Tim thông tin blog này:

Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2017

Chuyện ở K - xã tôi đảm nhiệm (I)

Một thanh niên chưa kinh nghiệm đi xây dựng chính quyền, đoàn thể. Một đoàn viên xây dựng nòng cốt phát triển tổ chức đảng. Một trung sĩ từ rừng bước ra không nghiệp vụ đi làm công tác địch vận và tình báo cơ sở. Thế mới hiểu, vì sao tiền thân Quân đội NDVN mang tên Đội VN Tuyên truyền Giải phóng quân, vì sao lời thề quân đội ta từ lâu đã có câu "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành...".
Mặc định, đã là người lính là cầm súng và phục vụ chiến đấu nhưng trong cuộc đời không ít người  có khi làm công việc tréo ngoe. Tổ chức phân công, chỉ huy giao nhiệm vụ cứ thế mà làm, mò mẫm,  chưa biết rồi sẽ biết. Trong số đông đó có tôi.

Năm 79, đại đội 4 tiểu đoàn 2 thuộc đoàn 5503 đóng quân ở bản Tà Đẹt bên bờ sông Sê Kong. Tôi đang phụ trách Trung đội làm nhiệm vụ thường ngày như bảo vệ đường quốc lộ từ thị xã Stung Treng đi huyện Siem Pang, phục kích và truy quét tàn quân Pol Pot trên địa bàn đảm nhiệm. Vào cuối năm, có lệnh gọi về Đoàn 5503 tập trung cùng một số anh em các đơn vị khác để tập huấn công tác giúp bạn Campuchia ở cơ sở xã. Lý do tôi được chọn là do biết một ít tiếng Lào và Campuchia (CPC) và quen dẫn lính của đơn vị đi vận động quần chúng, giúp dân. Chỉ đạo chung lớp tập huấn và cũng là người truyền đạt chính - Trung tá Trần Quảng , thủ trưởng Đoàn 578 cũ của tôi, thời ở Ja Bốc, Sa Thầy KT, đơn vị giúp bạn xây dựng lực lượng nòng cốt cho quân khu Đông Bắc CPC. Nội dung học về lịch sử, đất nước, con người Campuchia, công việc vận động quần chúng, giúp bạn xây dựng mọi mặt từ số 0 thành có...
Sau chừng một tuần, từng người nhận quyết định làm Đội trưởng đội công tác môt xã nào đó, chúng tôi toả đi về các xã, nhiều người thay đổi đơn vị chủ quản. Tuỳ tình hình của xã mà đơn vị biên chế một số chiến sĩ vào đội, nếu xã gần đơn vị, an ninh tốt thì có 1, 2 chiến sĩ đi cùng. Tôi được điều về  phụ trách xã Siem Bok, huyện cùng tên Siem Bok thuộc địa bàn của đại đội 7, tiểu đoàn 12 (sang năm 80 thì đội CT trực thuộc thẳng Ban chỉ huy tiểu đoàn). Xã nằm bên kia sông Mê Kong chếch với BCH tiểu đoàn cùng Uỷ ban huyện ở phía tả ngạn, từ xã về huyện đi thuyền mất một buổi. Xã có địa hình trải rộng, phía tây giáp với tỉnh Kompong Thom, phía nam giáp tỉnh Kro Chê. Gồm có 5 phum (bản), 3 phum dọc sông, 2 phum trong rừng, phum xa nhất cách sông khoảng 10 cây số. 2 phần 3 là người dân tộc Khmer, còn lại là dân tộc thiểu số Cuôi...

Đội được biên chế khoảng chục người. Tôi đề xuất cấp trên cử Giảng (hạ sĩ) là Đội phó. Đội được trang bị 1 súng trung liên RPD, 1 súng phóng lựu M79, còn lại là súng AK và M16, mỗi người 3 băng đạn và 2 lựu đạn M67, có 1 y tá, không phương tiện thông tin liên lạc.

Cú địch vỗ mặt ta đầu tiên.
Đội nằm ở phum Ô loong, có đại đội 7 đóng quân gần đó. Việc đầu tiên, tôi tiếp cận làm quen với dân làng và cán bộ phum (chỉ định lâm thời) của bạn để tìm hiểu tình hình địch, ta.
Chưa ấm chân, đâu chừng 4 tháng sau (đầu năm 80), Đại đội rút quân chỉ còn lại Đội công tác, một tối quân Pol Pot tập kích bắn vào phum, trong lúc tôi về Tiểu đoàn họp. Cháy một số nhà dân, không tổn thất nhân mạng nhưng dân tình sợ quá kéo nhau dời sang ở cồn (đảo) P'riel cách với đất liền một dòng sông nhánh nhỏ. Dân nói: sở sĩ chúng đánh là để dằn mặt dân phum (đa số là người dân tộc Kuôi) cứng đầu theo bộ đội Việt Nam. Tôi hỏi Giảng đội phó: Rồi mình có làm gì không? Giảng đáp: Em thấy lửa cháy ngợp trời, địch không biết bao nhiêu, ta có mấy mống, án binh bất động chứ dám làm gì, anh. Phải tay tôi hiếu chiến thì tối đó chắc chắn địch không dễ gì yên!

