Đó là làng Phú Hải, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Ngôi làng nhỏ hơn 500 năm tuổi này có một thứ “mật ngữ” cực lạ mà chỉ có
người trong làng mới biết. Ngôi làng này còn nổi tiếng với nghề làm
hàng mã, thầy cúng vang danh khắp các tỉnh miền Trung.
Tiếng dành cho người thông minh
Nghe danh tiếng “mật ngữ” làng Phú Hải
đã lâu, sự tò mò đã dẫn bước tôi tìm về ngôi làng này để tường tỏ thứ
ngôn ngữ có một không hai này. Không khó để tìm ra làng Phú Hải, nhưng
tôi cực kì khó khăn khi tiếp xúc với con người nơi đây khi mở lời muốn
tìm hiểu về “đặc sản” là thứ ngôn ngữ kì bí của làng. “Muốn biết tiếng
nói của làng thì phải được Hội chủ làng đồng ý đã chúng tôi mới dám nói”
– đó là câu trả lời đồng nhất của tất cả người dân Phú Hải.
Lòng vòng mãi tôi mới tìm được cửa hàng
bán hàng mã của ông Trần Đức Tảo – Hội chủ làng Phú Hải. “Chú muốn tìm
hiểu thì phải chờ khi nào làng họp các bô lão đã chứ tui không nói được
mô, vì đây là ngôn ngữ bí truyền của làng, người ngoài không được biết,
nếu không thì sẽ mất nghề” – ông Tảo đón tôi bằng câu nói khiến tôi chết
điếng.
“Đã mất công đến tận nơi đây, lẽ nào
giấy trắng đi về” – tôi nghĩ vậy rồi năn nỉ ỉ ôi, nói chuyện lân la khơi
chuyện. Ông Tảo cho hay, cư dân làng Phú Hải vốn từ đất Thanh Hóa vào
lập nghiệp đã hơn 500 năm. Trước làng ở gần phía biển, do nạn cát bay
cát lấp nên lùi về phía trong, vốn là vùng đất ruộng. Vậy nhưng diện
tích làng Phú Hải rất nhỏ hẹp, đất đai cằn cỗi nên dân không sống bằng
nghề làm nông mà chủ yếu dựa vào nghề làm hàng mã, thầy cúng và đánh bát
âm cổ nhạc (chuyên phục vụ trống kèn tại các đám ma, đám giỗ) để kiếm
sống.
“Làm nghề thầy cúng mà lộ “thiên cơ” thì
chẳng mấy hồi mà người ta học lỏm được, chính vì vậy các cụ tổ trong
làng mới “sáng chế” ra tiếng lóng lưu truyền cho con cháu để giữ nghề,
giữ miếng cơm manh áo. Tiếng lóng làng Phú Hải ra đời cả trăm năm nhưng
chỉ lưu truyền bằng miệng thôi chứ không ghi chép ra giấy. Vì nếu ghi ra
giấy, người ngoài có được thì nghề của làng coi như mất” – ông Tảo giải
thích.
Cũng theo ông Tảo, vì chỉ lưu truyền
bằng miệng, tiếng lóng của làng lại cực kì khó nên việc học lại càng khó
hơn. Chính vì vậy, học được tiếng lóng của làng cho đến ngọn ngành phải
là những người thông minh và kiên trì. Còn như thế hệ trẻ bây giờ chỉ
nghe người lớn nói rồi bắt chước nói theo chứ không hiểu hết được vì sao
lại cho ra ngữ nghĩa như vậy.
“Chấm chin” nghĩa con cá
Theo ông Tảo cho biết, “mật ngữ” làng
Phú Hải là dựa trên nét chữ, ý nghĩa và cách phát âm của chữ Hán, chữ
Nôm từ đó nói mẹo, nói mánh, sáng tạo ra cách nói của riêng mình.
Ông Tảo chỉ cho tôi biết một vài từ đơn
giản ví dụ như chữ Ngư nghĩa là Cá. Chữ Ngư viết bằng chữ Nôm ở dưới có
dấu chấm. Phía dưới được hiểu là chân (từ địa phương Quảng Trị gọi chân
là chin). Vì thế, người dân Phú Hải “chế” lại và nói là “Chấm Chin” và
ngầm hiểu với nhau là “con cá”.
