"Việc giải phóng Thái Nguyên trước ngày 23 tháng 8 năm 1945 có vị trí then chốt quyết định sự thành công của Cách mạng Tháng Tám. Người Mĩ, mà trực tiếp là đội Con Nai với người chỉ huy là Thomas, đã chiến đấu bên cạnh Việt Minh, mang đến thắng lợi đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng. Danh tiếng anh Văn bắt đầu được biết đến từ thắng lợi ở Thái Nguyên.
Chắc
chắn rằng, nếu không có Thomas, với sự nhiệt tình giúp Việt Minh (thậm
chí là chống lệnh cấp trên đang đóng ở Côn Minh - Trung Quốc, để giúp
Việt Minh), thì Việt Minh khó lòng giải phóng được Thái Nguyên. Cách
mạng tháng Tám sẽ chưa biết kết quả ra sao, hoặc không thành hiện thực,
hoặc phải đổ máu thêm nhiều năm tháng nữa.
Các sử gia đều đánh giá rất cao chiến thắng ở Thái Nguyên tháng 8 năm đó. Có người còn cho rằng, đó là trận chiến quan trọng hàng đầu trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Bản thân Hồ Chí Minh đã đặt tên cho lực lượng Việt - Mĩ ở chiến khu lúc đó là "Bộ đội Việt - Mĩ".
Các sử gia đều đánh giá rất cao chiến thắng ở Thái Nguyên tháng 8 năm đó. Có người còn cho rằng, đó là trận chiến quan trọng hàng đầu trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Bản thân Hồ Chí Minh đã đặt tên cho lực lượng Việt - Mĩ ở chiến khu lúc đó là "Bộ đội Việt - Mĩ".
Nếu
không vượt qua được cửa ngõ Thái Nguyên, chắc là đoàn quân tháp tùng
Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh không về Hà Nội được, hoặc ngày đọc tuyên
ngôn độc lập sẽ phải muộn hơn ngày 2 tháng 9. Thậm chí, rất có thể, sẽ
là người khác lên đọc tuyên ngôn.
Có lẽ đây là lí do quan trọng để Hồ Chủ tịch một vài năm sau đã phong cấp Đại tướng cho cụ Võ Nguyên Giáp. "
Có lẽ đây là lí do quan trọng để Hồ Chủ tịch một vài năm sau đã phong cấp Đại tướng cho cụ Võ Nguyên Giáp. "
_______________
Biệt
Đội
Con Nai - The Deer Team là tên một toán đặc nhiệm của cơ quan tình báo
chiến
lược Mỹ OSS (The Office of Strategic Services), tiền thân của CIA sau
nầy. Biệt
Đội Con Nai được hình thành vào tháng 5, tháng 6 năm 1945, dưới sự chỉ
đạo của Thiếu tá Archimedes Patti, Đội trưởng là Thiếu tá Allison
Thomas. Nhiệm vụ
của Biệt Đội là nhảy dù xuống Tuyên Quang, chuẩn bị cơ sở cho kế hoạch
tiếp nhận
vũ khí và huấn luyện quân đội lực lượng Việt Minh.
đang thi công (Ảnh tư liệu của Nguyễn Học chụp lại từ bản gốc)
Đội trưởng của đại đội hỗn hợp Mỹ Việt : Đàm Quang Trung (phía bìa phải - sau nầy là Thượng Tướng) cùng chụp ảnh với Biệt Đội Con Nai
Rene Defourneaux và Đàm Quang Trung
Thiếu tá Allison Thomas (thứ tư từ phải sang) đứng quan sát những chiến sĩ Việt Minh tập ném lựu đạn ngày 17-8-1945
Deer Team members supervise small-arms training at Ho's Tan Trao jungle camp in August 1945. (National Archives)
Những người lính của lực lượng Việt - Mỹ, được trang bị vũ khí thu được của Pháp, trước trận đánh ở Thái Nguyên
Deer Team members supervise small-arms training at Ho's Tan Trao jungle camp in August 1945. (National Archives)
Những người lính của lực lượng Việt - Mỹ, được trang bị vũ khí thu được của Pháp, trước trận đánh ở Thái Nguyên
Ngày
26/8/1945 tại Hà Nội. Ho Chi Minh cử một phái đoàn do Vo Nguyen Giap dẫn đầu
nghênh đón nhóm công tác của OSS đến Hà Nội. Trong khi giàn nhạc trổi lên quốc thiều
Mỹ, Giap cùng phái đoàn đứng nghiêm chào cờ Mỹ với tác giả (Trưởng đoàn OSS tại Hà Nội - Archimedes Patti) và toán OSS
Tướng Giáp chụp ảnh vớiThiếu tá Archimedes Patti và toán OSS
Tướng Phillip D. Gallagher (Trưởng phái bộ Hoa Kỳ) thứ hai từ bên trái sang, đứng với Hồ Chí Minh bên tay trái...
Archimedes
Patti, ngồi giữa, với Võ Nguyên Giáp ngồi bên phải, rõ ràng rất thích
thú với địa vị nổi tiếng của mình tại Hà Nội. Tướng Phillip F- Gallagher
sợ rằng Palti "đang cố xây dựng nên một vương quốc và tỏ vẻ quan trọng"
(thư của Gallagher lại Hà Nội gửi McClure tại Côn Minh ngày 20 tháng
Chín năm 1945).
Tướng Phillip D. Gallagher (Trưởng phái bộ Hoa Kỳ) thứ hai từ bên trái sang, đứng với Hồ Chí Minh bên tay trái...
Những người Mỹ của toán OSS trên đường phố Hà Nội sau ngày 2/9/1945
Allison Thomas, đứng với những người lính thuộc quân đội của Võ Nguyên Giáp vào ngày 20 tháng Tám năm 1945
Allison Thomas, đứng với những người lính thuộc quân đội của Võ Nguyên Giáp vào ngày 20 tháng Tám năm 1945
Ren Défourneaux, đang ngồi trên cái cản sốc, và Allison Thomas đang đứng với một thành viên Việt Minh dựa vào một trong những chiếc xe "đốt than" chạy từ Hà Nội tới Thái Nguyên.
