Lê
Hữu Thảo thăm bà Hoàng Thị Thuận (1948) mẹ chiến sỹ Nguyễn Thanh Hải,
người lính đã dũng cảm hy sinh trên boong tàu HQ-604 sau khi bắn hai quả
B40 về phía quân Trung Quốc.
Huy Đức
“Cuộc chiến chỉ xảy ra 20 phút
nhưng cuộc đời kéo dài hàng chục năm. Để có hành động anh hùng trong một
trận chiến không khó. Để thành công trong cuộc đời khó thay” – Lê Hữu
Thảo đốt thuốc liên tục trong suốt buổi nói chuyện với chúng tôi, tối
17-2-2014, rồi thốt lên câu đó.
Quê Nhà
“Ngay trong ngày” 14-3-1988, Bộ Ngoại
giao ra tuyên bố “lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền
Trung Quốc”. Nhưng, phải vài hôm sau Đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân
Dân mới cho hay: “Sáng 14-3, các tàu chiến Trung Quốc đã ngang nhiên nổ
súng vào 3 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá
ngầm Gạc Ma thuộc đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã phải nổ súng để tự vệ.
Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu
khích vũ trang tàu Trung Quốc”[1].
Ngày 25-3-1988, đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân cho biết chi tiết: “Họ (Trung Quốc-HĐ)
đã dùng súng bắn chết thiếu úy Trần Văn Phương, dùng súng và dao găm
đâm bị thương nặng chiến sỹ Nguyễn Văn Lanh, bắn chết một số chiến sỹ
khác. Từ trên các tàu chiến, họ tập trung hỏa lực bắn xả vào các chiến
sỹ ta ở trên các đảo và trên những tàu bị cháy đang nhảy xuống nước, bắn
vào các chiến sỹ đang bơi trên thuyền cao su, dùng cả câu liêm, bắn
mạnh vào các chiến sỹ ta đang bơi trên biển. Cho đến nay, chúng ta vẫn
còn 74 anh em mất tích”.
Sáng 25-3-1988, ông Nguyễn Văn Mạo dậy
sớm đi đôn đốc các gia đình trong xã lên xe đi “kinh tế mới”. Khoảng 8
giờ, khi trở về, ông thấy nhà mình đông nghẹt người. “Tôi rụng rời”, ông
Mạo nhớ lại. Nguyễn Văn Phương, con trai ông, có tên trong danh sách 74
người mất tích. Ông Mạo vốn là một chuẩn úy pháo phòng không phục viên,
lúc ấy đang là Chủ tịch xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, Thái Bình. “Tôi
buồn đến mức xin thôi làm chủ tịch ngay sau đó”- ông nói.
Tâm Điểm của Báo Chí
Thảo và Chúc ở lại Sinh Tồn Lớn 10 ngày,
“ngày nào cũng nhìn thấy tàu Trung Quốc chạy qua chĩa súng vào đảo”.
Ngày thứ 11, có tàu ra, đưa Thảo và Chúc vào bờ. Hàng tháng sau đó,
những “người hùng Gạc Ma” sống sót trở thành tâm điểm của báo chí và các
sinh hoạt chính trị. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong trào
“Hướng về quần đảo Trường Sa thân yêu”.
Lê Hữu Thảo kể: “Liên tục, báo chí, lãnh
đạo, các đại biểu tới thăm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ
trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng bay vào Cam Ranh. Tôi và Chúc ‘thay
mặt bộ đội Trường Sa’ nhận rất nhiều quà ‘của đồng bào cả nước’. Tôi
được mời đóng một đoạn phim tài liệu; được mời vô Sài Gòn; được mời lên
truyền hình, nói: Sẵn sàng quay lại Trường Sa”. Khi đó, trong số những
người thực sự tham chiến còn sống sót chỉ có Thảo và Chúc là không bị
thương. Lanh nằm viện nhiều tháng liền.
