* Người Mỹ gốc Việt (tiếng Anh: Vietnamese American) là những người định cư tại Hoa Kỳ có nguồn gốc dân tộc Việt. Với tổng dân số được ước tính là 1,548,449 người gốc Việt trong năm 2010, họ chiếm trên một nửa dân số người Việt hải ngoại trên thế giới. Họ cũng là cộng đồng dân tộc gốc Á lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, sau người Mỹ gốc Hoa, người Mỹ gốc Ấn, và người Mỹ gốc Philippines.
Người Việt di cư đến Hoa Kỳ bằng số đông kể từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975,
với những người nhập cư đầu tiên là những người tị nạn cộng sản từ
miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân
được cộng đồng quốc tế cứu vớt. Gần đây, những người Việt định cư vào
Hoa Kỳ chủ yếu là để đoàn tụ gia đình. Bắt đầu từ hai bàn tay trắng,
người Mỹ gốc Việt đã hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ và trở thành một cộng
đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này.Từ những năm 1998 và nhất là sau năm 2000,
làn sóng di dân chính thức từ Việt Nam cũng bắt đầu qua con đường du
học, du lịch, tu nghiệp, kết hôn, hay đi công tác, tiếp thị rồi tìm
cách ở lại luôn (dù là di dân "lậu") ngày càng nhiều hơn; nhất là khi
Mỹ ồ ạt tạo điều kiện cho rất nhiều du học sinh trẻ từ Việt Nam đến
Mỹ.
* Hoa Kỳ có 1,548,449 người gốc ViệtTài
liệu chính thức của Census 2010, vừa được công bố, cho thấy một cộng
đồng gốc Việt năng động, trẻ hơn tuổi trung bình toàn quốc, và lớn
hàng thứ tư trong số di dân gốc Á tại Hoa Kỳ. Mặc dầu tốc độ gia tăng
dân số gốc Việt chậm lại trong 10 năm qua, cộng đồng chúng ta “nói
tiếng Việt ở nhà” nhiều hơn các sắc dân khác. Trong 10 năm, dân số gốc
Việt tăng gần nửa triệu người, và ngay tại thời điểm này, tổng số
người mang họ Việt Nam tại Hoa Kỳ là: 1,548,449Dân Số Gốc Á tại Hoa Kỳ : Cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ có tổng cộng 1,548,449 người, theo công bố chính thức của thống kê dân số 2010 (Census 2010).
Trung Quốc: 3,347,229Ấn Ðộ: 2,843,391Philippines: 2,555,923Việt Nam: 1,548,449Hàn Quốc: 1,423,784Nhật Bản: 763,325Các sắc dân Á Châu khác: 2,192,151
|
10 quận có cộng đồng gốc Việt lớn nhất Hoa Kỳ, theo thống kê dân số Census 2010. Cả 3 quận đứng đầu đều thuộc về tiểu bang California. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt) |
Cộng Ðồng Gốc Việt, 2000-2010
Năm 2000: 1,122,528 ngườiNăm 2010: 1,548,449 ngườiTăng: 425,921 người (37.9%)
Khoảng 3/4 người Mỹ gốc Việt tập trung ở 10 tiểu bang; với tiểu bang đông nhất là California. Ðứng thứ nhì là Texas, thứ ba là tiểu bang Washington.
|
Di dân gốc Việt chiếm hơn 9% tổng di dân gốc Á tại Hoa Kỳ. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt)
|
Tính theo các khu vực đô thị (metropolitan area), vùng Los Angeles - Long Beach - Santa Ana đông dân Việt Nam nhất, với 271,000 người. Kế đến là vùng San Jose - Sunnyvale - Santa Clara với 126,000 người; vùng Houston - Sugar Land - Baytown với 104,000 người; Dallas - Fort Worth - Arlington với 72,000 người; và Washington DC - Arlington - Alexandria 59,000 người.
|
Trong 10 năm, từ 2000 đến 2010, cộng đồng gốc Việt tăng 37.9% dân số, thấp hơn các sắc dân gốc Á khác. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt) |
Tuy nhiên, xếp theo tỷ lệ gốc Việt so với cư dân toàn thành phố, “vương miện” được trao cho thị trấn Midway, California, với 41% cư dân gốc Việt (Tuy nhiên, thị trấn Midway không có quy chế thành phố, và vì thế không có cơ cấu chính quyền riêng).