Đội Con nai ở sân bay Gia Lâm
Năm mươi đến sáu mươi lính Nhật trang bị vũ khí đầy đủ bao quanh máy bay của Patti nhưng không chống đối chuyến hạ cánh của Patti và sau dó trong một thái độ phân vân, họ chất các trang thiết bị của họ lên xe tải và đi vào Hà Nội.
Những người lính Mỹ biểu diễn kéo cờ trên nhà tù Citadel tại Hà Nội khi một sĩ quan liên lạc Pháp đứng nhìn, tháng Chín năm 1945
Một trong những chiếc đài của OSS bỏ lại cho Việt Minh
Theo Quangtrungbinhkhe Thợ cạo st bổ sung
Theo đúng quyết định chính sách của Đảng ngày 12
tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp đã gửi một tối hậu thư yêu cầu đầu hàng
tới quân Nhật. Nhưng Nguyễn Chính nhớ là đã đánh máy và gửi đi hai bức
tối hậu thư vào ngày hôm đó: một bức của Võ Nguyên Giáp và một bức bằng
tiếng Anh do Thomas ký. Những văn kiện này chắc chắn có ít tác dụng
trong việc thuyết phục quân Nhật vốn đã ém quân rất kỹ giao nộp vũ khí
cho Việt Minh. Tối hậu thư cho tất cả những thời điểm như vậy nhìn chung
có nội dung như sau:
Hỡi các sĩ quan và bính lính Nhật.
Chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng Minh. Quân đội Nhật đang dần dần bí tước vũ khí ở tất cả các mặt trận. Trước khi quân Đồng Minh tiến đến Đông Dương, hãy giao nộp vũ khí cho Việt Minh và Quân đội Giải phóng Việt Nam. Bằng việc làm đó, các bạn sẽ không chí bảo vệ được mạng sống của mình mà còn góp phần vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam. Thời khắc cuối cùng quyết định số phận của các bạn đã đến! Không nên do dự.
Cuộc đầu hàng, dĩ nhiên, không hề đơn giản. Quân Nhật "đang ở trong vị trí phòng thủ cũ theo chuẩn mực của Pháp", Thomas nhớ lại, "và họ không định đầu hàng ngay lúc đó".
"Lời kêu gọi Khởi nghĩa" của Đảng ngày 12 tháng 8 đã tuyên bố đơn vị nào của quân Nhật không chịu đầu hàng thì "phải bị tiêu diệt", và cuối cùng sáng hôm đó cuộc chiến giành Thái Nguyên bắt đầu.
Hỡi các sĩ quan và bính lính Nhật.
Chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng Minh. Quân đội Nhật đang dần dần bí tước vũ khí ở tất cả các mặt trận. Trước khi quân Đồng Minh tiến đến Đông Dương, hãy giao nộp vũ khí cho Việt Minh và Quân đội Giải phóng Việt Nam. Bằng việc làm đó, các bạn sẽ không chí bảo vệ được mạng sống của mình mà còn góp phần vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam. Thời khắc cuối cùng quyết định số phận của các bạn đã đến! Không nên do dự.
Cuộc đầu hàng, dĩ nhiên, không hề đơn giản. Quân Nhật "đang ở trong vị trí phòng thủ cũ theo chuẩn mực của Pháp", Thomas nhớ lại, "và họ không định đầu hàng ngay lúc đó".
"Lời kêu gọi Khởi nghĩa" của Đảng ngày 12 tháng 8 đã tuyên bố đơn vị nào của quân Nhật không chịu đầu hàng thì "phải bị tiêu diệt", và cuối cùng sáng hôm đó cuộc chiến giành Thái Nguyên bắt đầu.
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman
CLAUDE G. BERUBE
NVTPHCM- Henri Prunier là người lính trong nhóm tình báo Đội Hươu của Mỹ từng được gặp Bác Hồ cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã giúp Việt Minh hướng dẫn huấn luyện những người lính đầu tiên. Nhân kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám 19.8 và Quốc khánh 2.9, NVTPHCM xin giới thiệu bạn đọc những hồi ức của Henri Prunier do Claude G. Berube ghi lại, Thanh Xuân dịch…
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được mời đến dự một bữa tiệc tối năm 1995 trong
vai trò khách mời đặc biệt. Vị tướng 84 tuổi quan sát căn phòng rất đông
những người Việt Nam và người Mỹ được mời đến dự bởi nhà tổ chức là Dự
án Hòa giải Mỹ - Đông Dương, và một người khiến ông đặc biệt chú ý. Và
phải qua một khoảnh khắc hồi tưởng ông mới nhớ ra người này, vì 50 năm
đã qua kể từ lần cuối hai người gặp mặt. Nhưng vị khách người Mỹ thì
nhận ra tướng Giáp ngay, nhưng với tính cách tự nhiên của mình, ông chỉ
yên lặng chờ đợi. Trong khi ông nhìn sang, tướng Giáp cầm lấy một quả
cam từ bát hoa quả trên bàn, giang cánh tay ra phía sau, cong người quay
tay một vòng như thể đang ném quả cam đi. Đó là cách để vị tướng già
nói với người Mỹ rằng mình vẫn nhớ ông ta – Henry Prunier, một đặc vụ
trong nhóm tình báo Đội Hươu của OSS1- người đã dạy ông cách ném lựu đạn
từ năm thập kỷ trở về trước.
Kể
từ đó, tướng Giáp đã lãnh đạo quân đội Việt Minh đánh bại quân Pháp năm
1954, và sau này làm tổng chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN)
đánh thắng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (QĐVNCH) cùng đồng minh siêu cường
là nước Mỹ để đạt được thắng lợi cuối cùng năm 1975.
Về
phần Prunier, ông giải ngũ vào tháng 1 năm 1946, tốt nghiệp cử nhân hóa
học và tham gia vào doanh nghiệp gia đình của mình, chuyên thầu sản
xuất gạch và bê tông ở Worcester, bang Massachusetts. Quãng đời này thật
khác xa với những ngày tháng năm 1945 khi ông vẫn còn là đặc vụ OSS,
cùng Đội Hươu nhảy dù xuống Đông Dương để giúp đỡ các nhà cách mạng Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp huấn luyện quân nổi dậy chống lại quân đội Nhật
– đội du kích này đã trở thành nòng cốt tiền thân của quân đội Việt
Minh và QĐNDVN. Trong vai trò là thông dịch viên, nói được tiếng Pháp và
tiếng Việt Nam, Prunier có lẽ là một trong những người được chuyện trò
nhiều nhất với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.