Lê Hữu Thảo nhớ lại: “Chúng tôi được
thông báo, cả hai sẽ được cử đi dự festival Thanh niên Sinh viên Thế
giới diễn ra vào giữa năm sau tại Bình Nhưỡng. Hai thằng được tập huấn
cách phát biểu và trả lời báo chí. Sau đó lại được thông báo, tên tôi
được ghi vào bảng vàng danh dự của Hải quân. Cuối cùng, một sỹ quan quân
lực gọi chúng tôi lên nói: Có đợt học tập ở Đức, Thảo và Chúc nên đi,
chờ dự Festival thì chậm mất. Chúng tôi đi, té ra là ‘xuất khẩu lao
động’ chứ không phải đi học”.
Những Tấm Huân Chương
Tháng 12-1988, hàng chục cán bộ chiến sĩ
được phong tặng, truy tặng huân chương, phong hoặc truy phong danh hiệu
anh hùng. Năm “suất” anh hùng được phân bổ: Thiếu úy Trần Văn Phương
(sinh 1965-Quảng Bình), Lữ 146 (hy sinh); Trung tá Trần Đức Thông (sinh
1944-Thái Bình), Phó lữ đoàn trưởng 146 (hy sinh); Đại úy Vũ Phi Trừ
(sinh 1957-Thanh Hóa), Thuyền trưởng HQ-604 (hy sinh); Thiếu tá Vũ Huy
Lễ (sinh1946-Thái Bình), Thuyền trưởng HQ-505; Nguyễn Văn Lanh (sinh
1966-Quảng Bình), chiến sỹ công binh E83.
Thảo và Chúc không nghe nhắc gì tới tên
mình. Khi đó, cả hai đang lao động ở Đông Đức, không còn màng tới bằng
khen, giấy khen. Trong nước, sự kiện Gạc Ma nhạt dần và biến mất trên
báo cũng như trong đời sống chính trị kể từ sau “Hội nghị Thành Đô”
(9-1990).
Ở Thái Bình, ông Nguyễn Văn Mạo cũng
không biết con trai mình, liệt sỹ Nguyễn Văn Phương được truy tặng Huân
chương chiến công hạng 3. Ông nói: “Họ đút huân chương đâu đó trên Huyện
đội. Một thời gian sau, cậu xã đội trưởng lên huyện họp, nhìn thấy, cầm
về”. Bố của liệt sỹ Phạm Gia Thiều, ông Phạm Gia My – người từng ở
trong Quân đội từ 1953-1975 – thì không ứng xử như vậy.
Thượng úy Phạm Gia Thiều không thuộc biên
chế của tàu HQ-604 nhưng khi 604 được lệnh ra đảo, một thuyền phó vắng
mặt, Thiều đã đi thay. Ông My nói: “Khi được mời lên xã làm lễ truy
điệu, tôi không đi vì chưa được làm rõ: Anh Trừ, thuyền trưởng, được
phong anh hùng; con tôi, thuyền phó cùng chiến đấu trong giờ đó có công,
có tội gì mà không nghe nói đến? Một thời gian sau, họ cử một cán bộ
mang về nhà tôi tấm huân chương chiến công hạng nhất. Bà nhà tôi nói:
không nhận. Đơn vị bảo gia đình yêu sách. Tôi nói: Huân chương là tặng
thưởng của ‘nhà vua’ đâu có trao như thế được. Sau, đơn vị cho người
mang về, mời tôi ra xã trao”.
Những người đã có mặt trên đảo Gạc Ma
sáng 14-3 như Thảo thì không câu nệ ai được huân chương, ai không. Trong
khoảng gần 20 phút nổ súng đó, không ai có thể quan sát bao quát, để
biết, ai đã chiến đấu như thế nào để về báo công. Về sau, báo chí nói
khi bị bắn, thiếu úy TrầnVăn Phương hô: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Đấy
có thể là ý chí của Phương. Trước đó, khi giao nhiệm vụ, Phương dặn,
“Bằng mọi giá, phải giữ cờ”, nhưng khi bị bắn, Thảo biết, Phương không
có đủ thời gian để hô khẩu hiệu.