10 Tiểu Bang Ðông Người Việt Nhất
California: 581,946 (tăng 30% trong 10 năm)Texas: 210,913 (tăng 56% trong 10 năm)Washington: 66,575 (tăng 44% trong 10 năm)Florida: 58,470 (tăng 76% trong 10 năm)Virginia: 53,529 (tăng 43% trong 10 năm)Georgia: 45,263 (tăng 56% trong 10 năm)Massachusetts: 42,915 (tăng 26% trong 10 năm)Pennsylvania: 39,008 (tăng 30% trong 10 năm)New York: 28,764 (tăng 21% trong 10 năm)Louisiana: 28,352 (tăng 16% trong 10 năm)
Ðứng sau thị trấn Midway là các thành phố khác, cũng thuộc California: Westminster (40%); Garden Grove (27.7%); Fountain Valley (21%).
Thành phố Morrow City, thuộc tiểu bang Georgia, có tỷ lệ gốc Việt khá cao: 20%.
|
Cứ 100 người gốc Việt tại Mỹ, có 12 người sống ở mức nghèo khó. Theo tiêu chuẩn này, cộng đồng gốc Việt chỉ “giàu” hơn 2 cộng đồng gốc Á khác, là Hmong và Cambodia. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt) |
Census 2010 trích dẫn thống kê của American Community Survey (ACS) phổ biến năm 2007, cho biết, so với các cộng đồng khác, di dân gốc Việt có tỷ lệ “sử dụng tiếng mẹ đẻ ở nhà” tăng mạnh nhất (511%), tính từ năm 1980 đến 2007.
Về tuổi tác, ACS cho biết tuổi trung vị của cộng đồng gốc Việt là 35.4, so với 35.7 của các sắc dân Á Châu, và 36.8 của toàn quốc Hoa Kỳ.
10 Thành Phố Ðông Người Việt Nhất
San Jose, California: 100,486
Garden Grove, California: 47,331Westminster, California: 36,058Houston, Texas: 34,838San Diego, California: 33,149Santa Ana, California: 23,167Los Angeles, California: 19,969Anaheim, California: 14,706Philadelphia, Pennsylvania: 14,431New York city, New York: 13,387
Trong tổng số gần 1.6 triệu người Việt hiện đang ở Mỹ, giới trẻ 17 tuổi trở xuống chiếm 26%, so với 44% của cộng đồng người Hmong, 28% của người Cam Bốt, và 27% của người Lào, và so với 20% của toàn quốc.
Người gốc Việt trên 65 tuổi tại Hoa Kỳ chiếm 8% so với cộng đồng già nhất là Nhật Bản (22%) và so với 13% trên toàn quốc.
Về gia cảnh, 57% người gốc Việt có gia đình, 31% chưa bao giờ lập gia đình, khoảng 7% ly dị, 1% ly thân, và 4% góa vợ (hoặc chồng).
|
22% người Mỹ gốc Việt được sinh ra tại Mỹ; số còn lại sinh ra bên ngoài nước Mỹ. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt) |
Gia đình trung bình của người Việt có 4 người và lợi tức trung bình $59,000 một năm so với $47,000 của người Hmong (thấp nhất), $99,000 của người Ấn Ðộ (cao nhất), và $62,000 của toàn quốc.
Tỷ lệ người gốc Việt trên 16 tuổi có công ăn việc làm là 67%, đứng hàng thứ Tư trong cộng đồng di dân Á Châu, vào nhỉnh hơn tỷ lệ toàn quốc, 65%.
Khoảng 65% gia đình gốc Việt làm chủ căn nhà mình đang ở, (ngang với cộng đồng người Philippines) so với 48% của người Hmong và 66% của toàn quốc.
Census 2010 trích dẫn bản tường trình của Survey of Business Owners (SOB) công bố năm 2007 cho biết số cơ sở thương mại do người Việt làm chủ tăng 56% từ năm 2002 đến nay so với 40% của các sắc dân Á Châu khác.