Do
đa số những công việc của OSS tới gần đây đã được giải mật nên Prunier,
giờ đã 89 tuổi và là người còn sống cuối cùng của Đội Hươu, được truy
tặng Huân chương Sao Đồng vào tháng 2 năm 2011. “Tôi rất vui được trao
tặng Sao Đồng. Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ được nhận nó”, ông nói khi
được nhật báo Worcester Telegram & Gazette phỏng vấn.
Gia nhập OSS, đến Tân Trào
Thời
thơ ấu ở Worcester, Prunier được cho đi học ở một trường phổ thông Công
giáo nói tiếng Pháp, sau đó học ở trường cấp hai Assumption
Preparatory, nơi ông được dạy bởi các thầy tu người Pháp.
“Tôi
không muốn đi lính theo chế độ quân dịch vì như vậy quân đội sẽ toàn
quyền quyết định nơi cử đi”, ông hồi tưởng, vậy nên năm 1942 ông tự
nguyện gia nhập Lục quân, và được phép học hết năm thứ 3 tại trường Cao
đẳng Assumption. Do lý lịch và khả năng ngoại ngữ, ông được đưa vào
Chương trình Huấn luyện Đặc biệt của Lục quân tại Đại học Berkeley để
học tiếng An Nam (cách người Mỹ gọi tiếng Việt Nam khi đó). “Ngôn ngữ
này thật khó”, ông kể. “Nó đơn âm với 6 âm điệu, mà tôi thì hoàn toàn mù
về nhạc”. Để những người lính – học viên làm quen với môi trường nơi
được cử đi, bên cạnh việc học ngoại ngữ - tới 4 tiếng mỗi ngày, 6 ngày
mỗi tuần – lớp học cũng giảng cả về lịch sử, địa lý, chính trị, và văn
hóa Việt Nam.
Năm
1943, một sĩ quan OSS tiếp cận ông và hai người khác để đề nghị “một
nhiệm vụ tình nguyện ở Đông Dương”. Prunier kể rằng cả ba người đều từ
chối vị sĩ quan này sau khi biết rằng “cơ hội sống sót chỉ là 50%”. Sau
khi hoàn thành khóa học tại Berkeley năm 1944, ông được cử tới trường
phân tích mật mã ở bang Missouri, nơi ông được đưa vào danh sách một đơn
vị bộ binh, chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của Đồng minh vào Pháp trong Thế
chiến thứ II. Nhưng vào đêm trước khi đơn vị lên tàu, Prunier được lệnh
đến Washington để gia nhập OSS. “Đó chẳng phải là tình nguyện”, Prunier
nói, nhưng vào lúc ấy, như ông thừa nhận, “tôi cảm thấy vui”.
Bên
cạnh việc phải trải qua một chuỗi những thử thách tâm lý, chương trình
huấn luyện khắc nghiệt của OSS còn gửi Prunier tới đảo Catalina ở
California để huấn luyện kỹ năng sống sót và các bài học judo. “Chúng
tôi học cách giết và ăn thịt dê, học cách mò bắt và ăn bào ngư”, ông kể.
Khi hoàn thành chương trình đào tạo, ông được đưa lên tàu vào tháng 4
năm 1945, cùng 3000 người khác, tất cả được chuyển đến Calcutta. Từ đó,
ông được bay qua dãy Himalaya để tới căn cứ OSS tại Côn Minh, Trung
Quốc.
Tại
Côn Minh, Đội Hươu được hình thành vào tháng 5, tháng 6 năm 1945, dưới
sự chỉ đạo của Giám đốc OSS Archimedes Patti. Đội trưởng là Thiếu tá
Allison Thomas, trước đó từng là công tố viên ở bang Michigan trước khi
làm việc với tình báo Anh trong thời chiến. Các thành viên khác ngoài
Prunier còn có một điện đài viên người Mỹ là thượng sĩ William Zielski,
và để thử nghiệm xem lực lượng cách mạng Việt Nam có chấp nhận sự giúp
đỡ của người Pháp hay không, người ta đưa vào một sĩ quan Pháp cùng hai
sĩ quan người Pháp gốc Việt.
“Trước
khi Đội Hươu nhảy dù xuống Tân Trào, không ai biết nhiệm vụ là gì”,
Prunier hồi tưởng, “chỉ biết rằng ‘Mr. Hồ’ đang ở Tân Trào, và rằng
chúng ta phải huấn luyện cho lực lượng của ông”.
Sau
này Prunier mới biết rằng nhiệm vụ được hình thành khi Hồ Chí Minh gặp
trung úy Charles Fenn, người muốn xây dựng một quan hệ hợp tác để giải
cứu các phi công của Đồng minh, đồng thời gửi báo cáo tình báo và thời
tiết cho Đồng minh. Fenn và OSS muốn được cung cấp thông tin tình báo về
các động thái và vũ khí của quân đội Nhật. Họ đã được Hồ Chí Minh đồng
thuận để đổi lấy sự hỗ trợ của Mỹ cho các lực lượng yêu nước ở Việt Nam.
Tuy OSS không biết rõ Hồ Chí Minh là ai, nhưng họ đồng ý huấn luyện một
đơn vị nhỏ. “Phía Đồng minh cho rằng Nhật Bản đang muốn dùng Đông Dương
làm bàn đạp tấn công phía Nam của Trung Quốc”, Prunier nói. “Nhiệm vụ
của chúng tôi là giúp lực lượng du kích quấy rối quân Nhật. Chúng tôi đã
cùng họ phá hủy đường ray tàu hỏa, các cơ sở viễn thông. Nhưng không
đối đầu trực tiếp với quân Nhật vì chúng tôi không đủ hỏa lực”.