Với Thảo, những đồng đội sẵn sàng ra đảo
hôm 11-3-1988 đều là những anh hùng. Họ đã nhận nhiệm vụ với tinh thần
cảm tử. Một vài bạn của Thảo xin đi đã không được chấp nhận. Một vài
người sợ hãiđã đào ngũ trước đó. Vấn đề không chỉ là những tấm huân
chương mà là cuộc sống của những ông bố, bà mẹ, của những người vợ, của
những đứa trẻ.
Các Góa Phụ Gạc Ma
Y sỹ Phạm Huy Sơn (Diễn Nguyên, Diễn
Châu, Nghệ An) tưởng có thể được ăn Tết cùng vợ con sau hai năm ở đảo
Trường Sa. Nhưng, 15 ngày trước khi hết phép, anh được lệnh quay lại đơn
vị, nhận nhiệm vụ mới ở “nhà giàn” Gạc Ma. Phạm Huy Sơn hy sinh khi vợ
anh – chị Trần Thị Ninh – đang có thai ở tháng thứ hai (con gái anh Sơn,
Phạm Thị Trang, sinh ngày 27-10-1988), đứa con trai sinh năm 1984 bị
bại não bẩm sinh.
Chồng mất năm 27 tuổi, chị Ninh ở vậy
nuôi con trong đau thương và cả những tủi hổ không nói được. Ba năm sau,
mấy mẹ con phải ra khỏi nhà chồng. Các cậu, các dì góp chút gạch, chút
ngói, cất cho một căn nhà nhỏ. Ông ngoại cho một con bò. Cậu con trai,
đến nay đã 31 tuổi, nhưng đến bữa vẫn phải nằm ngửa ra, đợi mẹ xay thức
ăn bón vào miệng. Trí não không phát triển nhưng chân tay khỏe mạnh.
Nhiều hôm cậu lang thang hết làng trên, xóm dưới. Làm đồng về không thấy
con, chị vừa chạy tìm, vừa khóc.
Năm 2006, Quân chủng Hải quân cho 15
triệu, chị Ninh nói: “Các anh ấy xét hoàn cảnh, linh động gửi tiền trước
thay vì xây xong nhà mới ‘giải ngân’. Đó cũng là cơ hội, tôi vay thêm
các cậu, ‘cắm’ sổ liệt sỹ trong hai năm vay thêm 15 triệu của ngân hàng.
Xây được căn nhà này rồi trả dần, giờ vẫn còn nợ các cậu 15 triệu”. Căn
nhà ngói 3 gian, có gắn bảng “nhà tình nghĩa” của chị Ninh, tuy không
to đẹp như các nhà trong xóm, nhưng trông khang trang hơn hẳn so với căn
nhà cất hồi năm 1991.
Chị Cao Thị Bình – vợ liệt sỹ, bác sĩ
quân y Hồ Công Đệ (Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) – vốn là một người
lính ở vùng Biên phía Bắc. Năm 1981, họ cưới nhau khi chị ra quân. Từ
năm 2012, “các đoàn” về thăm thấy chị có một căn nhà khá khang trang, ít
ai biết, cho đến năm 2011, chị vẫn phải làm “osin” ở Vũng Tàu. Tám năm
giúp việc cho một gia đình, nhà chủ thông cảm hoàn cảnh, để chị mang 3
đứa con vào cùng ăn học.
Chồng chết năm 31 tuổi, khi mới mang thai
6 tháng đứa con thứ 3, chị Bình kể: “Bốn năm sau khi anh mất, một người
bạn mới mang đồ đạc của anh về. Khi đó, 4 mẹ con đang sống trong một
căn nhà tranh, vách đất. Đêm đêm, tôi lặn ngụp, mò cua, bắt ốc, bệnh
sưng khớp đeo đẳng tới bây giờ. Hai đứa con gái đã lấy chồng, rất thương
mẹ. Cháu trai, Hồ Công Được, cũng đã có bằng trung cấp cơ điện. Chỉ
mong cháu xin được một chỗ làm trong công trường xây dựng nhà máy lọc
dầu Nghi Sơn, rồi tôi có chết cũng mãn nguyện”.