Cũng theo bản tường trình năm 2007 của SOB, số cơ sở thương mại của người gốc Việt lên tới 229,000, tương đương 15% của toàn bộ di dân gốc Á, với doanh thu $28.8 tỷ một năm.
Gần 30,000 trong số những cơ sở thương mại này là các công ty tạo ra công ăn việc làm, mướn tổng cộng 166 ngàn nhân viên, với doanh thu $21 tỷ trong năm 2007, tăng 82% so với năm 2002.
Gần 67% cơ sở thương mại của người gốc Việt thuộc ngành bảo trì, sửa chữa, dịch vụ cá nhân, giặt giũ và bán lẻ, chiếm con số cao nhất trong nhóm di dân Á Châu.
Về việc thực thi quyền công dân, nhìn chung người Mỹ gốc Á ghi danh đi bầu và thực sự đi bầu ít hơn người dân bản xứ.
Census 2010 trích thống kê của Current Population Survey (CPS) công bố năm 2008 cho thấy tỷ lệ di dân gốc Á ở tuổi đi bầu khá thấp, ở mức 55% so với 71% của toàn quốc.
Ðã thế, chỉ có 48% người ở tuổi này ghi danh đi bầu, so với 64% của toàn quốc.
Cũng theo tài liệu của CPS, người nhập tịch Hoa Kỳ gốc Á ghi danh đi bầu đông hơn những người gốc Á sinh ra ở Mỹ.
|
Trong 5 năm, từ 2002 đến 2007, cộng đồng doanh nghiệp gốc Việt tại Mỹ có thu nhập cao hơn. (Hình: Khoa Vũ/Người Việt) |
Nhìn một cách tổng quát, cộng đồng gốc Việt tại Hoa Kỳ tương đối trẻ, xét về tuổi (35.4), tỷ lệ giới trẻ từ 17 tuổi trở xuống (26%), và tỷ lệ người 65 tuổi trở lên (8%), so với các con số tương ứng 36.8, 20% và 13% cho toàn quốc.
Với khuynh hướng gia đình, người gốc Việt có tỷ lệ ly dị 6%, thấp hơn tỷ lệ chung toàn quốc (11%), và đơn vị gia đình (3.9 người/gia đình) cũng đông hơn tỷ số trung bình toàn quốc, 3.1.
Về đời sống kinh tế, cộng đồng gốc Việt có mức lợi tức trung bình hàng năm hơi thấp ($59,000) so với $62,000 toàn quốc. Tuy nhiên, tỷ lệ người gốc Việt làm chủ căn nhà mình đang ở là 65% so với 66% của toàn quốc cho thấy tính cần kiệm và quan điểm “an cư lạc nghiệp” của cộng đồng chúng ta.
Hà Giang/Người Việt(Liên lạc tác giả: HaGiang@nguoi-viet.com)
Lịch sử Người Mỹ gốc Việt
Đợt thứ nhất
Lịch
sử của người Mỹ gốc Việt chỉ mới diễn ra gần đây trong khoảng ba chục
năm đổ lại. Trước 1975, những người Việt tại Mỹ là vợ hoặc con của
những người lính Mỹ tại Việt Nam hoặc là học sinh, sinh viên du học,
thương gia hay là thân nhân của viên chức VNCH công tác tại Mỹ đến định
cư ở Mỹ, và con số này không đáng kể. Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc Chiến tranh Việt Nam,
làn sóng tị nạn đầu tiên bắt đầu. Nhiều người có mối quan hệ với Mỹ,
sợ sự trả đũa của chính quyền mới, là làn sóng người đầu tiên rời Việt
Nam vào mùa xuân năm 1975, gồm khoảng 125.000 người mà đa số là gia
đình những người trí thức. Họ được chính phủ Hoa Kỳ vận chuyển bằng máy
bay đến những căn cứ tại Philippines và Guam,
và sau đó được di chuyển đến những trung tâm tị nạn khắp nước Mỹ.hững
người tị nạn này, lúc đầu không nhận được sự hoan nghênh của dân chúng
Hoa Kỳ; một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 1975 cho thấy chỉ có 36%
người dân Hoa Kỳ chấp nhận việc nhập cư của người Việt. Tuy vậy, Tổng
thống Gerald Ford và những viên chức khác ủng hộ họ một cách mạnh mẽ bằng việc thông qua Đạo luật Di trú và Người Tị nạn Đông Dương (Indochina Migration and Refugee Act)
trong năm 1975, cho phép họ nhập cư đến Hoa Kỳ bằng một vị thế đặc
biệt. Những người Việt tị nạn được định cư rải rác khắp nước để giảm
thiểu tác động của họ đối với những cộng đồng địa phương và hạn chế sự
hình thành những khu vực tập trung dân tộc thiểu số. Tuy thế, trong vài
ba năm thì hầu hết người Việt tị nạn đã tái định cư tại California và Texas, khiến hai tiểu bang này có dân số người Mỹ gốc Việt cao hơn cả. Ở trại Chaffee nơi tạm cư của người tỵ nạn năm 1975 có tấm bia ghi sự kiện này.