OSS
ban đầu định để cho Đội Hươu hành quân bằng đường bộ dài 300 dặm (gần
483 km) tới Tân Trào, nơi đặt các trại huấn luyện quân nổi dậy. Nhưng
người Trung Quốc cảnh báo OSS rằng quân Nhật đang chờ sẵn ở biên giới để
ngăn chặn mọi lực lượng của phía Đồng minh. Vì vậy, thay vì đi bộ, từng
thành viên của Đội được vận chuyển bằng máy bay nhỏ loại Piper Cub tới
thị trấn Po Sah, cách biên giới Việt Trung khoảng 50 dặm (80 km), nơi
đóng vai trò đầu mối liên lạc giữa Côn Minh và Tân Trào. Một buổi sáng
ngày 16/7/1945, sáu thành viên Đội Hươu lên một chiếc máy bay C-47,
nhưng khi tới nơi viên phi công không thể nhìn thấy những chiếc khăn
trắng làm ám hiệu cho biết mặt đất bên dưới là khu vực an toàn. Cuối
cùng, Prunier, Thomas, và những thành viên khác đều đánh liều nhảy
xuống. Tới mặt đất, trong khi đang thu xếp dù, họ nhìn thấy vài chục
người tiến đến, không rõ là người Trung Quốc hay Việt Nam. Đa số là các
thiếu niên, “Thiếu sinh quân”, Prunier hồi tưởng, ngoại trừ một người
thấp hơn, mặc áo vải lanh màu trắng, đi giày đen, đội mũ phớt cũng màu
đen, được mọi người gọi là “anh Văn”. Phải sau này nhóm đặc vụ mới được
biết tên của ông là Võ Nguyên Giáp.
Huấn luyện đội quân Việt Minh
Được
dẫn tới làng Tân Trào, nhóm được đón tiếp với một biểu ngữ bằng tiếng
Anh có nội dung “Chào mừng các bạn Mỹ của chúng tôi”. Pruner sau đó được
biết biểu ngữ này được làm bởi hai người Mỹ: trung úy Dan Phelan, nằm
vùng tại Trạm Trợ giúp Không lực từ Mặt đất, có chức năng giải cứu phi
công Mỹ bị rơi xuống trong vùng; và Frankie Tan, một người Mỹ sinh ra
trong khu phố Chinatown ở Boston, một thành viên mạng lưới gián điệp làm
việc cho Texaco và hoạt động ở Việt Nam từ 1944. “Họ bán thông tin tình
báo thu lượm được cho các bên – Mỹ, Pháp, Anh”, Prunier kể.
Địa
điểm huấn luyện có kích thước không lớn hơn 200 bộ (183 m) nhân 300 bộ
(274 m), xung quanh là các lán. Nhóm OSS sống trong các lán trên núi.
“Có một dòng suối, và họ xẻ ống bương đưa một ít nước về, thứ nước từ
núi ra ấy rất tuyệt, lạnh băng”, Prunier nói.
Khi
Prunier và cả nhóm gặp Hồ Chí Minh lần đầu, người mà họ chỉ biết qua
cái tên “Hồ”, họ thấy ông gầy guộc “chỉ toàn da với xương”, bị ốm yếu vì
những căn bệnh nhiệt đới như lỵ và sốt rét. Tuy ông nói thông thạo
tiếng Pháp, nhưng không chấp nhận nói ngôn ngữ này, thay vào đó chỉ nói
chuyện với Prunier bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
Hồ
Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ngay lập tức tỏ sự không tin tưởng các sĩ
quan người Pháp và người Pháp gốc Việt trong nhóm, và yêu cầu họ quay
trở về Côn Minh. Phải mất thêm một tuần những người Mỹ thay thế mới có
mặt: bác sĩ quân y Paul Hoaglund, chuyên gia vũ khí – thượng sĩ Lawrence
Vogt, và Trung sĩ Aaron Squires, người cũng đồng thời là một nhiếp ảnh
gia. Thành viên cuối cùng là Trung úy René Defourneaux, một người Pháp
thoát li trở thành công dân Mỹ.
Ngay
khi tới nơi, ưu tiên hàng đầu của Hoaglund là điều trị cho Hồ Chí Minh,
và ông đã nhanh chóng hồi phục. “Ông Hồ không có vẻ là một chỉ huy quân
đội, dù những người lính của ông thể hiện sự tôn kính như với ông nội”,
Prunier nói. “Ông không tạo ấn tượng với chúng tôi rằng ông sẽ trở
thành một lãnh đạo quân đội, hay lãnh tụ tương lai của Việt Nam.”
“Tôi
nói chuyện với ông và kể rằng tôi đến từ Massachusetts”. Ông nói “Tôi
còn nhớ Boston”. Nhà cách mạng vóc người nhỏ nhắn này từng làm bếp ở
London và New York, và từng có mặt trong một du thuyền cập bến Boston.
“Điều thú vị mà tôi được thấy là ông dùng giấy viết của Khách sạn Parker
ở Boston để viết”, Prunier nói. “Ông kể cho tôi về thời gian ông ở
thành phố New York, và sự ngạc nhiên về quyền tự do mà người da màu,
người Trung Quốc, và người châu Á ở đây được hưởng”.
Khi
Đội Hươu bắt đầu huấn luyện đội quân Việt Minh khi ấy mới được thành
lập, những vũ khí duy nhất mà quân nổi dậy có khi ấy là súng hỏa mai
nòng ngắn (musketoon) và một số ít súng thu được của Pháp. “Họ không
được vũ trang tốt và thiếu khả năng sử dụng vũ khí”, Prunier nói. OSS
thả xuống những thùng chứa súng trường M-1, bazooka, súng cối 60 mm, và
súng máy loại nhẹ, vừa đủ để trang bị cho 80 người. “Người Việt háo hức
và học được cách tháo lắp súng M-1 sau ít giờ đồng hồ”, Prunier kể.
Tổng
thời gian nhóm OSS dành để huấn luyện người Việt chỉ kéo dài ít tuần
trong tháng 7 và tháng 8. Nhóm đã cung cấp cho ông Giáp những kỹ năng
chiến trận cơ bản, nhưng “những điều họ học được về chiến tranh du kích
là sau này, vì chúng tôi không có đủ thời gian để hướng dẫn họ”, Prunier
kể.
Ngoài
Võ Nguyên Giáp, nhóm còn huấn luyện cho ít nhất hai chỉ huy quân sự cấp
cao khác, trong đó có tướng Đàm Quang Trung, người từng khiến quân Pháp
và sau này là quân Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam phải đau đầu. “Đây là
một nhóm được tinh tuyển từ nhiều nơi của Việt Nam”, Prunier nói. “Họ
hoàn toàn không phải là một đám đông nông dân ô hợp”.
