của Pháp ở bãi biển Hà My vào mùa xuân 1966.
Vào
lúc này, Hà My và các làng mạc khác xung quanh đã thiết lập một mạng
lưới kháng cự phức tạp. Khi một đơn vị chính quy miền Bắc tấn công đầu
não của tỉnh ơ Hội An bằng pháo vào đầu năm 1965, các đơn vị du kích
địa phương, hình thành chủ yếu từ dân làng, đã tổ chức các cuộc tấn công
vào các vị trí của Nam Việt Nam và các khu vực dân cư ở ngoại ô và các
toà nhà chính phủ. Hai năm trước đó, những người dân của làng Hà My đã
đứng đầu trong cuộc đồng khởi chống lại việc lập ấp chiến lược. Nếu
một quyết định tập thể có lợi cho hoạt động chính trị được đưa ra ở vào
thời điểm đó tại một cuộc họp ở đình làng, nó sẽ rất khó bị đảo ngược.
Người ta ý thức được về sự không thể đảo ngược đó và bắt đầu chú ý làm
như thế nào để giảm bớt những nguy cơ. Nếu như khi thế đang dâng cao,
có thể những người có ảnh hưởng trong làng sẽ thúc đẩy những người tình
nguyện làm những việc nguy hiểm hơn nữa. Những người đàn ông trong
làng bàn bạc với những người họ hàng về sự chăm sóc gia đình họ nếu như
họ bị bắt hoặc bị giết, và những người đàn bà tụ tập với nhau cùng
hình dung viễn cảnh khó khăn và bàn bạc kế hoạch tồn tại khi không có
những người đàn ông.và khuấy động sự sợ hãi; Những người hoạt động của Việt Cộng đấu tranh lại với màn tâm lý chiến này bằng những thông tin phản chứng. Cả hai hình thành nên một thông tin thường bị phóng đại và không có độ tin cậy. Việt cộng cổ vũ những người di tản trở về làng và hãy ngừng, theo một cách nói phổ biến được tuyên truyền của thời kỳ, “ăn đồ ăn và bám cẳng Mỹ”. Một thông cáo được ngầm truyền đi đòi hỏi dân làng phải được gia nhập vào các làng an toàn, nếu như họ không thể trở về làng mạc của chính mình, để giúp đỡ lực lượng du kích cũng như để biểu lộ ý chí chống lại sự cưỡng bức di chuyển. Khi nó không thuyết phục được những dân làng đang lo lắng, thông điệp trở nên thẳng thừng hơn – “Mỹ Lai có c nơi trú thân và có nhiều lương thực. Hãy đưa gia đình tới nơi tốt đẹp đó” một người hoạt động ngầm ở QUảng Ngãi nhớ lại.
Cuộc chiến thông tin sai lệch này làm dấy nên sự bối rối và bất ổn của những dân làng đi tập trung. Trong tình hình quân sự rối ren đỉnh điểm sau cuộc tấn công Tết Mậu thân 1968, sự an toàn ở một vùng nông thôn là một điều quá tuyệt vời. Tình hình chiến sự thay đổi nhanh chóng ở cả hai phía. Cỗ máy chiến tranh đã bắt đầu guồng quay mạnh mẽ hơn ở cả hai bên chiến tuyến và số phận của những người dân địa phương ngày càng không thể nói trước trong sự chuyển hướng chiến lược “hướng lực lượng cách mạng vào những thành phố, thị xã, chợ búa, và các cơ quan đầu não của địch.” Cùng lúc đó các biện pháp trả đũa thúc giục “Chúng ta phải chiến thắng trong cuộc đua tới các vùng nông thôn, tiếp tục tấn công, thiết lập an ninh ở những vùng nông thôn, và phục hồi sự hiện diện của chính quyền [Sài Gòn] ở các làng mạc. Trong tình hình bất ổn chung đó, một vài nơi được xem là tương đối an toàn, và nơi đó thu hút nhiều cư dân tạm thời từ các làng khác. Người của “các làng hồi hương” tự hào về đặc quyền của mình và thường khơi dậy sự ghen tỵ từ người của các làng khác, những làng kém may mắn hơn.