Trung úy hải đồ Lê Đình Thơ (Hoằng Minh,
Hoằng Hóa, Thanh Hóa) hy sinh khi con gái, Lê Thị Thủy, mới vừa tròn một
tuổi. Chín tháng sau, mẹ anh, bà Lê Thị Lương, kể: “Ngày 20-12-1988,
đơn vị cho xe về đón tôi ra, đến lượt vợ thằng Thơ mất”. Mất con, rồi
mất dâu, bà thay mẹ nuôi đứa cháu nội mới gần 2 tuổi. Bà Lương nói trong
nước mắt: “Tôi khổ cả đường tình, cả đường con. Tôi sinh đứa thứ 4 thì
chồng bỏ đi lấy vợ khác. Nhiều năm trời không biết giấc ngủ là gì bác
ạ”. Cô dâu út thấy bà kể lể, nắm áo: “Thôi, bà ơi!” .Bà Lương quay sang
con dâu, quyệt mắt: “Mi có biết khổ là chi mô”.
Được bà nội và các cô chú chăm sóc, Thủy
lớn khôn, học giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Mỏ Địa Chất, cô
được đơn vị cũ của cha – Đoàn do đạc biên vẻ bản đồ và nghiên cứu biển,
Hải quân -nhận về làm. Bà Lương cho biết, đơn vị cha cháu vẫn giữ liên
lạc suốt bao nhiêu năm và luôn quan tâm đến cháu. Bà khoe, mỗi khi ra
thăm cháu, cứ hết người này đến người kia mời. Bà nói: “Gần đây, tôi nằm
mơ thấy thằng Thơ về, nó mặc quân phục, đeo quân hàm rất đẹp, nói với
tôi: Mẹ chăm cháu thế là được rồi, mẹ không phải ra nữa, vậy là tôi ở
nhà”. Bà Lương bảo: “5 triệu các anh (Nhịp Cầu Hoàng Sa) đưa hôm Tết,
tôi dùng để mua một cỗ hòm”.
Các ông bố, bà mẹ, những người vợ liệt sỹ
hết tuổi lao động được cấp tiền tử tuất, trước đây là 370 nghìn/ tháng;
sau đó tăng lên 670 nghìn; năm 2013 là 1 triệu 100 nghìn; năm 2014 là 1
triệu 220 nghìn/ tháng. Từ năm 2008, nhiều đơn vị phối hợp với địa
phương, cấp cho một số gia đình liệt sỹ Gạc Ma từ 15, 20 triệu đến 30,
50 triệu/ gia đình để xây “nhà tình nghĩa”, nhiều gia đình cố vay mượn
thêm để xây được căn nhà.
Ngày 19-2-2014, khi chúng tôi đến xã Nghi
Yên, Nghi Lộc, Nghệ An, thăm gia đình liệt sỹ Đậu Xuân Tư, hai cha con
người em của Tư, Đậu Xuân Chương, vẫn đang “đi Lào làm phụ hồ”. Chị Phan
Thị Lương, vợ anh Chương, nói: “Anh ấy rất muốn mua cái máy cày hoặc
máy tuốt lúa (khoảng 35 triệu) để khỏi phải đi làm thuê xa nhưng ngân
hàng không cho vay vốn vì vẫn còn nợ 6 triệu chưa trả hết”.
Năm 2010, bà Nguyễn Thị Nhơn (83 tuổi),
mẹ của Đậu Xuân Tư, được một đơn vị tặng 50 triệu. Thay vì tu sửa căn
nhà cũ của gia đình Chương, người em đang chăm sóc bà Nhơn, theo chị
Lương: “Họ yêu cầu phải xây riêng cho bà, chúng tôi phải vay mượn thêm
45 triệu”.
Cuộc Chiến, Cuộc Đời
Phần lớn các cựu binh Gạc Ma khi trở về
đều sống rất chật vật. Trừ một số người nhận danh hiệu anh hùng, nhận
huân chương, thăng tiến trong quân đội, số còn lại “hết nghĩa vụ ra
quân” không có chế độ gì. Phạm Xuân Trường, Trương Văn Hiền… tuy đã ổn
định gia đình nhưng kinh tế chỉ đắp đổi qua ngày. Ngôi nhà Phạm Xuân
Trường xây đã mấy năm vẫn chưa kiếm đủ tiền mua cửa. Còn Lê Hữu Thảo thì
vẫn lông bông, chưa vợ, chưa nhà.