Khi
nghe tin về vụ ném bom nguyên tử của Mỹ, những người chủ nhà Việt Nam
chia vui cùng Đội Hươu vì biết rằng kết thúc Thế chiến thứ II đã gần kề.
Ngày 15/8, Hoàng đế Nhật Bản Hiroshito thông báo trên toàn quốc về
quyết định đầu hàng. Nhiệm vụ của OSS ở Việt Nam tới đây về cơ bản đã
hoàn thành. Ngày hôm sau, Prunier nhớ lại, Chính phủ Lâm thời của Hồ Chí
Minh họp tại Tân Trào. “Chúng tôi thấy rằng tình hình đã đến lúc ra
đi”, ông nói. “Chúng tôi gặp ông Hồ, và Thomas nói lời từ biệt với ông”.
Đội Hươu “đi cùng ông Giáp, Quang Trung, và khoảng 20 – 30 chiến sĩ
Việt Minh đi xuyên vào rừng”, hướng về Hà Nội, Prunier kể.
Ngày
19/8, đơn vị của ông Giáp gặp một đồn của Nhật tại Thái nguyên. Việt
Minh, háo hức muốn thử nghiệm những gì đã được nhóm OSS hướng dẫn, đã
lên kế hoạch tấn công đồn. Theo Prunier, nhóm đặc vụ Mỹ được lệnh qua
radio từ Archimedes Patti ở Côn Minh rằng không được tham gia vụ việc
này, không được nhận tù binh, và phải án binh bất động. Nhưng Thiếu tá
Thomas không nghe theo chỉ đạo này. Ông đã tham gia vào trận chiến và kể
lại cho chúng tôi. “Một vài người của Việt Minh bị giết còn bao nhiêu
lính Nhật chết thì tôi không biết”, Prunier nói. “Tôi nghĩ là với trận
đánh này, ông Giáp muốn chứng minh cho chúng tôi thấy những kinh nghiệm
quân sự mà họ đã học được”.
Sau
trận chiến ở Thái Nguyên, nhóm OSS được cấp vài người dẫn đường, còn
ông Giáp rời đi cùng đa số những người lính khác. Đội Hươu đi tiếp 40
dặm (64 km) nữa đến Hà Nội, tới nơi vào ngày 9 tháng 9. Ông Hồ đã tới Hà
Nội từ trước và tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày 2 tháng 9 – trùng
với ngày Nhật Bản chính thức đầu hàng Mỹ tại chiếc bàn trên chiến hạm
Missouri. Ông Hồ đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ trong bản tuyên
ngôn của mình. Theo suy nghĩ của Prunier, có thể ông đã có ý tưởng này
sau nhiều lần thảo luận với Trung úy Dan Phelan.
Trong
ký ức của Prunier, Hà Nội là một thành phố đẹp, với những con đường lớn
với các biệt thự, nhưng khi quân Tàu Tưởng tràn vào, “chúng thật là một
bọn hạ lưu… một đám lưu manh. Trong khi Việt Nam đang có nạn đói thì
chúng đi ăn cướp các nhà”.
Trước
khi rời khỏi Hà Nội vào ngày 16/9, Prunier có gặp ông Hồ và ông Giáp
một lát. Hồ Chủ Tịch đã tặng Prunier một tấm thảm lụa để bày tỏ lòng
biết ơn những trợ giúp của ông.
Prunier
sau đó bay về Côn Minh và được bố trí tạm thời vào một đơn vị tình báo ở
đây. Một tháng sau, ông quay lại Hà Nội để thiết lập một trụ sở chi
nhánh của OSS, nơi ông phục vụ việc xử lý những vụ phạm tội ác chiến
tranh của Nhật đối với người Việt và người Pháp. Vì công việc này không
được chú trọng nhiều trong tổ chức nên ông có khá nhiều thời gian rảnh
rỗi để đi khám phá thành phố, và gặp được những người lính ông từng huấn
luyện, trong đó có Thai Buc, một người phiên dịch từ thời ở Tân Trào.
“Ông ấy như một người anh em”, Prunier kể. Tổ chức OSS bị giải tán vào
tháng 10, và tới tháng 11 Prunier được lệnh về nhà để giải ngũ.
Nhìn nhận về Đội Hươu từ hai phía
Chính
phủ Mỹ chưa bao giờ thẩm vấn Henri Prunier về nhiệm vụ của ông, hoặc về
những người lính trong quân nổi dậy mà ông giúp huấn luyện ở Việt Nam.
Tuy có vài lần ông được mời gia nhập CIA, vốn được thành lập năm 1947,
nhưng “Tôi không hứng thú”, ông nói. Thay vào đó, ông tham gia vào việc
kinh doanh của gia đình ở Worcester.
Trong
20 năm tiếp theo, sứ mệnh của Prunier ở Đông Dương hầu như bị quên
lãng, trong bối cảnh nước Mỹ tập trung tất cả sự chú ý vào cuộc Chiến
tranh Lạnh. Tới đầu thập kỷ 1960, khi sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam
gia tăng, những thông tin về thời kỳ huấn luyện của OSS được khơi lại,
và những câu chuyện về Đội Hươu lại được nhắc đến. Nhưng ngay cả lúc ấy,
khi Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã trở thành những đối thủ lớn của Mỹ
trên đấu trường quốc tế, vẫn không ai buồn gọi đến Prunier để hỏi ông
về những kinh nghiệm cá nhân với hai vị lãnh đạo này. Đến tháng 3 năm
1968, khi nước Mỹ có 500 nghìn lính ở Việt Nam, một số bức ảnh chụp Đội
Hươu trước đây chụp bởi trung sĩ Squires được đăng trên tạp chí Life
trong bài viết về Hồ Chí Minh. “Vài người quen nhận ra tôi, và họ liên
hệ đến các tổ chức truyền thông địa phương”, Prunier nói. Ông được cấp
tốc gọi đến phỏng vấn tại đài truyền hình WTAG và nhật báo Worcester
Gazette của Worcester.