May mắn này, tuy vậy, có thể biến thành sự bất hạnh khủng khiếp. Những làng nhìn có vẻ tương đối an toàn lại thường dẫn tới các thảm kịch lớn hơn. Những “làng an toàn” và “làng hồi hương” có thể trở thành bãi giết chóc khi đột nhiên một cái tên làng được nhấc ra và nó trở thành một “làng Việt Cộng”, bị khoanh mực đỏ trên bản đồ chiến sự. Sự chuyển biến đó diễn ra đột ngột, người trong làng không được biết, không nằm trong tầm kiểm soát của họ, và trên thực tế, thường ngoài sự kiểm soát của cả những người tham chiến được vũ trang của cả hai phía.
Tóm tắt lịch sử
Có 3 đồn đóng xung quanh Hà My. Một trong số đó, gọi là Con Ninh, được chuyển giao vài lần. Trước khi nó bị bỏ không tạm thời vào năm 1954, một tiểu đoàn Pháp trú quân trong đó bên trong những bức tường cao bọc dây kẽm gai, khuất tầm nhìn bởi rặng thông trải dài. Vào thời điểm thịnh vượng của nó, Con Ninh là một địa điểm khá toàn cầu, nơi những người Pháp ăn đồ Pháp, những người An giê ri nấu đồ ăn cay của họ, những người Ma rốc nướng thứ bánh mỳ ngon của họ, và những người lính bản xứ Việt Nam
chuẩn bị những bữa ăn với nước mắm và bánh mỳ nướng của Pháp, và rán cá chuồn cho các sỹ quan Pháp. Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, và tục thờ cúng tổ tiên được tiên hành một cách riêng rẽ, và một vài người lính bản xứ tranh cãi về sức mạnh của các vị chúa trời và thần thánh theo quan niệm của mỗi người tương ứng với số thương vong trong mỗi nhóm văn hoá, sắc tộc. Tiểu đoàn Pháp này tiến hành các hoạt động thu dọn trong các làng lân cận và giết chết một vài nhóm thường dân trong giai đoạn cuối. Nói một cách hoa mỹ, đó là hành động tự vệ chống lại sự lan rộng của Chủ nghĩa Cộng sản; trên thực tế nó là hành động xâm lược lại một thuộc địa.
Tháng 3 năm 1965, lực lượng viễn chinh Mỹ đầu tiên, lực lượng xe lội nước của Thuỷ quân lục chiến đã đổ quân xuống Đà Nẵng. Các tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ nhanh chóng bình định các làng mạc lân cận. Hoạt động đó thông thường bao gồm việc bao vây các làng vào sáng sớm; rải truyền đơn từ máy bay hướng dẫn người dân tập hợp và trải qua quá trình sàng lọc; và tiến vào làng để xác định các hầm ngầm, vũ khí được che dấu và lương thực dự trữ. Sự nhận diện Việt Cộng là mục tiêu chính của bình định. Các hoạt động đó nghe hợp lý và có thể tiến hành được đối với các nhà hoạt động quân sự, nhưng ra thực tế, nó không hiện thực, và quá trình sàng lọc chỉ là ý tưởng.Jonathan Schell báo về từ miền trung Việt Nam, đã miêu tả việc này. Ông ta dẫn lại lời một nhân viên thẩm vấn người nước ngoài : “Việt cộng tổ chức đoàn thể cho mọi người – Liên hiệp nông dân, liên hiệp ngư dân, hội phụ lão. Họ có hội, hiệp cho tất cả mọi người. Thật là khó khăn với dân chúng mà anh không thể biết ai là V.C. Công việc của chúng tôi là tách V.C. ra khỏi họ.” Bắt đầu vào mùa khô 65-66, TQLC Mỹ bắt đầu di chuyển xuống phía nam chiếm Hoà Vang và Điện Bàn (nam Đà Nẵng) và chuyển vùng này thành một “vùng đệm trắng”, xoá bỏ ảnh hưởng của Việt Cộng. Họ tiếp nhận căn cứ cũ của Pháp ở bãi biển Hà My vào mùa xuân 1966.