Trong một lần về quê đầu năm 1991, Thảo
yêu một “cô gái đẹp có tiếng ở Hà Tĩnh”. Suốt mấy năm sau đó, cô nhất
mực chờ anh. Năm 1995, sốt ruột vì tuổi con gái lớn dần, bố cô điện
thoại sang Đức cho Thảo nói: “Nếu con yêu và quyết tâm lấy nó thì đêm
nay suy nghĩ kỹ, ngày mai điện về. Khi đó, nó muốn đợi bao lâu cũng
được”. Đêm ấy,Thảo bị bắt trong một chiến dịch truy quét thuốc lá lậu
của cảnh sát Đức.
Mối tình sau đó, cho Thảo một đứa
contrai, cũng chỉ kéo dài được mấy năm. Đã từng hào hiệp với bạn bè. Để
rồi, nay trở về quê, Thảo nói: “Thật xấu hổ khi gần như chỉ còn hai bàn
tay trắng”.
[1] TuổiTrẻ thứ Năm, 17-3-1988.
Chị Cao Thị Bình và cháu ngoại.
Có
những ngôi nhà thực sự tình nghĩa, như nhà của ông Phạm Gia My. Bạn bè
liệt sỹ Phạm Gia Thiều, thời anh học ở đại học Hàng hải đã góp 500 triệu
xây nhà tặng ông.
_______________
Cựu binh Gạc Ma Lê Hữu Thảo: Chúng tôi xác định hy sinh. Xin đừng quên lãng chúng tôi …!
Hàn Giang
(VNTB) - “Nếu
người dân, xã hội và đất nước quên lãng sự hy sinh của đồng đội tôi,
của chúng tôi thì chúng tôi sẽ buồn đau. Chúng tôi đã chiến đấu, hy sinh
cống hiến vì đất nước và Tổ quốc nên chúng tôi mong được ghi nhận có
thể qua truyền thông, sách vở bởi đây là một bài học, đây là tinh thần
cần được kế tục ở những thế hệ con em, cháu chắt sau này. Nếu quên lãng
chúng tôi cũng là quên lãng đi một phần lịch sử…” tâm sự buồn của cựu binh sĩ Gạc Ma ông Lê Hữu Thảo khi nói về cuộc Hải chiến Trường Sa 1988.
28
năm sau ngày Hải chiến Trường Sa (14/3/1988 – 14/3/2016) giữa Quân đội
nhân dân Việt Nam (QĐND Việt Nam) và quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam
đã mất một phần quần đảo Trường Sa và 64 chiến sĩ đã hy sinh, chỉ có số
ít quân nhân may mắn còn sống sót trở về đất liền. Người hy sinh đã bỏ
lại thân mình dưới lòng đại dương nhưng còn người sống ở lại thì sao?
Trở
về sau cuộc chiến Trưởng Sa năm ấy, người lính già Lê Hữu Thảo (51
tuổi, trú phường Thạch Linh, TP Hà Tĩnh, Hà Tĩnh) phải đối diện muôn vàn
khó khăn trong cuộc sống đời thường, phải bươn chải kiếm cái ăn hằng
ngày để cùng vợ nuôi con nhỏ. Nhớ về cuộc hải chiến Trường Sa 1988, ông
Thảo nói mình chỉ mong muốn vào những ngày này ông và các đồng đội của
ông được các cấp chính quyền địa phương gọi một cuộc điện thoại thăm hỏi
là đủ an ủi, đủ làm yên lòng tất cả và xin đừng quên lãng cuộc hải
chiến này bởi dù sao nó cũng là một phần lịch sử đã xảy ra. Một phần
lịch sử mà ông cùng đồng đội đã đặt cái chết ngoài bản thân để ghi lại
những khúc ca bi tráng, một vòng tròn bất tử tại Trường Sa.