Đợt thứ 2
Năm 1976 bắt đầu làn sóng người Việt tị nạn thứ hai cho đến giữa thập niên 1980.
Nỗi lo của những người tị nạn đi trước đã biến thành sự thật. Ngay
sau khi thống nhất Việt Nam, chính quyền mới tập trung những người có
liên quan đến chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đưa họ đến những "trại cải tạo". Bên ngoài, các trại cải tạo này là để dạy những người trong trại chủ nghĩa Marx-Lenin
trong vài ba tháng. Nhưng sự thật những trại này là những trại lao
động khổ sai ở những nơi hẻo lánh, và sự giam giữ học tập có thể kéo
dài hơn mười năm. Nhiều người khác phải đương đầu với nỗi lo bị cưỡng
bách di cư đến những vùng "kinh tế mới". Nguyên nhân quan trọng khác
là chính sách chuyên chính vô sản của chính quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Chính sách lúc đó giới hạn tối đa các quyền tự do dân sự
cũng như quyền tự do kinh tế của người dân, gây ra tình trạng khốn khổ
cho dân chúng trong mọi mặt của đời sống. Khoảng hai triệu người trở
thành thuyền nhân, vượt biên trong những chiếc ghe nhỏ chật chội, cực kỳ nguy hiểm trước những cơn sóng gió bất thần của biển Đông. Nếu thoát được hải tặc Thái Lan, Campuchia, hay những cơn sóng lật úp thuyền, họ thường được đến những trại tị nạn ở Thái Lan, Singapore, Indonesia, Hồng Kông hoặc Philippines, hầu đợi đi định cư ở nước thứ ba. Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Người Tị nạn năm 1980 (Refugee Act of 1980), giảm bớt những giới hạn việc nhập cư, trong khi nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chấp nhận Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program hay ODP) do Hoa Kỳ đề xuất, dưới sự điều khiển của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner for Refugees)
do áp lực của quốc tế và nhu cầu đoàn tụ của nhiều người dân có thân
nhân đã sinh sống tại hải ngoại. Chương trình này cho phép một số
người dân rời khỏi Việt Nam một cách hợp pháp để đoàn tụ gia đình và
những lý do nhân đạo khác. Một vài đạo luật của Hoa Kỳ được thông qua
cho phép con cái của những quân nhân Hoa Kỳ và những cựu tù nhân chính
trị (chương trình HO) và gia đình họ cũng như gia đình những người có
con lai Mỹ được định cư ở Hoa Kỳ. Giữa những năm 1981 và 2000,
Hoa Kỳ tiếp nhận 531.310 người tị nạn từ Việt Nam. Khi các trại tị nạn
ở ĐNÁ đóng cửa thì làn sóng di dân chính thức từ Việt Nam cũng bắt đầu
qua con đường du học, du lịch, tu nghiệp, kết hôn, hay đi công tác,
tiếp thị rồi tìm cách ở lại luôn. Di dân "lậu" từ Việt Nam cũng bắt
đầu nhiều hơn. CĐVN ở Mỹ cũng bắt đầu thay máu.
Đợt thứ 3
Từ những năm 1998 và nhất là sau năm 2000,
làn sóng di dân chính thức từ Việt Nam cũng bắt đầu qua con đường du
học, du lịch, tu nghiệp, kết hôn, hay đi công tác, tiếp thị rồi tìm
cách ở lại luôn (dù là di dân "lậu") ngày càng nhiều hơn; nhất là khi
Mỹ ồ ạt tạo điều kiện cho rất nhiều du học sinh trẻ từ Việt Nam đến Mỹ.