Địch đói về phum kiếm ăn bị diệt, neo giữa sông.
Từ ngày dân Ô loong bỏ phum cũ ra đảo ỏ xây dựng lại đời sống mới, tôi đoán thế nào địch đói cũng về kiếm ăn ở cái phum hoang đó như bẻ thuốc lá hút, hái trái cây... Một sáng nọ, tôi cũng 5 đội viên từ nơi đóng quân phum Siem Bok đi dọc bờ sông xuống lùng sục phum cũ Ô loong, cách đó chừng 5 cây số. Đến gần nơi, chúng tôi đi vòng phía rừng xuống cuối phum rồi đi lùng ngược lên. Quả là địch bất ngờ, chúng tôi nhác thấy 2 tên Pol Pot đứng dưới gốc xoài, 1 tên đang trèo lên cây hái. Thấy bóng quân ta. địch vùng chạy, tôi nhìn địa hình biết chắc thế nào chúng cũng chạy về hướng rừng phải băng qua ruộng trống. Tôi chỉ hướng, dẫn lính chạy cắt xéo ra ruộng để chặn. Ta vừa đến nới thì thấy 3 tên đã chạy băng qua ruộng, thế là tất cả quỳ nã đạn bắn theo. Súng AK đồng loạt quất theo, đạn cày đất ruộng, rồi 1 quả B40 trùm lên mù mịt mà bóng người vẫn nhấp nhô phía trước... từ cự ly 50 mét, rồi 70, xa thêm 100 mét. Một tên giật nảy người ngã xuống, 1 tên trúng đạn bị thương chạy cà nhắc và 1 tên nữa kịp thoát vào rừng. Tuy là đồng trống nhưng do mục tiêu di động mà anh em chạy rượt theo nữa nên mệt, tay súng bị rung, nếu không 2 tên còn lại khó thoát.
Chúng tôi đến lục soát tên chết xem có gì hưởng sái không nhưng thấy quá thảm, đói nát chẳng có gì đáng lấy. Lâu sau, dân về phum cũ nghe súng nổ và tiếng hô hoán của bộ đội, họ đến xem, dùng dao cắt lấy mấy cúc áo để dùng...
Hai ngày sau, chúng tôi xuống lại chỗ cũ thì thấy không còn xác tên chết. Hỏi dân: nó đâu? Dân nói: kéo thả sông rồi. Họ dẫn chúng tôi ra bờ sông, tôi thấy một xác trương phình neo giữa sông, một đầu dây mây cột vào cổ, đầu dây cột vào tảng đá. Tôi hỏi dân: sao lại làm thế, họ bảo: nó ác, đáng bị xử như vậy. Chắc là họ căm thù vì chúng đã bắn cháy nhà họ mấy tháng trước đó.