Chính
trong những cuộc phỏng vấn đó mà nước Mỹ được Prunier cung cấp những
thông tin mà rất ít người (nếu có) trong chính phủ Mỹ biết, với những
nhìn nhận cơ bản về các vị lãnh đạo của Việt Nam từ thời kỳ họ còn đang
xây dựng đường lối ban đầu. “Tiếng nói của ông Hồ luôn hướng đến quyền
lợi của đa số nhân dân ông”, Prunier nói. “Ông ấy muốn họ giành được độc
lập… Ông không thấy có gì là mâu thuẫn, giữa việc làm một người Cộng
Sản, với việc hi vọng vào một đường lối dân chủ cho nhân dân…”
Prunier
sau này có một ít lần nói chuyện trước công chúng, nhưng sớm dừng lại
vì ông không muốn được nhìn nhận như một nhà hoạt động chống chiến
tranh. “Sau khi trả lời phỏng vấn năm 1968, tôi đã nhận được vài cuộc
gọi điện thoại với nội dung mạt sát. “Họ cho là tôi thần tượng Hồ Chí
Minh. Tôi không thần tượng Hồ Chí Minh. Tôi đơn thuần chỉ nghĩ rằng
người Việt là những con người tuyệt vời, và rất ham học hỏi”.
Trong
khi Mỹ ngày càng sa lầy tại Việt Nam và cuối cùng phải tháo lui trong
xấu hổ, câu chuyện của Prunier về Đội Hươu càng mờ đi trong tâm trí
người Mỹ. Nhưng ở Việt Nam thì khác, những sự trợ giúp của họ cho Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp năm 1945 được coi là một phần trong trang sử mới
của đất nước.
Năm
1995, Dự án Hòa giải Mỹ - Đông Dương, tên của một tổ chức phi lợi nhuận
được thành lập từ cách đấy một thập kỷ, đã cung cấp một cơ hội để những
thành viên Đội Hươu ngày nào được đến Hà Nội, thăm lại địa điểm huấn
luyện ở Tân Trào, và gặp gỡ những người lính họ từng hướng dẫn từ nửa
thế kỷ trước. Có hai thành viên tham gia được sự kiện này là Prunier và
Thomas. Trong lần đến Hà Nội ấy, tướng Giáp đã nhận ra Prunier, và vị
tướng già thể hiện lại tư thế ném lựu đạn với trái cam. “Tôi đã huấn
luyện cho ông Giáp. Tôi thấy bồi hồi khó tả vì ông ấy nhận ra tôi”,
Prunier nói. “Ông ấy đi tới chỗ tôi và chỉ nói ‘yes, yes, yes!’” Một
người lính Việt Nam khác thì vui sướng nắm lấy cánh tay tôi và reo lên,
“Prunier! Prunier!”, nhắc đi nhắc lại. Đó là lần đầu tiên Prunier nhận
ra những người Việt Nam dành cho mình và Đội Hươu sự quý trọng như thế
nào.
Năm
2009, Henry Prunier quyết định hiến tặng tất cả giấy tờ, ảnh chụp, các
bức vẽ, báo cáo, và có lẽ thứ quan trọng nhất, bộ quân phục Lục quân Mỹ
của mình, cho Bảo tàng Lịch sử Quân đội tại Hà Nội. Giám đốc bảo tàng,
Thiếu tướng Lê Mã Lương, một cựu chiến binh chiến dịch Khe Sanh, đã gọi
món quà của Prunier là “một trong những món quà lịch sử hiến tặng đáng
kể nhất mà bảo tàng từng được nhận”.
Ngày
23 tháng 2, 2011, khi được nhận Huân chương Sao Đồng, Prunier nhớ lại
những ngày thực hiện nhiệm vụ tuyệt mật của OSS giao cho Đội Hươu tại
Việt Nam, được thực hiện trong một thời khắc lịch sử ngắn ngủi, khi mà
có rất ít người Mỹ biết đến Việt Nam. “Tôi không biết những gì chúng tôi
làm đã mang lại ảnh hưởng ở mức độ nào, nhưng cá nhân tôi qua đó đã
được hiểu biết phần nào về người Việt Nam”, Prunier nói.
Có
lẽ sau sáu thập kỷ kể từ khi Henry Prunier làm việc với OSS, sự tôn
trọng dành cho người thành viên cuối cùng của Đội Hươu từ cả phía Việt
Nam và Mỹ có thể được coi là một biểu tượng cho sự hiểu biết lẫn nhau
giữa hai đối thủ một thời.
(Tác giả Claude G. Berube giảng dạy tại Học viện Hải quân Mỹ và đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của Đội Hươu OSS).
Thanh Xuân lược dịch theo historynet, các tít phụ do người dịch thêm vào
http://www.historynet.com/ho-giap-and-oss-agent-henry-prunier.htm
Theo Tia Sáng
http://www.historynet.com/ho-giap-and-oss-agent-henry-prunier.htm
Theo Tia Sáng
_________________
1. Office of Strategic Services: Cơ quan tình báo thời Thế chiến II của Mỹ, tiền thân của CIA
1. Office of Strategic Services: Cơ quan tình báo thời Thế chiến II của Mỹ, tiền thân của CIA
III. QUAN HỆ VỚI OSS MỸ:
Cuối tháng 8/1942, Lin cải danh thành Hồ Chí Minh, vượt
biên giới qua Trung Hoa xin cầu viện và đánh phá tổ chức Hoa quân Nhập
Việt của Trương Phát Khuê, Tư lệnh Ðệ Tứ Phương Diện Quân, Quảng Tây. Bị
bắt giữ hơn một năm vì nhập cảnh lậu, mang giấy thông hành quá hạn. Nhờ
sự can thiệp của thuộc hạ–nhất là Phạm Văn Ðồng, Hoàng Văn Hoan và nhóm
Phạm Việt Tử ở Vân Nam, dưới danh nghĩa Hội Chống Xâm Lược Ðông Dương,
và Hội Giải Phóng chống Nhật–Hồ lọt vào sự chú ý của Mỹ và Ðái Lập, Giám
đốc Mật Vụ của Tưởng Giới Thạch. Tháng 5/1943, Hồ được tạm thích, đặt
dưới sự kiểm soát của Tướng Hầu Chí Minh, đại diện Trung Hoa Quốc Dân
Ðảng bên cạnh Trương Phát Khuê và chỉ đạo thất Việt Nam Cách Mệnh Ðồng
Minh Hội (VNCMÐMH, tức Việt Cách hay Ðồng Minh Hội) ở Liễu Châu. Tổ chức
này do Trương Bội Công cầm đầu, với sự tham gia của Nguyễn Hải Thần, Vũ
Hồng Khanh, Hoàng Lương và nhóm Kiến Quốc Quân khoảng 500-600 người của
Thượng sĩ Lương Văn Ý.