Nhân khẩu
Người
Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư mới nhất tại Hoa
Kỳ, cho nên họ là nhóm có tỷ lệ người lai chủng tộc khác thấp nhất
trong các nhóm người Mỹ gốc Á châu chính. Theo điều tra năm 2000, có đến 1.009.627 người 5 tuổi trở lên tự khai rằng họ nói tiếng Việt ở nhà, làm cho tiếng Việt đứng thứ 7 trong những ngôn ngữ phổ thông tại Hoa Kỳ.Là người tị nạn, người Mỹ gốc Việt có một tỷ lệ nhập tịch khá cao, cao nhất trong các nhóm người gốc Á châu. Trong năm 2007, 72,6% của những người sinh ngoài Hoa Kỳ là công dân, cộng thêm 37,5% số người sinh tại Hoa Kỳ dẫn đến tổng cộng 82,8% người Mỹ gốc Việt là công dân Mỹ.
Theo cuộc khảo sát năm 2007, người Mỹ gốc Việt có tỉ lệ 50,5% nữ và 49,5% nam, và tuổi trung bình là 34,5, so với 36,7 cho toàn bộ dân số Hoa Kỳ. Tỉ lệ tuổi tác cho người Mỹ gốc Việt là:
Tuổi | % người Mỹ gốc Việt | % người Mỹ nói chung |
< 5 | 8,1 | 6,9 |
5-17 | 19,2 | 17,7 |
18-24 | 8,7 | 9,9 |
25-34 | 14,9 | 13,3 |
35-44 | 18,4 | 14,4 |
45-54 | 13,0 | 16,4 |
55-64 | 9,5 | 10,9 |
65-74 | 5,1 | 6,4 |
> 75 | 2,9 | 6,1 |
Tính về trình độ học vấn, người Mỹ gốc Việt có tỉ lệ người chưa tốt nghiệp trung học (26,7%) cao hơn người Mỹ nói chung (15,5%) trong số những người trên 25 tuổi - bởi vì một lượng lớn người Việt khi đến Mỹ đã đến tuổi lao động và cộng thêm tiếng Anh thì không rành. Nhưng số người Mỹ gốc Việt có bằng cử nhân (19,1%) thì cao hơn người Mỹ nói chung (17,4%) - những người Việt này phần lớn là F2, sinh ra tại Mỹ, hoặc đến Mỹ khi còn nhỏ tuổi.
Chính trị
Theo một cuộc nghiên cứu năm 2008 của Học viện Manhattan, người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư có chỉ số hội nhập cao nhất tại Hoa Kỳ.Trong khi chỉ số hội nhập về văn hóa và kinh tế không có gì đặc biệt khi so với các nhóm khác (có thể vì sự khác biệt ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt), chỉ số hội nhập về quyền công dân là cao nhất trong các nhóm người nhập cư đáng kể.
Người Mỹ gốc Việt là những người tị nạn chính trị, xem việc về lại Việt Nam là việc bất khả thi, nên tham gia các hoạt động chính trị tại Hoa Kỳ với tỷ lệ rất cao.