Con cá sống nhờ nước.
Đội chúng tôi chuyển về ở phum cùng tên với xã Siem Bok, nằm ở vị trí trung tâm của xã.
Mỗi ngày, sáng hoặc chiều, tôi cử một tổ 3 lính đi tuần khu rừng xen lẫn ruộng rẫy của dân, vòng ngoài phum (làng) trong bán kính chừng 3 km để phát hiệu dấu hiệu địch từ xa, đề phòng địch tiếp cận tập kích chỗ đóng quân của ta. Trước đó, một bài học đã có: đội công tác ở xã Ô Rây, huyện Tha La bị địch núp men theo trâu bò thả rông, tập kích vào Đội trong đêm, làm chết và bị thương một số anh em, đội tan tác. Xã ở độc lập xa Tiểu đoàn nên quan điểm của tôi là phải chủ động tích cực quậy địch chứ không để nó quậy mình, lúc nào cũng nhắc nhở chiến sĩ cảnh giác cao độ, vui chơi chớ lơ là mất cảnh giác, hết sức tiết kiệm đạn, hạn chế bắn thú rừng.
Đội công tác ở một nhà sàn lớn bỏ hoang, kế là nhà dân và ruông, một mặt gần sông một phía gần suối. Gần nhà, tôi bảo anh em đào vài đoạn hầm gọi là dây thông hào để khi có biến nhảy xuống chiến đấu, đêm phân công luân phiên mỗi người gát 2 giờ.
Một thời gian, tôi tổ chức xây dựng một Đội công tác bạn 6 người, có đội trưởng, đội phó cùng hoạt động song hành với bên ta. Họ hưởng chế độ quân nhân CPC.
Hằng ngày, tôi quan hệ làm việc với dân và cán bộ bạn có khi thông qua Đội trưởng công tác bạn, có khi trực tiếp. Đám lính tráng thì đêm gác ngày đi tuần tra vòng ngoài, số rảnh đi xuống phum chơi, nghe ngóng tình hình cũng là kiếm đồ ăn uống, kiếm thuốc lá hút. Nếp sống của dân ở đây theo nếp cộng đồng dân tộc thiểu số. Dân K (Campuchia) hay thương người, thấy bộ đội khổ, có đồ ăn ngon là chia sẻ cho ta. Bộ đôi hay gọi những người lớn tuổi là "bố", "mẹ". Dân đánh cá hoặc dân quân săn thú được tiếp tế cho bộ đội, có khi họ mang đến tận chỗ ở. Tôi và nhiều anh em lính tình nguyện mãi biết ơn sự đùm bọc cưu mang của dân trong những ngày gian khó.
Tôi hay nói với anh em đừng sợ địch cài cắm trà trộn mà sợ, con cá sống nhờ nước, cứ bám chặt lấy dân ta sống, ta gần dân quân ta ấm lưng. Dân thương bộ đội biết có địch sẽ bí mật báo ta cảnh giác. Tôi sống chan hoà với anh em cấp dưới nhưng rất nghiêm khắc về kỷ luật và thường xuyên nhắc nhở với chiến sĩ trong quan hệ. Anh em ghiền thuốc lá, ban đêm lén bẻ lá thuốc dân trồng để hút, tôi biết, phê phán nặng lời (sau này mình ghiền thuốc mới thấy hiểu, ân hận). Một y tá trộm món đồ nhỏ của dân, tôi bắt làm kiểm điểm rồi trả về Tiểu đoàn, thà không có người.

Giữa năm 1980, theo chỉ đạo chung của Đoàn 5503 và chuyên gia dân chính tỉnh Stung Treng, sau nhiều tháng thăm dò sàng lọc về lý lịch, trình độ, năng lực, chúng tôi và đội công tác bạn cũng xây dựng được chính quyền đoàn thể và lực lượng dân quân xã. Đại khái chọn từ những người không dính liếu với chế độ Pol Pot, có học vấn từ lớp 7, 8 trở xuống (không có người học cao hơn), có thiện cảm nhất định với Việt Nam... Mô hình như Việt Nam, gồm Uỷ ban xã có Chủ tịch, Phó CT, Xã đội trưởng, Trưởng công an, Phụ trách đoàn thể, Phụ trách văn hoá xã hội... các Phum có phum trưởng và phó.
Một trung đội dân quân xã chừng 20 người, được trang bị súng trường CKC. Trung đội trưởng, tôi chọn là ông Ly Diệt - tầm 50 tuổi, người Chàm, không biết chữ nhưng gan dạ và trung thành với VN. Hằng ngày trực tại Uỷ ban xã 2 người, còn lại ở các phum sinh sống, khi có lệnh thì tập trung cùng bộ đội làm nhiệm vụ. Đây là lực lượng sát cánh cùng 2 đội công tác ta, bạn trong mọi hoạt động đánh địch bảo vệ dân, hầu như mọi biến cố xảy ra tại xã đều có nhau.

Địch cùng dân bắt cá, rồi chạy thoát.
Một lần, đội công tác chúng tồi đi lùng sục khá xa đến ThMai, phum này ít dân có tầm 20 nóc nhà. Đang mon men đi dọc theo suối thì bống nghe tiếng người nói ồn ào, chúng tôi tiếp cận. Thấy 4-5 người, cả người lớn lẫn trẻ con đang tát nước bắt cá, lạ sao trên bờ có một khẩu AK trong khi đó dân quân chỉ được trang bị súng trường CKC. Nghi có địch lẫn vào, tôi lên tiếng vặn hỏi súng của ai? dân ú ớ không trả lời thì thấy một thanh niên dáng hơi mập tròn khoát ống nước đi nhanh theo lòng suối cạn xa dần đám đông. Tôi không dám bắn vì chưa xác định được người, sợ nhầm dân nên chạy trên bờ đuổi theo, miệng truy hỏi, hắn không trả lời, rồi dọt lên bờ vụt chạy vào hướng rừng, Đứng lại, dương súng định bắn thì đã muộn, mất hút. vậy là thả sổng 1 tên chỉ thu được khẩu súng.