Ông Lê Hữu Thảo chia sẻ với Việt Nam Thời Báo (VNTB).
PV (VNTB): Thưa
cựu binh sĩ Gạc Ma ông Lê Hữu Thảo! Tròn 28 năm sau ngày một phần quần
đảo Trường Sa của Việt Nam chúng ta bị Trung Quốc cưỡng chiếm trong một
trận hải chiến (14/3/1988 – 14/3/2016), được biết ông là người lính
chiến đấu trong trận hải chiến ấy vậy ngày ấy ông là lính ở đơn vị nào?
Ô. Lê Hữu Thảo; Cách
đây 28 năm chúng tôi đặt chân lên đảo Gạc Ma, tôi là lính chiến đấu
thuộc Lữ đoàn 147 Quân chủng Hải quân sau tăng cường vào Lữ đoàn 146 và
cũng là một trong những người duy nhất nguyên vẹn sống sót trong trận
chiến đấy. Trong trận chiến đấy có số anh em công binh, thủy thủ đoàn
cũng như một số người lính của những đơn vị khác cũng may mắn sống sót,
một số khác thì bị phía Trung Quốc bắt.
PV (VNTB): Ông có thể kể một chút về diễn biến căng thẳng ở trận hải chiến Trường Sa 1988?
Ô. Lê Hữu Thảo: Căng
thẳng thì từ chiều ngày 13/3/1988 nhưng lúc ấy chưa có đổ máu, chưa có
đụng độ. Còn căng thẳng vào sáng ngày 14/3/1988, chúng tôi với lực lượng
rất ít ở trên đảo Gạc Ma chỉ có 5 người lính chiến đấu và 2 khẩu súng
AK47, còn trên tàu (HQ604) thì có 2 trung đội chiến đấu… Bên phía lực
lượng Trung Quốc, đầu tiên họ dùng 3 thuyền để áp sát đảo, không thiếu
bát cứ loại vũ khí nào như súng phòng không, hỏa tiễn, tên lửa… trong
khi phía chúng tôi chỉ có súng 12 ly7, B40, B41, đại liên rõ chênh lệch
lực lượng và khí tài rất lớn. Chúng nó (phía Trung Quốc) uy hiếp chúng
tôi, bắt buộc chúng tôi phải rút khỏi đảo Gạc Ma. Trước tình hình chênh
lệnh về lực lượng lẫn vũ khí chiến đấu, đáng lẽ bắt buộc chúng tôi phải
rút lui nhưng chúng tôi cương quyết giữ đảo nên tình hình khá căng
thẳng. Những giây phút hiểm nguy đến rất là gần, phía Trung Quốc ép
chúng tôi rút lui nếu không sẽ nổ súng nhưng chúng tôi vẫn cương quyết
không rút lui, quyết giữ cho bằng được đảo Gạc Ma và cờ Tổ quốc.
PV (VNTB): Trận
hải chiến ngày 14/3/1988 kết thúc khá nhanh, đã có 64 chiến sĩ QĐND
Việt Nam tử trận nên có nguồn dư luận nói rằng do phía QĐND Việt Nam
được lệnh không nổ súng để mặc phía quân đội Trung Quốc thảm sát, nguồn
dư luận này theo ông có đúng vào thời điểm ấy không?
Ô. Lê Hữu Thảo: Để
trả lời có lệnh này hay không thì ở đây chỉ có những người lãnh đạo cấp
cao của quân chủng Hải quân và những người lãnh đạo cấp cao thuộc Bộ
chính trị mới biết. Còn chúng tôi là những người lính chiến trường có
thể tuân lệnh hoặc có thể không tuân lệnh của những đơn vị cao nhất hoặc
các cấp cao nhất ở hậu phương. Chúng tôi là những người lính chiến
trường chỉ làm những cái gì cho đất nước và Tổ quốc chứ không làm điều
gì sai trái hết. Sự kiện xảy ra trên đảo Gạc Ma (14/3/1988) không như dư
luận và cũng không như những gì trong một clip mà phía Trung Quốc đưa
lên. Chúng tôi đã chiến đấu bằng tất cả cái gì có được trong tay, bằng
sự đoàn kết và tinh thần người Việt Nam. Thời gian diễn ra cuộc chiến
khá dài mà trên clip phía Trung Quốc đưa ra nội dung chỉ gói gọn khoảng
hơn 3 phút để rồi dựa vào đó biến tấu, suy diễn rất là nhiều làm ảnh
hưởng đến bản thân tôi cũng như những người đã hy sinh trong trận chiến
này. Tôi hoàn toàn phản đối. Tôi rất là đau buồn! … Một điều đơn giản là
khoảng hơn 3 phút thì không bao giờ một con tàu vận tải có thể chìm.