Lập trường chống cộng
Là những người tị nạn cộng sản, nhiều người Mỹ gốc Việt có quan điểm chống cộng mãnh liệt. Trong một cuộc thăm dò ý kiến cho tờ báo Orange County Register năm 2000, 71% người trả lời là việc đấu tranh chống cộng là việc "ưu tiên hàng đầu" hay "rất quan trọng" và 77% coi trọng việc thúc đẩy chính phủ Việt Nam cải thiện chính sách nhân quyền.Người Mỹ gốc Việt thường xuyên biểu tình chống chính phủ Việt Nam, lên án tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, và biểu tình chống đối những cá nhân hay đoàn thể mà họ cho rằng ủng hộ chính quyền Việt Nam. Một thí dụ cụ thể là vào năm 1999, một cuộc biểu tình rầm rộ nhằm chống một người làm nghề cho thuê mướn băng video tại Westminster tên là Trần Trường khi ông này treo cờ của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và một bức hình của Hồ Chí Minh. Số người biểu tình lên đến 15.000 người trong một đêm, gây lên tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ. Trước kia những đảng viên Dân chủ ít được người Mỹ gốc Việt ủng hộ vì họ được xem là khuynh tả hơn, nhưng gần đây họ được nhìn bằng ánh mắt thiện chí hơn bởi thế hệ thứ hai, giới trẻ hay những người có lợi tức kém hơn. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa vẫn giành số người ủng hộ áp đảo: tại Quận Cam số người Mỹ gốc Việt ghi danh theo Đảng Cộng hòa cao gấp đôi số người ghi danh theo Đảng Dân chủ, với tỉ lệ là 55% và 22%, và một cuộc thăm dò ý kiến toàn quốc cho thấy trong năm 2008 tỷ lệ người Mỹ gốc Việt theo đảng Cộng hòa là 29% so với 22% cho đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, 72% cử tri người Mỹ gốc Việt bỏ phiếu cho ứng cử viên Cộng hòa đương nhiệm George W. Bush trong khi chỉ 28% bỏ phiếu cho ứng cử viên Dân chủ John Kerry. Trong một cuộc thăm dò ý kiến cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, 2/3 trong số các cử tri Mỹ gốc Việt đã chọn ứng cử viên có ý định bầu cho ứng cử viên Cộng hòa John McCain.Gần đây, nhiều nhóm người Mỹ gốc Việt đã vận động trong Chiến dịch Cờ Vàng thành công ở một số thành phố và tiểu bang với mục đích dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa cũ làm biểu tượng đại diện cho cộng đồng người Việt tại địa phương. Tháng 8 năm 2006, chính phủ tiểu bang California và Ohio đã thông qua đạo luận để công nhận lá cờ này. Chính phủ Việt Nam phản đối việc này và đây là một trong những điểm gây ra bất đồng trong quan hệ Việt-Mỹ.
Vận động tham chính
Nhiều người Mỹ gốc Việt đã tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu hay bổ nhiệm vào các chức vụ như Đinh Đồng Phụng Việt, trợ lý Bộ trưởng Tư pháp dưới chính phủ của Tổng thống George W. Bush; Cao Quang Ánh, dân biểu liên bang; Trần Thái Văn, dân biểu tiểu bang California; Janet Nguyễn, giám sát viên Quận Cam; Madison Nguyễn, thành viên hội đồng thành phố San Jose, v.v. Phần lớn các vận động chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc Việt qua các cơ quan công quyền vẫn còn lấy chủ nghĩa chống cộng làm trọng tâm. Đáng kể là chuỗi biểu tình 52 ngày chống việc treo cờ đỏ sao vàng và hình của Hồ Chí Minh đầu năm 1999 lôi kéo 15.000 người xuống đường. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2008, thành phố Westminster trở thành thành phố đầu tiên có đa số thành viên trong hội đồng thành phố là người gốc ViệtNăm 2003, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ (Vietnam War Memorial) đã được xây dựng tại Westminster để vinh danh các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam.
Tháng 5 năm 2004, hội đồng thành phố Garden Grove, tiểu bang California nhất thể bỏ phiếu thành lập khu vực "cấm người cộng sản" (No Communist zone) với chủ ý ngăn không cho các phái đoàn nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công du vào vùng Little Saigon. Nếu muốn vào, luật thành phố đòi hỏi phái đoàn báo phải trước 14 ngày để cảnh sát lo an ninh nhưng cũng là thời gian để cộng đồng tổ chức biểu tình chống phái đoàn.
Trong những tháng sau Bão Katrina, cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, một trong những nhóm người đầu tiên trở lại thành phố, đã vận động chống đối việc thiết lập một bãi rác để chứa các mãnh vụn gần nơi cộng đồng sinh sống. Sau nhiều tháng giằng co, bãi rác được đóng cửa, và cộng đồng người Việt xem đây là một chiến thắng, và cộng đồng người Mỹ gốc Việt trở thành một thế lực chính trị tại đây. Năm 2008, luật sư Joseph Cao Quang Ánh, một nhà hoạt động trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, thắng cử ghế dân biểu thứ 2 của Louisiana trong Hạ viện, trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ.