Hay một chữ khác là chữ “tỏi” nghĩa là
đi. Ông Tảo lý giải rằng, trong chữ Hán, “hành” có nghĩa là “đi”. Trong
các loại gia vị người Việt thường dùng có củ hành và củ tỏi còn hay gọi
chung là “hành tỏi”. Chính vì thế, người dân Phú Hải mới chế chữ “tỏi”
nghĩa là “đi”. Mỗi khi đang ngồi đông đúc với khách, người trong làng
muốn đi trước thì nói từ “tỏi” là người làng hiểu có ý muốn về trước.
Các từ khác ông Tảo cho biết mà không
giải thích như “Trương chỉ” nghĩa là giấy. Nếu nói cả câu là “Khiểm thất
trương chỉ” nghĩa là “thiếu một tờ sớ”. Vì sao lại vậy?. Ông Tảo giải
thích, khi mình đi cúng cho nhà người ta mà thiếu một món lễ vật gì đó,
ví dụ thiếu một tờ sớ mà mình nói ra bằng tiếng Việt thì chủ nhà sẽ cho
rằng thầy cúng làm việc không tốt nên phải dùng “mật ngữ” của làng để
bảo người đi cùng về nhà lấy. Ví dụ nói “Khiểm thất trương chỉ”: Từ
Khiếm trong chữ Hán nghĩa là khiếm khuyết, là thiếu xót nhưng nói Khiếm
thì có khi người ngoài sẽ hiểu ra chút ít nên người Phú Hải đổi thành
chữ “Khiểm” nghĩa là thiếu. Từ Thất trong chữ Hán nghĩa là bảy nhưng để
người ngoài không biết, người Phú Hải chuyển “thất” thành nghĩa là
“một”. Trương chỉ là tờ giấy, nhưng trong nghề thầy cúng thì gọi là “sớ”
(viết bằng chữ Hán, Nôm và tiếng Việt) được viết trên giấy. Chính vì
thế, ghép cả câu lại “Khiểm thất trương chỉ” nghĩa là “thiếu một tờ sớ”.
Lân la hỏi chuyện, tôi còn được ông Tảo
cho biết thêm một vài “mật ngữ” bí truyền Phú Hải như áo nói là “Ơi”,
quần nói là “Chến”, anh- em thì được gọi là “sư- bo”, vợ là “nghéo”,
con gọi là “sơ”, Con trai là “càn”, con gái là “ đoài”, ăn là “khẩu”,
uống là “cựa”, quán là “xá”, ngủ là “khư”. Các chữ số tự nhiên cũng
được người dân trong làng gọi riêng như 1 là “thất”, 2 “lạng”, 3
“duông”, 4 “sùng”, 5 “ngâu”, 6 “lôi”.
Ông Tảo cho hay, người làng Phú Hải có
mặt rất nhiều trên khắp dải đất miền Trung. Nhiều nhất là ở Cồn Hến
(Thừa Thiên – Huế). Còn trong làng Phú Hải chỉ có chừng 60 hộ dân với
khoảng 270 nhân khẩu. Dù đi đâu thì người Phú Hải cũng chủ yếu hành nghề
thầy cúng, làm hàng mã, thổi kèn đám ma… và luôn giữ “mật ngữ” của
làng.
Đang trò chuyện với ông Tảo, một cụ ông
làng Phú Hải ghé chơi rồi nói “ Bo sư tỏi cựa cây” làm tôi điếng người
vì không hiểu gì. Hai cụ ông nói chuyện hồi lâu bằng thứ “mật ngữ” làm
tôi như người trên trời rơi xuống, chẳng hiểu một chút gì. Sau câu
chuyện, thấy tôi trố mắt ngu ngơ, ông Tảo cười giải thích: “Khi nãy đến
giờ tui cho chú biết nhiều từ rồi, thấy chú cũng tội nghiệp thôi tui cho
biết thêm từ nữa. Khi nãy ông đó nói “Bo sư tỏi cựa cây” nghĩa là lát
nữa mời chú ra quán uống nước”.
Ra đời cả trăm năm nay nhưng “mật ngữ”
Phú Hải chưa hề bị lộ ra ngoài, cũng chưa hề bị thất truyền. Thế mới
biết được người dân Phú Hải coi trọng nó đến nhường nào.
Nguồn: Danviet