Khi đang diễn ra cuộc đụng độ giữa QĐND Việt Nam và bọn xâm lược Trung
Quốc, tính từ lúc bắt đầu nổ súng cho đến khi con tàu HQ604 chìm ít nhất
khoảng 20 phút, còn cuộc chiến thì kéo dài từ 5h đến 7h30 sáng ngày
14/3/1988 như vậy những gì ghi lại trong clip phía Trung Quốc đưa ra là
thiếu chính xác.
PV (VNTB): Như vậy là phía QĐND Việt Nam có nổ súng chống trả lại phía quân xâm lược Trung Quốc?
Ô. Lê Hữu Thảo: Không
những chúng tôi chống trả lại mà chúng tôi còn làm tất cả những gì
chúng tôi có được qua học hành, qua bản lĩnh người Việt Nam. Mọi người
có thể tìm hiểu trong cuộc hải chiến này phía quân đội Trung Quốc (PLA)
có hy sinh và thiệt hại hay không? Tìm hiểu chúng tôi chiến đấu như thế
nào?...
PV (VNTB): Và
thêm một nguồn dư luận nữa là không nên nói ngày 14/3/1988 là ngày hải
chiến mà phải gọi là ngày thảm sát theo ý của ông thì sao?
Ô. Lê Hữu Thảo: Đúng
là hiện nay đang có sự tranh cãi khi nói về cuộc chiến ngày 14/3/1988
là trận hải chiến hay là cuộc thảm sát. Đây chỉ là những ngôn từ nhưng
các nhà khoa học, các nhà quân sự, xã hội… tranh luận. Bản thân tôi
không nói đây là trận hải chiến, tôi cũng không nói đây là cuộc thảm sát
mà tôi chỉ nói thực tế. Có nghĩa là, thời điểm ấy tương quan lực lượng
Trung Quốc rất mạnh so với chúng tôi rất ít ỏi, nhưng chúng tôi không
nghĩ đến việc mạnh hay yếu mà chúng tôi nghĩ đến việc làm bảo vệ đảo,
bảo vệ cờ Tổ quốc vì đây là trách nhiệm của chúng tôi. Chúng tôi sẽ hy
sinh, chúng tôi sẽ xả thân để làm đến cùng.
PV (VNTB): Tưởng
niệm ngày hải chiến Trường Sa (ngày 14/3) này chỉ xuất hiện công khai
mấy năm gần đây do đòi hỏi của người dân trong nước cần biết sự thật
lịch sử chứ trước kia rất ít được nhắc đến. Có phải vì Nhà nước Việt Nam
đang nhẫn nhịn trước tội ác phía quân xân lược Trung Quốc đã gây ra hay
là vì lý do gì?
Ô. Lê Hữu Thảo; Câu
hỏi này ngoài tầm hiểu biết của tôi, nhưng tôi nói rằng trước đây từng
nhớ đến, từng nói đến, từng nhắc đến qua báo chí, đài truyền thông. Sau
một thời gian thì không được nhắc đến, nhưng vài ba năm gần đây lại được
nhắc đến rất là rộng rãi. Còn ngày 14/3 năm nay tôi cũng chỉ thấy báo
chí đưa tin cũng không thấy có nhiều tiếng nói từ chính quyền… Bản thân
tôi không giờ hối hận hay trách móc bất cứ chính quyền hay một cá nhân
nào cả.
