_____________
Một số vị trí chỉ huy cao cấp của lực lượng ANS (Army National Sihanouk - Quân đội Quốc gia Sihanouk) vào thời điểm quanh quanh năm 1985:
1. Tổng Tư lệnh - Sihanouk
2. Tổng Tham mưu trưởng - Tướng Tiep Ben
3. Phó tổng Tham mưu trưởng - có đến 3 người
3.1. Quân sự - tướng Kim Men (King Men)
3.2. Tài chính - Tea Chamrath
3.3. Sau bổ sung thêm Phó phụ trách chung - Norodom Chakrapong, con Sihanouk - kiêm lữ trưởng lữ 5
4. Các Lữ trưởng (Sư trưởng ?)
4.1. Lữ 1 - đại tá Nhem Sophon -> Duong Khem (từ cuối 1983)
4.2. Lữ 2 - Ton Chay
4.3. Lữ 3 - Svy Thoeun
4.4. Lữ 5, cận vệ hoàng gia - Norodom Chakrapong
4.5. Lữ 6 - tướng Kieng Vang
(không có lữ 4)
Nguồn http://www.nhekbunchhay.info/uploa_dbiography_en/biography.php
Thái tử Norodom Ranariddh ( thứ hai-từ trái sang) và ông Nhiek Bun Chhay ( bìa phải) thời gian còn mặn nồng trên biên giới Thái - Kam.
Không rõ thời gian này ông Norodom Ranariddh nhận trọng trách gì?
Nguồn: http://ki-media.blogspot.com/2012/07/prince-blamed-15-years-on-nhiek-bun.html
Ở chiến khu, họ tìm quỹ tiền bạc để sống bằng cách chận những người buôn lậu từ biên giới Thái Lan về để cướp của. Họ còn chận bắt những người tị nạn Việt Nam để bắt bớ, cướp của, hãm hiếp và giết hại.
Đương nhiên ở tại vùng biên giới, họ là ngưỡng cửa để chận cả hai bên mà ăn cuớp. Xong xuôi, họ còn bắt giữ dân tị nạn Việt Nam lại để làm gia mặc cả và đòi hội HTTQT nếu muốn cứu dân tị nạn thì phải trả cho họ khoảng 5 tạ gạo cho mỗi đầu người dân tị nạn.
Lực lượng kháng chiến Para vì chuyện chận bắt người buôn lậu và người Việt tị nạn để cướp của, hãm hiếp và giết hại. Nên từ đó, những người đứng đắn và có chính nghĩa ở trong Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia Cambodia đã rút lui hết. Chỉ còn lại toàn phường đầu trộm đuôi cướp mà thôi.
Nhân số của lực lượng này chỉ độ năm trăm người lính vô kỷ luật, toàn là quân ăn cướp và sát nhân. Những lần đụng trận với Cộng Sản Việt Miên thì họ đều bị đánh bật ra, phải tràn qua Thái Lan và nhờ lính Thái đánh trả lại lính Cộng sản.
Có thể nói lực lượng Para là những con thú dữ chống Cộng Sản. Họ phải tự tìm phương kế sinh sống nơi biên giới bằng cách cướp của giết người.
Hãy thử tưởng tượng năm trăm con người chiến đấu ở vùng biên giới. Trước mặt và sau lưng đều có kẻ thù: Lực lượng Khmer Đỏ Pol Pot và lực lượng Cộng Sản Việt Nam. Nếu họ không được tài trợ và nuôi đưỡng đầy đủ thì họ làm gì để sống và để duy trì cơ sở căn bản của mặt trận của họ. Tuy nhiên, họ đã đối xử độc ác với những người tị nạn Việt Nam đi ngang qua căn cứ địa của họ. Họ sống ở trong rừng, thiếu thốn mọi nhu cầu, kể cả nhu cầu sinh lý. Vì thế họ đã làm bậy bằng cách hãm hiếp các phụ nữ của dân tộc khác.
Những thanh niên Para này lại ít học và ngu dốt. Sau khi đã cướp của, hãm hiếp và giết người, họ sợ tiếng xấu loan truyền ra ngoài. Vì thế, họ phải giết người để ngăn tiếng xấu. Ai ngờ tiếng xấu cũng vẫn lọt ra và làm cho giá trị mặt trận thấp kém và mất uy tín đi.
Lực luợng Para muốn mua lòng dân chúng Miên. Họ dùng dân tị nạn Việt nam để đổi lấy số gạo từ hội HTTQT, nhưng phát gạo cho dân chúng Miên. Hễ dân Miên nào đói khổ, tới xin gạo thì họ đều cho gạo để mang về nhà ăn. Cũng nhờ vậy mà dân Miên lên xin gạo, để rồi người tị nạn Việt mới có lối đi vượt biên.
Người dân Miên đi xin gạo có hàng đoàn dài, đa số đi bằng xe bò. Có người đem dân tị nạn cho Para để nhận thêm phần gạo đem về. Số này cũng không nhiều vì có truờng hợp nhiều người tị nạn bị dân dẫn đường bỏ rơi dọc đường.
Lực lượng Para là một nhóm quân lính ở trong rừng rú, không văn phòng, không kỷ luật. Người lính thì bản chất còn man dại, mang thú tính, không văn hóa và không có sợ răn dạy.
Người tị nạn Việt nam nếu muốn tới nơi thành công thì cũng phải dùng tất cả mưu trí và sự chịu đựng. Sự cực khổ càng nhiều thì càng chứng tỏ mức độ thông minh và mưu trí của người tị nạn. Mình còn sống đây là vì đã biết chịu đựng nhịn nhục vô cùng. Mình nhịn còn nhiều hơn là ”Hàn Tín luồn trôn”. Đôi khi luồn trôn vẫn còn qúa dễ hơn là những người tị nạn phải chịu nhục nhã bởi sự đàn áp và hành hung của lính Para.