Tình hình ở mỗi làng được nhanh chóng chuyển sang các cộng đồng, các làng khác. Các đảng viên được thông tin qua lưới cơ sở cách mạng,. Thông tin thu thập được báo về tỉnh uỷ thông qua mạng lưới thông tin liên huyện. Dựa trên các quan hệ vốn có lâu đời, Hà My và các làng khác gần đó có các mạng lưới thông tin mạnh , và họ tiếp tục chia sẻ các thông tin cũng như các nguồn lực khác. Hoạt động của mạng lưới liên xã này phần lớn độc lập với các nhà chức trách. Người từ các làng khác nhau phối hợp và thông tin với nhau qua quan hệ họ hàng hoặc hôn nhân, và những mối quan hệ này thay đổi về cường độ cũng như sự quan trọng tuỳ thuộc vào sự thay đổi của các hoạt động chiến tranh. Mạng lưới liên xã này, giáo hiếu?, bắt đầu là một mạng lưới của lễ nghi và các mối quan hệ được phát triển giữa các đền chùa.
….(đoạn tiếp nói về mối quan hệ hình thành giữa các nhóm người ở các làng khác nhau)
(Lời một người dân)
Lớn lên từ mảnh đất của tổ tiên, người Ha gia và người Cam An (một làng gần với Hà My) bị dồn vào cuộc sống khổ sở trong trại tập trung. Ngăn cách bởi dây thép gai và những bãi mìn, tổ tiên chúng tôi không được ai trông coi, nơi yên nghỉ của họ bị ném bom và bị đốt trụi, các ngôi mộ bị ủi tung, thanh danh của họ bị làm nhục.Nhớ lại cuộc sống ở trong trại. Ở đó thật vô nhân đạo, chúng tôi thậm chí còn không thể tiến hành các lễ nghi như chúng tôi làm hôm nay. Chúng tôi không có đủ thức ăn cho con cái mình, chúng tôi phải vượt qua bãi mìn hàng tuần để tìm các thứ rau dại và chúng tôi không thể cúng thức ăn cho tổ tiên mình. Chúng tôi bị cưỡng ép di chuyển và không có quyền được thờ cúng. Người dân chúng tôi không chấp nhận. Những dân làng yêu nước nắm chặt tay nhau chống lại những kẻ áp bức, và tôi dám nói rằng gia đình tôi sẽ luôn luôn đứng đầu trong cuộc đấu tranh đó. Những người đàn ông làng tôi và người đàn ông làng anh cùng chung những đường hầm ngầm và cùng chịu đựng những gian khó hoạn nạn cùng nhau. Những người đàn bà làng tôi và những người đàn bà làng anh cùng chia nhau từng mẩu thức ăn cùng giúp nhau từng chỗ trú thân. Tổ tiên của chúng ta, dù rằng đã từng bị làm nhục, từng bị bỏ rơi, hẳn sẽ tự hào về sự tương thân tương ái lẫn nhau này của con cháu họ. Chúng ta có thể xây lại đền đài nếu đã bị phá huỷ; chúng ta không thể làm điều đó với tình cảm gia đình. Một khi đã bị đổ vỡ, khó mà hàn gắn lại được. Hôm nay, chúng ta tập hợp lại đây để nhớ lại và nhắc nhở về tình cảm gia đình.