PV (VNTB): Do
người dân có phần bị hạn chế thông tin về Hải chiến Trường Sa 1988 nên
những người lính đã nằm xuống có thời gian như bị quên lãng ông có buồn
về điều này không?
Ô. Lê Hữu Thảo: Nếu
người dân, xã hội và đất nước quên lãng sự hy sinh của đồng đội tôi,
của chúng tôi thì chúng tôi sẽ buồn đau. Chúng tôi đã chiến đấu, hy sinh
cống hiến vì đất nước và Tổ quốc nên chúng tôi mong được ghi nhận có
thể qua truyền thông, sách vở bởi đây là một bài học, đây là tinh thần
cần được kế tục ở những thế hệ con em, cháu chắt sau này. Nếu quên lãng
chúng tôi cũng là quên lãng đi một phần lịch sử… Tôi thấy đất nước có
lúc thăng trầm, có lúc thế này thế kia đó là chuyện của những nhà chính
trị, nhưng bây giờ tôi rất vui, thấy có phần an ủi lớn vì những đồng đội
của chúng tôi hy sinh đã được nhắc đến, đã được biết đến nhiều đó cũng
là một mong mỏi lớn nhất trong cuộc đời của tôi, trong những ngày tôi
còn sống.
PV (VNTB): Là
người lính trở về trong trận hải chiến năm ấy, chính quyền Nhà nước
Việt Nam đã có chính sách , chủ trương gì giúp đỡ ông hay không?
Ô. Lê Hữu Thảo; Xin
nói rằng có sự quan tâm của riêng Liên đoàn lao động Việt Nam đã hỗ trợ
cho tôi một chút ít trong cuộc sống khi thấy tôi khó khăn. Ngoài ra,
cho đến giờ phút này (còn khoảng ít tiếng đồng hồ là bước sang ngày
14/3), tôi vẫn chưa nhận được cuộc điện thoại hay lá thư thăm hỏi sức
khỏe nào từ chính quyền địa phương để tôi có an ủi nào đó. Một điều đáng
trách!
PV (VNTB): Là
đồng đội, đồng chí của 64 anh hùng tử sĩ đã nằm xuống trong hải chiến
Trường Sa 1988, ông có gửi mong muốn điều gì với chính quyền Nhà nước
Việt Nam để được đối xử xứng đáng?
Ô. Lê Hữu Thảo: Mong
muốn rất lớn là vào những ngày này chúng tôi nhận được một cuộc điện
thoại từ các cấp lãnh đạo có thể ở xóm, phường, huyện, tỉnh ... hỏi thăm
và chia sẻ, nếu có sự quan tâm hơn nữa thì có thể giúp đỡ chúng tôi có
công ăn việc làm đặng có đồng lương để giải quyết những khó khăn trong
cuộc sống đời thường như bát cơm manh áo qua những ngày khó khăn...
VNTB chân thành cám ơn những chia sẻ quý báo của cựu bịnh Gạc Ma ông Lê Hữu Thảo.
Cũng
xin được nói thêm, cựu binh Gạc Ma ông Lê Hữu Thảo tham gia hải chiến
Trường Sa 1988 khi mới 23 tuổi, xác định sẽ hy sinh nhưng may mắn là
không hy sinh. Lúc ấy, ông Thảo là lính chiến đấu trên tàu HQ-604, trực
tiếp chỉ huy đồng đội (Trần Văn Phương) xuống cắm cờ Tổ quốc tại đảo Gạc
Ma và đánh giáp lá cà với phía quân đội Trung Quốc trên đảo Gạc Ma. Sau
khi lính Trung Quốc nổ súng chiếm đảo, ông Thảo đã bơi ra cứu đồng đội
trong đó có ông Hoàng Bùi Hải nay là đại tá, Phó chỉ huy trưởng tỉnh đội
Thanh Hóa...
Năm
2015, tức 50 tuổi ông Thảo mới cưới vợ và cũng trong năm vợ chồng ông
Thảo có đứa con trai đầu lòng, anh đặt tên con Lê Nguyễn Trường Sa như
để mãi nhớ những năm tháng chiến đấu hào hùng tại Trường Sa.