Kinh tếTheo điều tra năm 2007, 64,9% người Mỹ gốc Việt lớn tuổi hơn 16 có thể tham gia lực lượng lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,4%, thấp hơn so với tỷ lệ thất nghiệp của người Mỹ nói chung là 6,3%. 59,3% phụ nữ đủ tuổi tham gia lực lượng lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 4,9%.
31,5% người Mỹ gốc Việt làm nghề quản trị, nghề chuyên nghiệp, hay các công việc liên quan, thấp hơn tỷ lệ 34,6% cho người Mỹ nói chung. 24,9% theo ngành phục vụ, cao hơn người Mỹ nói chung là 16,7%. 18,4% làm việc công việc sản xuất hay vận tải, 18,4% làm việc văn phòng hay buôn bán, 6,1% theo ngành xây dựng, duy trì, hay sửa chửa, và 0,4% theo nông nghiệp, ngư nghiệp, hay lâm nghiệp. 82% người Mỹ gốc Việt làm cho các hãng tư nhân, 9,2% làm việc cho nhà nước, và 8,5% tự làm việc cho mình.
Mỗi gia đình có thu nhập điểm giữa là 59.831 USD, thấp hơn so với thu nhập một gia đình người Mỹ là 61.173 USD. Mỗi gia đình người Mỹ gốc Việt có trung bình 3,8 người, cao hơn số trung bình cho người Mỹ nói chung là 3,2 người. Bình quân mỗi người có thu nhập là 22.074, thấp hơn so với người Mỹ nói chung. 12% người Mỹ gốc Việt được xem là có lợi tức thấp.
67,3% người Mỹ gốc Việt sống tại nhà do họ sở hữu, trong khi 32,7% sống trong nhà họ thuê.
Tại một số lĩnh vực, người Việt chiếm lĩnh thị trường. Khoảng 80% thợ móng ở California và 43% toàn quốc là người Mỹ gốc Việt. Tại vùng vịnh Mexico, người Mỹ gốc Việt chiếm từ 1/3 đến một nửa các công việc ngư nghiệp.[20]. Vụ tràn dầu Deepwater Horizon năm 2010 đã ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đối với các ngư dân gốc Việt tại đây.
Văn hóa và tôn giáo
Những sinh hoạt cộng đồng nhằm góp phần lưu giữ gốc Việt và văn hóa Việt được tổ chức thường xuyên; như giải Phượng Hoàng được tổ chức hàng năm để tuyển lựa tài năng cổ nhạc. Và những trung tâm dạy Việt ngữ được mở ra khắp nơi. Tính đến năm 2008, chỉ riêng ở vùng Nam California, có tới hơn 80 trung tâm Việt Ngữ, đang tiếp nhận khoảng 17.000 học sinh theo học.
Cũng vì sự vận động của cộng đồng gốc Việt, ngày 12 Tháng Tám năm 2009 Hội đồng thành phố Westminster, CA thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ Bảy cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam". Ở cấp tiểu bang thì California thông qua nghị quyết ACR-40 công bố Tháng Tư 2011 là tháng của người Mỹ gốc Việt với 6 điểm ghi nhận:
- Hành trình tỵ nạn của người Việt từ năm 1975
- Hội nhập và đóng góp giá trị của cộng đồng
- Nỗ lực tranh đấu vì lý tưởng tự do
- Khẳng định lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng người Mỹ gốc Việt
- Công nhận tuần lễ 24-30 Tháng Tư là “Tuần tưởng niệm Tháng Tư Ðen”
- Công nhận Tháng Tư, 2011 là tháng tuyên dương cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại California.
Sinh hoạt cộng đồng
Người Việt tại Mỹ thường sống quây quần và có những sinh hoạt cộng đồng thường xuyên. Nhiều đoàn thể, hội ái hữu, hội đồng hương, .... và các tổ chức Hướng đạo Việt Nam, Gia đình Phật tử, Thiếu nhi Thánh Thể được thành lập khắp nơi. Nhiều trường dạy Việt ngữ mở ra vào cuối tuần.
Hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành tết của cộng đổng người Việt tại khắp nơi, lớn nhất là tại San Jose do Hội Diễn hành Xuân (Vietnamese Spring Festival) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức . Tại Garden Grove, trường Bolsa Grande High School hiện nay là địa điểm tổ chức Hội Tết Việt Nam hằng năm, với hàng trăm ngàn người tham dự, và do Tổng hội Sinh viên Việt Nam Nam Cali (UVSA) tổ chức liên tục từ năm 1982 đến nay. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival - ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra hai năm một lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam.Theo báo cáo vừa công bố của cục Điều tra dân số Mỹ (US Census Bureau), vào năm 2010 tổng số người Việt ở Mỹ là 1.548.449 người, tăng 38% so với năm 2000.
Người Việt hiện đứng thứ tư trong số các cộng đồng châu Á ở Mỹ, xếp sau cộng đồng Trung Quốc (3,34 triệu người), Ấn Độ (2,843 triệu người), và Philippines (2,556 triệu người).
Vào năm 2010, 3/4 người Việt sống tập trung trong mười bang Mỹ. Trong đó, dẫn đầu là California (581.000 người), Texas (210.000 người), Washington (67.000 người), Florida (58.000 người), Virginia (54.000 người), Georgia (45.000 người), Massachusetts (43.000 người), Pennsylvania (39.000 người), New York (29.000 người) và Louisiana (28.000 người). Các bang có tỷ lệ người Việt tăng nhanh nhất trong giai đoạn 2000 – 2010 là: Virginia (43%), Washington (44%), Texas (56%), Georgia (56%) và Florida (76%). Tỷ lệ người Việt ở California trái lại, chỉ tăng 30%.
Tỷ lệ người Việt cao nhất so với tổng số cư dân là ở các đô thị sau đây: Midway (California: 41%), Wesminster (California: 40%), Garden Grove (California: 27,7%), Fontain Valley (California: 21%), Morrow City (Georgia: 20%).
Do chủ yếu mới nhập cư vào Mỹ từ chưa đến 40 năm nay, chỉ 22% người Việt sinh ra ở nước này.
Tỷ lệ người Việt dưới 17 tuổi là 26%, cao hơn so với tỷ lệ của cả nước Mỹ (20%), nhưng thấp hơn người Lào (27%), người Campuchia (28%), và nhất là người H’mông (44%).
Tỷ lệ người Việt trên 65 tuổi là 8%, thấp hơn tỷ lệ của cả nước Mỹ (13%). Nói chung cộng đồng người Việt ở Mỹ tương đối trẻ: tuổi bình quân là 35,4 (cả nước Mỹ: 36,8).
57% người Việt có vợ có chồng, 35% sống độc thân, 7% ly dị (cả nước Mỹ: 11%), 4% góa vợ hay chồng.
Bình quân mỗi gia đình gồm 3,9 thành viên, đông hơn bình quân của Mỹ (3,1 thành viên).
Thu nhập trung vị của một gia đình người Việt (gồm bốn người) là 59.000 USD, cao hơn người H’mông (nghèo nhất: 47.000 USD), nhưng thấp hơn bình quân của Mỹ (62.000 USD), và nhất là của người Ấn Độ (cao nhất: 99.000 USD).
12% người Việt sống dưới mức nghèo (tức dưới 22.350 USD/năm cho một gia đình gồm bốn người), chỉ bằng một nửa người H’mông (25%), nhưng cao hơn bình quân của liên bang (10%).
Tỷ lệ những người Việt trên 16 tuổi có công ăn việc làm là 67%, đứng thứ tư trong các cộng đồng châu Á, cao hơn đôi chút so với bình quân cả nước (65%). Khoảng 65% người Việt có nhà riêng (cả nước: 66%).
Theo báo cáo của Survey of Business Owners (SOB), công bố năm 2007, số người Việt làm chủ kinh doanh của mình là 229.000 người, tức tăng 56% từ năm 2002, so với 40% trong các cộng đồng châu Á khác. Cũng theo báo cáo này, vào năm 2007, thu nhập của các nhà kinh doanh người Việt lên đến 28,8 tỉ USD.
Theo báo cáo của Current Population Survey (CPS) công bố năm 2008, tỷ lệ tham gia bầu cử của người Việt ở Mỹ rất thấp: chỉ 55% so với 71% của cả nước. Chẳng những thế, chỉ 48% người Việt thuộc tuổi bầu cử đăng ký để lấy thẻ cử tri (cả nước: 64%)!