Tháng 7 năm 1964, cán bộ cộng sản ở khu vực Hà My tổ chức một cuộc mit tinh tại đình làng Ha gia. Cuộc mittinh đã cho ra đời tổ chức ở cấp xã của Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, và các nhà lãnh đạo đã hối thúc kiến thiết các “làng chiến đấu”. Những cuộc di chuyển và trao đổi các cán bộ cũng như các đơn vị vũ trang diễn ra trong giai đoạn này giữa các huyện và giữa các tỉnh, và vùng biển ở Hà My trở thành một nơi quan trọng để vận chuyển cán bộ chiến sỹ tới các nơi tập trung trong tỉnh Quảng Ngãi. Vài trăm người đã được đưa vào Quảng Ngãi theo đường này, và họ đã chiến đấu trong những trận chiến khốc liệt năm 1966 ở các huyện Bình Sơn và Tư Nghĩa, cũng như là ở Sơn Tịnh, nơi Mỹ Lai ở đó. Những người ở lại được động viên : “Đạt hiệu quả hơn trong việc che dấu lực lượng vũ trang. Kết hợp đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp. Tận dụng các hoạt động hợp pháp để vận động quần chúng nhân dân.”
[…một đoạn nói về phát triển lực lượng, các hình thức đấu tranh, và tổng tiến công Tết Mậu Thân…]
Ngày 24 tháng Giêng Âm lịch, 1968, lính thuỷ đánh bộ Hàn bỏ xe tăng và bọc thép của họ phía ngoài Xóm Tây, thôn 2 Hà My, lúc 9:30 sáng và hành quân vào làng theo 3 hướng. Lúc 10:00 dân làng được tập trung ở 3 địa điểm khác nhau bao gồm cả ở nhà thờ họ Nguyễn và 2 nơi rộng rãi ở 2 thôn khác.Ở bãi rộng, viên chỉ huy yêu cầu mang ra một cái bàn đặt đối diện với đám đông. Ngồi trên bàn, hắn ta tuôn ra một bài, mà theo những người sống sót, là khá dài và hùng hồn diễn văn chỉ thị; người phiên dịch Việt nam tóm tắt lại nó cho dân làng. Không thấy xuất hiện các súng lớn; những người lính bận rộn chạy xung quanh. Một người sống sót, Nguyen Thi Bon, nói rằng cô nghĩ rằng những người lính chuẩn bị pát thức ăn hay kẹo; cô đã từng nhìn thấy điều đó trước kia. Cô đang cố tưởng tượng xem mình sẽ được gì. Một người sống sót khác, Ba Lap, nghe ai đó thì thầm, “Nếu họ giết chúng ta thì sao?” “Phủi phui, đừng nói vớ vẩn không may” cô nghe có ai đó khác nói; “Họ tới cho chúng ta thức ăn, Tin tôi đi. Tin tôi đi.”
Nó xảy ra vào 10 giờ hơn. Viên sỹ quan kết thúc bài diễn văn, quay lưng khỏi đám đông và bắt đầu bước đi. Vài bước xa khỏi dân làng, hắn phất tay một cái. Cái phất tay đó làm những khẩu trung liên M60 và phóng lựu M79 núp trong bụi cây nhả đạn. Những tên lính bắt đầu bắn vào dân làng, và những mảnh lựu đạn găm vào bất cứ ai muốn thoát khỏi địa ngục trần gian đó. Bon cảm thấy những bà mẹ ngã xuống cô và em gái của mình. Ba Lap nhìn thấy lựu đạn bay về phía cô và cô ngã lên những đứa con của mình. Rồi cô không cảm thấy gì nữa và không nhìn thấy gì nữa ngoài ruộng khoai lang xanh xa xa mà cô đang trườn tới. Bon nhớ rằng nó thật yên tĩnh và tối đen, và thật khó để thở dưới những xác người. Cô cố di chuyển và, nghe thấy tiếng đứa em mình khóc, rồi ngừng. Em cô cứ khóc, và cô sợ rằng những người lính sẽ nghe thấy nó. Bon nghe thấy tiếng nước ngoài nói nhanh, rồi yên lặng trở lại, và rồi tiếng nổ của một quả lựu đạn cầm tay. Vụ tàn sát tiếp diễn trong 2 giờ. Ở một địa điểm thảm sát khác, 70 người bị dồn vào trong gian thờ chính của nhà thờ họ Nguyễn. Một vài người nghĩ rằng những người lính sẽ phân phát thực phẩm. Gia chủ thì không nghĩ thế, và ông núp đằng sau bệ thờ cùng với 3 đứa cháu. Vụ giết chóc diễn ra ngay khi tiếng súng máy vọng lại từ bãi đất ngoài kia. Tới trưa, 135 dân làng đã chết: chỉ 3 người trong số họ là đàn ông ở độ tuổi có thể chiến đấu; 3 đứa trẻ chưa được sinh ra; 4 người không thể nhận diện. Phần còn lại là những người đàn bà, người già cả, những em gái thiếu niên, nhi đồng, sơ sinh.