Ngày 10/9/1943, Hồ được tự do. Tháng 9/1944, Hồ về nước, mang theo 18 cán bộ Việt Cách đã được Trung Hoa huấn luyện. Việc hồi hương của Hồ như một mũi thuốc bổ chích vào cánh tay Việt Minh. Hồ kịp thời bác quyết định nổi dạy theo gương Nam Kỳ năm 1940 của BCUTƯ. Thêm vào đó, du kích Việt Minh mới giải cứu được một phi công Mỹ bị bắn rơi, đưa về Tổng Hành Dinh. Hồ muốn dùng phi công Shaw làm chất xúc tác liên lạc với Bộ Tư lệnh Phi đoàn Cọp Bay của tướng Claire Chennault tại Côn Minh.
Ngày 22/12/1944, Hồ giao cho Giáp trách nhiệm thành lập Ðoàn vũ trang tuyên truyền giải phóng, tức tiền thân Quân Ðội Nhân Dân [QÐND] hiện nay.
Những nỗ lực đầu tiên móc nối với Mỹ trong tháng 2/1945 bị thất bại. May mắn, giữa lúc đó xảy ra chiến dịch Meigo của Nhật. Hầu hết những nguồn tin tình báo tại nội địa Ðông Dương do Pháp [France Libre] và Hoa kiều [GBT] cung cấp đều bị cắt đứt. Các viên chức Mỹ bèn quyết định sử dụng Hồ và Việt Minh, song song với các quân nhân Pháp đã bỏ chạy qua Trung Hoa như Trần Văn Ðôn, Lê Văn Kim, Monfort, v.. v.. đang tập trung huấn luyện ở Bách Sắc. Ngày 27/3/1945, Tướng Chennault tiếp kiến Hồ tại Côn Minh. Sau đó Hồ được đáp phi cơ qua Bách Sắc để giới thiệu với Trương Phát Khuê và viên chức Mỹ. Ðại tá Paul Helliwell, Giám đốc OSS Secret Intelligence [SI] Branch tại Trung Hoa, cử Ðại úy Archimedes Patti, Phụ tá đặc trách Ðông Dương, nghiên cứu về Việt Minh, gặp Hồ ở Bách Sắc, ngày 27/4/1945, trước khi Hồ cùng hai nhân viên Mỹ Frank Tan, đại diện AGAS, và Mac Shin. Cuối tháng 4/1945, Frank Tan cùng Mac Shin vượt biên trở lại nội địa. Tình báo Pháp ghi HCM nhận được tài trợ ít nhất 1 triệu quan TH [500 MK] một tháng. (22)
Ngày 10/9/1943, Hồ được tự do. Tháng 9/1944, Hồ về nước, mang theo 18 cán bộ Việt Cách đã được Trung Hoa huấn luyện. Việc hồi hương của Hồ như một mũi thuốc bổ chích vào cánh tay Việt Minh. Hồ kịp thời bác quyết định nổi dạy theo gương Nam Kỳ năm 1940 của BCUTƯ. Thêm vào đó, du kích Việt Minh mới giải cứu được một phi công Mỹ bị bắn rơi, đưa về Tổng Hành Dinh. Hồ muốn dùng phi công Shaw làm chất xúc tác liên lạc với Bộ Tư lệnh Phi đoàn Cọp Bay của tướng Claire Chennault tại Côn Minh.
Ngày 22/12/1944, Hồ giao cho Giáp trách nhiệm thành lập Ðoàn vũ trang tuyên truyền giải phóng, tức tiền thân Quân Ðội Nhân Dân [QÐND] hiện nay.
Những nỗ lực đầu tiên móc nối với Mỹ trong tháng 2/1945 bị thất bại. May mắn, giữa lúc đó xảy ra chiến dịch Meigo của Nhật. Hầu hết những nguồn tin tình báo tại nội địa Ðông Dương do Pháp [France Libre] và Hoa kiều [GBT] cung cấp đều bị cắt đứt. Các viên chức Mỹ bèn quyết định sử dụng Hồ và Việt Minh, song song với các quân nhân Pháp đã bỏ chạy qua Trung Hoa như Trần Văn Ðôn, Lê Văn Kim, Monfort, v.. v.. đang tập trung huấn luyện ở Bách Sắc. Ngày 27/3/1945, Tướng Chennault tiếp kiến Hồ tại Côn Minh. Sau đó Hồ được đáp phi cơ qua Bách Sắc để giới thiệu với Trương Phát Khuê và viên chức Mỹ. Ðại tá Paul Helliwell, Giám đốc OSS Secret Intelligence [SI] Branch tại Trung Hoa, cử Ðại úy Archimedes Patti, Phụ tá đặc trách Ðông Dương, nghiên cứu về Việt Minh, gặp Hồ ở Bách Sắc, ngày 27/4/1945, trước khi Hồ cùng hai nhân viên Mỹ Frank Tan, đại diện AGAS, và Mac Shin. Cuối tháng 4/1945, Frank Tan cùng Mac Shin vượt biên trở lại nội địa. Tình báo Pháp ghi HCM nhận được tài trợ ít nhất 1 triệu quan TH [500 MK] một tháng. (22)
A. TOÁN CON NAI [DEER TEAM]:
Tháng 5/1945, Hồ phong Giáp làm Tư lệnh Việt Nam Giải Phóng Quân, mở đường về phía tây nam, thành lập căn cứ ở Kim Lung [Luông], huyện Sơn Dương, Tuyên Quang, phía tây Thái Nguyên và Quốc lộ 3 (Hà Nội đi Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng). Hồ mang Frank Tan cùng Mac Shin theo về Kim Lộng. Cùng đi có 44 người hộ vệ, và 25 phu thồ súng tiểu liên Sten, Thompson, carbines, đạn dược, dụng cụ truyền tin. Cuối tháng 5/1945, Trung úy Dan Phelan nhảy dù xuống Kim Lộng. VM làm một phi trường nhỏ để phi cơ thám thính L-5 có thể hạ cánh.