Quân cùng đội công tác choảng nhau.
Một tối nọ, tầm 11 giờ đêm, dân và bộ đội đang múa hát rom vông, vui chơi mừng một sự kiện gì đó ở phum Siem Bok. Bỗng nghe mấy tiếng nổ lớn, tiếp sau là vài loạt súng ở hướng phum ThMai, cách đó chừng 3 km. Không rõ việc gì nhưng tôi đoán có lẻ quân Pol Pot đánh vào ThMai uy hiếp dân quân để cướp bóc chi đây,  Nhân đang có trung đội dân quân tập trung nên tôi bàn cùng bạn kéo đi chi viện. Lực lượng phối hợp có đội công tác ta, đội công tác bạn và dân quân, khoảng 25 tay súng. Đề phòng địch đón phục kích nên tôi bảo dân quân rành địa hình, không đi theo đường xe bò quen thuộc mà cắt băng rừng. Đến bìa phum, tôi bảo Giảng đội phó dẫn một mũi chừng 10 người đi vòng phía hông bọc vào phum, mũi của tôi chừng 15 người tiến theo hướng chính diện. Chúng tôi men theo nhà dân dọc phum, đi lom khom chậm chậm từng bước, nghe ngóng thăm dò tình hình. Dưới ánh trăng mờ mờ, không một bóng người dân, không chó mèo, quần áo lúa gạo rơi vãi trên đường đi, không khí lặng yên một cách rợn người. Tôi nghĩ thầm: thật lạ, địch đã rút còn dân đi đâu chẳng thấy ai là nghĩa thế nào? Một lát, chợt thấy 2 bóng người lờ mờ, có vẻ đang nhổ hành trên kệ. Chúng tôi nhẹ nhàng bám theo, khi khá gần mới lên tiếng hỏi: ai? hai bóng đen im lặng không trả lời. Nhìn không rõ có súng hay không, tôi phân vân địch hay dân, nếu bắn sợ biết đâu là dân bị tiếng nổ của súng lớn điếc tai, hoản loạn chăng? hai bóng đen đi chậm chậm xa ra, rồi vụt chạy hướng ra rừng. Chắc địch rồi, thế là quân ta dàn ngang nổ súng như bắp rang bắn theo, dân quân được dịp bắn vô tư vì biết sẽ được cấp lại đạn. Tích tắt phía trước hướng địch chạy thoát có tiếng súng nhá lửa khạc lại, tôi la lớn: nó bám ụ mối chơi lại rồi anh em ơi. Đẩu xạ thủ B40 ngồi cạnh tôi lâu nay mang mấy quả đạn mòn lưng mà chưa có dịp thử quả nào, Đẩu nói: để em, để em! siết cò, "Bập". "Bình"... một cầu lửa trùm lên phía rừng. Phía bên kia im bặt, bỗng nghe loáng thoáng âm tiếng Việt: tụi em. tui em đây! Tôi hét đến khản cổ lệnh dừng bắn, một lát tốp của Giảng đội phó tiến vào. Tôi nói: tí nữa thì chết mẹ rồi, sao vậy? Giảng bảo: nó chạy qua hướng em vào nên bọn em bắn, bên anh chơi 1 quả B40 nổ trên cây chứ không thì toi cả lũ. Thì ra ban đêm nghe tiếng súng phía trước, thấy nhá lửa không phân biệt hướng bắn. Tốp của Giảng thì biết tốp trong, nhưng phía tôi không biết tốp Giảng bên ngoài vào hướng đó và bắn nên tưởng nhầm địch trụ đánh trả. Mẹ! hai thằng Pot láu cá thiệt, không chạy ngay nên sống. Hội quân xong, chúng tôi tiếp tục lùng sục trong phum tìm dân, khi nghe tiếng bộ đội ta và dân quân thì dân ở dưới mấy cái hầm ẩn nấp có từ thời Mỹ thả bom, họ mới lên tiếng rồi lên. Vài chục quân Pol Pot ở trong rừng quá đói, nên nã súng vào phum, dân chạy trốn, cướp lúa gạo rồi rút. Địch rút theo đường xe bò, nếu chúng tôi không đi cắt rừng mà theo đường này vào thì đã choảng được chúng.



Tìm kiếm Blog này