Ở khu vực Mỹ Lai tỉnh Quảng ngãi, cũng có việc thay đổi binh sỹ, tháng 12 năm 1967. Vào sáng sớm ngày 17 tháng 2 âm lịch năm 1968, trực thăng mang theo đại đội Charlie của TF Baker hạ cánh ở rìa Khe Thuân, thôn Tu Cung – vùng được đánh dấu là “My Lai 4” trên bản đồ quân sự. Đây là hoạt động quân sự chính đầu tiên được tiến hành sau chuyển giao của quân viễn chinh Nam Hàn. Dân làng đã được chứng kiến các vụ lùng sục trước đây bởi đội quân khác, bao gồm cả quân Nam Việt Nam và đội quân người thượng Nùng. Lần này, tuy vậy, một vài người dân đã cảm thấy có gì đó khác biệt và đã yêu cầu đàn bà và trẻ em trú ẩn ở trong các hầm ngầm. Một vài du kích ở Khe Thuận đã tới vùng đồi để có thể chiếm lĩnh tình thế tốt hơn. Từng nhà từng nhà bị khám xét, lợn và trâu bò bị giết trước. Khi Charlie Company rút đi, 135 người ở Tu Cung đã bị giết chết ở 3 địa điểm, bao gồm cả vùng đất cánh đồng giữa hai thôn Khe Thuan và Khe Dong.
Vào buổi đêm sau vụ thảm sát, một vài du kích quay trở lại Mỹ Lai và giúp những người sống sót chôn các nạn nhân xấu số. Những người sống sót dùng các rổ tre để thu nhặt những mảnh xác vương vãi của họ hàng thân thích. Việc chôn cất diễn ra chậm và xác người bắt đầu phân huỷ nhanh. Không thể nguyên vẹn, hầu hết họ phải chôn ở ngay nơi thảm sát. Khi những điều tra viên của quân đội Mỹ tới ngôi làng bị bỏ hoang này tháng 11 năm 1969, họ có thể tìm thấy những ngôi mộ tập thể ở 3 nơi khác nhau, cũng như một rãnh đầy những thân thể đã bị phân huỷ. Ở Hà My, những người sống sót và họ hàng của họ từ các làng lân cận mua chiếu cói để bọc xác người chết. Họ đặt xác trong những hố nông đào xung quanh nơi thảm sát và đánh dấu mối mộ bằng những viên đá nhỏ hay cọc. Chiều muộn hôm đó, bọn lính quay lại và những người sống sót hoảng sợ bỏ chạy. Toán lính mang theo 2 máy ủi D-7, chúng san phẳng các căn nhà, ủi tung các ngôi mộ, và nghiền nát những thân thể chưa được chôn. Vụ tấn công vào những thi thể và những ngôi mộ này được ghi nhớ là hành động vô nhân tính nhất trong sự kiện này, và nó làm khó khăn cho sự tưởng nhớ của gia đình. Những người bị thương ở Mỹ Lai được đưa tới một chợ làng ở đường 521 bởi những người trong chợ và từ đó họ được mang bằng xe ngựa kéo tới bệnh viện Quảng Ngãi. Người sống sót duy nhất của dòng họ Đỗ (hay gia đình họ ĐỖ?) nhớ về chuyến đi này rõ ràng hơn bất cứ điều gì khác lúc đó. Ông đặc biệt nhớ về người chủ xe ngựa từ chối không mang ông nếu không trả 500 đồng. Những người sống sót ở Ha Mỹ được đưa tới một tàu y tế của Đức ở cảng Đà Nẵng. Trong nỗ lực tuyệt vọng tới trạm xá Leper ở Hoa Hai để được giúp đỡ, bố của Bon gặp một đoàn xe Hoa Kỳ. Nguwoif sỹ quan ngay lập tức gọi điện đài cho một chiếc trực thăng