Ngày 16/7/1945, toán biệt kích Con Nai [Deer Team] của Thiếu tá Allison K. Thomas nhảy dù xuống căn cứ Kim Lung (Luông). Mỹ còn gửi xuống một toán OSS thứ hai, vì Hồ không chấp nhận cán bộ Pháp hay Việt trong quân đội Pháp (đang huấn luyện ở Bách Sắc). Từ đầu tháng 8/1945, Deer Team huấn luyện khoảng 100 “bộ đội Việt Mỹ” do Hồ cung cấp. Theo Thomas, Giáp là “Văn,” nhân vật thứ hai trong Ủy Ban Lãnh Ðạo chín [9] người của Mặt Trận Việt Minh. Trong công điện gửi về Côn Minh ngày 17 và 20/7/1945, Thomas cho rằng Hồ Chí Minh (M. C. Hoo) hay Văn [Võ Giáp] không phải là Cộng Sản. Mặt Trận Việt Minh [VML] chỉ muốn độc lập và tự do. Hai tháng sau, trong báo cáo tổng kết ngày 17/9, dù ngưỡng mộ cả Hồ và Văn, Thomas nhận định họ khuynh tả, và theo Ðại úy Patti, Hồ là một cán bộ Cộng Sản chính gốc [an outright Communist]. Thomas cho rằng tất cả lãnh tụ Việt Minh, kể cả Hồ và Văn, nếu không phải là Cộng Sản thuần thành thì cũng tả khuynh; một số có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa [socialism]. Nhưng đại đa số đoàn viên chưa bao giờ nghe đến tiếng Cộng Sản, hay hiểu Cộng Sản là gì. Với Mỹ, theo Thomas, Hồ và Văn rất thân thiện, chăm sóc tận tình. Quan trọng hơn cả, Thomas thủ diễn vai đặc sứ của Hồ, gửi ra ngoài tất cả những tin tức về Việt Minh, nhất là mục đích đòi độc độc lập, tự do trong vòng từ 5 tới 15 năm. (23)
Trích từ HopluuTháng 5/1945, Hồ phong Giáp làm Tư lệnh Việt Nam Giải Phóng Quân, mở đường về phía tây nam, thành lập căn cứ ở Kim Lung [Luông], huyện Sơn Dương, Tuyên Quang, phía tây Thái Nguyên và Quốc lộ 3 (Hà Nội đi Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng). Hồ mang Frank Tan cùng Mac Shin theo về Kim Lộng. Cùng đi có 44 người hộ vệ, và 25 phu thồ súng tiểu liên Sten, Thompson, carbines, đạn dược, dụng cụ truyền tin. Cuối tháng 5/1945, Trung úy Dan Phelan nhảy dù xuống Kim Lộng. VM làm một phi trường nhỏ để phi cơ thám thính L-5 có thể hạ cánh.
Ngày 16/7/1945, toán biệt kích Con Nai [Deer Team] của Thiếu tá Allison K. Thomas nhảy dù xuống căn cứ Kim Lung (Luông). Mỹ còn gửi xuống một toán OSS thứ hai, vì Hồ không chấp nhận cán bộ Pháp hay Việt trong quân đội Pháp (đang huấn luyện ở Bách Sắc). Từ đầu tháng 8/1945, Deer Team huấn luyện khoảng 100 “bộ đội Việt Mỹ” do Hồ cung cấp. Theo Thomas, Giáp là “Văn,” nhân vật thứ hai trong Ủy Ban Lãnh Ðạo chín [9] người của Mặt Trận Việt Minh. Trong công điện gửi về Côn Minh ngày 17 và 20/7/1945, Thomas cho rằng Hồ Chí Minh (M. C. Hoo) hay Văn [Võ Giáp] không phải là Cộng Sản. Mặt Trận Việt Minh [VML] chỉ muốn độc lập và tự do. Hai tháng sau, trong báo cáo tổng kết ngày 17/9, dù ngưỡng mộ cả Hồ và Văn, Thomas nhận định họ khuynh tả, và theo Ðại úy Patti, Hồ là một cán bộ Cộng Sản chính gốc [an outright Communist]. Thomas cho rằng tất cả lãnh tụ Việt Minh, kể cả Hồ và Văn, nếu không phải là Cộng Sản thuần thành thì cũng tả khuynh; một số có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa [socialism]. Nhưng đại đa số đoàn viên chưa bao giờ nghe đến tiếng Cộng Sản, hay hiểu Cộng Sản là gì. Với Mỹ, theo Thomas, Hồ và Văn rất thân thiện, chăm sóc tận tình. Quan trọng hơn cả, Thomas thủ diễn vai đặc sứ của Hồ, gửi ra ngoài tất cả những tin tức về Việt Minh, nhất là mục đích đòi độc độc lập, tự do trong vòng từ 5 tới 15 năm. (23)
Những entry liên quan đã đi trên blog Giao:
- Chiến công đầu tại Thái Nguyên năm 1945 : Tình cảm cá nhân của anh Văn đã chinh phục Thomas
- Người Mĩ cùng Việt Minh đi từ Thái Nguyên xuống Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 : Không phải Patti, mà là Thomas - Đồi phong Tướng và ATK Định Hóa : Vị trí của Thái Nguyên trong kháng chiến
- Hơn một tuần lễ ở Thái Nguyên : Vai trò trọng yếu của giải phóng Thái Nguyên đối với Cách mạng Tháng Tám
- Trần Dân Tiên viết về Võ Nguyên Giáp đánh Nhật năm 1945 : Lược bỏ sự giúp đỡ của một người Mĩ
Xem thêm:- Chiến công đầu tại Thái Nguyên năm 1945 : Tình cảm cá nhân của anh Văn đã chinh phục Thomas
- Người Mĩ cùng Việt Minh đi từ Thái Nguyên xuống Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 : Không phải Patti, mà là Thomas - Đồi phong Tướng và ATK Định Hóa : Vị trí của Thái Nguyên trong kháng chiến
- Hơn một tuần lễ ở Thái Nguyên : Vai trò trọng yếu của giải phóng Thái Nguyên đối với Cách mạng Tháng Tám
- Trần Dân Tiên viết về Võ Nguyên Giáp đánh Nhật năm 1945 : Lược bỏ sự giúp đỡ của một người Mĩ
Henry A. Prunier: Người lính Mĩ đã huấn luyện quân đội Việt Nam
OSS và Hồ Chí Minh - Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
*****