cứu hộ tới giúp những đứa trẻ bị thương. Ông ta được báo rằng trong ngày Chủ nhật không có trực thăng bay phục vụ khách dân sự. Những người trong đoàn vô cùng tức dận; Họ quay đầu đoàn xe bọc thép và hướng về Đà Nẵng cùng với những người bị thương. Ba Lap từ Hà My, người đã sống sót khỏi làn đạn và những mảnh nổ, được đưa tới một tàu y tế của Đức, nơi chân cô bị cắt bỏ. Cô đã mất một đứa con ở vụ thảm sát, và tới bệnh viện cùng với đứa con còn sống sót. Sau này khi nhớ về Mậu Thân, cô nói về những sợ hãi trên cái bệnh viện nổi hơn là những gì đã trải qua ở làng. Trên tàu, Ba Lap được nghe đồn rằng nhân viên của bệnh viện vứt những xác người Việt Nam chết xuống biển. Con gái của cô đang hấp hối ở khu chăm sóc đặc biệt, và Ba Lap trở nên cuồng loạn khi nghĩ rằng sẽ mất con gái mình theo cách đó. Cô bò dọc hành lang của bệnh viện, kéo lê thân thể tàn phế của mình, và túm chân bất cứ ai mà cô có thẻ tìm thấy, và cô cầu xin sự thương xót và chống lại điều mà, đối với cô, là tội ác ghê tởm nhất đối với loài người – vứt bỏ xác người cho những con cá chuồn háu ăn rỉa. Cuối cùng, một y ta người Việt đưa cô trở lại giường và nói rằng đứa bé đã chết, và nói với cô rằng đó chỉ là tin đồn, và người ta sẽ trả lại xác đứa bé.
Sau vụ thảm sát, Hà My và Mỹ Lai hầu như không có người ở cho tới cuối cuộc chiến, 1975. Một trong những đứa trẻ mồ côi ở Hà My tới Đà Nẵng nướng bánh mỳ Pháp cho quân cảnh; một vài người lớn cố gắng vào các trại tập trung ở các huyện lân cận, chỉ để bị từ chối ngay lập tức rằng họ được cho là đã tới từ một vùng Việt Cộng kiểm soát. Bởi thế nhiều năm trong cuộc đời như các bóng ma sống lang thang bắt đầu. Mất cứ địa cũng như những người trong gia đình, một vài du kích còn lại của làng đã gia nhập những nhóm du kích hoạt động ở những vùng lân cận. Những đồng chí của họ chào mừng họ. Những người sống sót ở Phong Nhị và Phong Nhất mang xác con em họ tới trạm kiểm soát quân sự trên đường 1 để phản đối. Có thể họ đã được cổ vũ làm điều đó bởi những người cách mạng, bởi vì hành động của họ tương tự như những cuộc biểu tình sau các cuộc thảm sát thường dân khác. Những xác trẻ em thối rữa phải được chôn ngay tại chỗ nơi các em bị giết chết. Những người sống sót ở Phong Nhất miễn cưỡng nhớ lại một phần của thảm kịch này; thay vào đó, cách họ nhớ lại rõ ràng và đơn giản rằng, mỗi lần họ qua ngã tư, họ biết con em họ được chôn ở một bên đường. Không có một cuộc điều tra chính thức nào tiếp theo cuộc biểu tình giận dữ của họ. Thay vào đó, 2 viên chức dân sự đưa ra một ít tiền và nhiều bông vải.
(Phần còn lại nói về sự khó khăn của du kích khi mất cơ sở, diễn biến của chiến trận, những người còn lại và sự tưởng nhớ những người đã khuất...)