Nguyên nhân nào làm cho lính Para trở thành bọn cướp đường hung ác? Ta hãy nhìn lại qúa trình lịch sử của đất nước Cambodia. Sau năm 1975, dân tộc họ bị Pol Pot tàn sát khoảng hai, ba triệu người. Sau đó vào năm 1979, Việt Cộng xâm lăng Cambodia và áp đặt chính phủ bù nhìn lên dân tộc Cambodia.
Vì thế bọn Para đã chống đỡ hàng ngày, quen thói giết người. Họ giết người theo luật rừng xanh, không cần tòa án. Họ tập trung năm, sáu trăm người gan lì nhất, những kẻ chấp nhận cái chết và sự giết chóc. Họ giết người mà không bị ở tù.
Người Miên lại có mối thù truyền kiếp với dân tộc Việt Nam. Vả lại, người nào trong đám đó hầu như cũng có một tiểu sử thù hận nên mới ở lại trong rừng để chiến đấu. Nếu không thì họ đã đi làm ruộng hay đi tị nạn như một số dân Miên khác.
(Vượt biên đường bộ tìm tự do, Kim Hà)
http://memaria.org/vuot_bien_duong_bo_tim_tu_do/luc_luong_para/
Thái tử Norodom Ranariddh ( thứ hai-từ trái sang) và ông Nhiek Bun Chhay ( bìa phải) thời gian còn mặn nồng trên biên giới Thái - Kam.
Không rõ thời gian này ông Norodom Ranariddh nhận trọng trách gì?
Nguồn: http://ki-media.blogspot.com/2012/07/prince-blamed-15-years-on-nhiek-bun.html
Theo: Vnmilitaryhistory
Trong tiểu sử của phó thủ tướng hiện nay của Campuchia, ngài Nhek Bun Chhay - đặc trách vấn đề tranh chấp quân sự dọc biên giới Thái Lan, ông Nhek còn là tổng thư ký đảng bảo hoàng FUNCIPEC của hoàng thân Sihanouk hiện nay. Tiểu sử này có nhắc đến lúc ngài Nhek Bun Chhay hoạt động thành lập lực lượng MOULINAKA cho đến khi bị F302 đánh bại ở Bản Tàtum năm 1985 và MOULINAKA đã tan rã sau trận này http://www.nhekbunchhay.info/uploa_dbiography_en/biography.php:
"Ngày 31 tháng 8 1980, ông Công Si Lốp (Mr. Kong Sileah - chính là ông đại úy mà E4 F5 tấn công vào đầu năm 1980) kêu gọi các phe kháng chiến dọc biên giới và nội địa họp tại Seung Changha để thành lập 1 lực lượng gọi là "Mouvement de liberation Nation du Kampuchea" tên tiếng Pháp, viết tắt là MOULINAKA. Hội nghị đã bầu ô. Công Si Lốp làm chủ tịch MOULINAKA, ô. Nhem Sophon phó chủ tịch và ô. Nhek Bun Chhay chỉ huy tiểu đoàn 124, ô. Khan Savoeun chỉ huy tiểu đoàn 125 của MOULINAKA. Cuối 1981, ô. Công Si Lốp bị thuốc độc chết và ô. Nhem Sophon lên thay chức chủ tịch MOULINAKA, và ô. Duong Khem phó chủ tịch. Cuối 1982, quân VN tấn công Nong Chan, Russey Srok và trại tỵ nạn Prey Preah Phnov do MOULINAKA kiểm soát. MOULINAKA và gia đình của họ vào khoảng 30.000 người sơ tán về O’ Smach và Bản Tà Tum. 21 tháng 3 năm 1981, ngài Norodom Sihanouk thành lập đảng chính trị "Le Front Unite Nation Pour un Cambodge Independant, Neutre, Pacifique et Cooperative" gọi tắt là FUNCINPEC. Đảng này thống nhất 3 lực lượng: MOULINAKA - chỉ huy bởi ô. Nhem Sophon, kháng chiến quân Khlaing Moeung - chỉ huy là ô. Tuon Chhay, và kháng chiến quân khu Bắc do ô. Svy Thoeun chỉ huy tại O’ Smach. Ngài Norodom Sihanouk chọn In Tam làm đại diện ở châu Á, đặt bản doanh ở O’Smach (cạnh Núi Cóc là địa bàn của E429). 04 tháng 9 năm 1981, ngài Sihanouk tuyên bố thành lập quân đội "Army National Sihanoukist" gọi tắt là ANS bao gồm MOULINAKA - lữ đoàn 1, kháng chiến quân Khlaing Moeung - lữ đoàn 2 và kháng chiến quân khu Bắc - lữ đoàn 3. Ngài Sihanouk chỉ định tướng Tiep Ben làm tổng tư lệnh và tướng Kim Men tư lệnh phó; Tea Chamrath tư lệnh phó về kinh tài cho ANS. Sau đó ANS lập lữ đoàn 5 giao cho thái tử Norodom Chakrapong làm chỉ huy. Lữ đoàn này còn gọi là cấm vệ quân. Sau đó lữ đoàn 6 thành lập dưới quyền chỉ huy của tướng Kieng Vang. Cuối 1983, ô. Nhem Sophon bị sốt rét chết, ô. Duong Khem lên thay làm chỉ huy lữ 1 (lữ đoàn của MOULINAKA), ô. Prak Sen và Nhek Bun Chhay làm phó. Tháng 2 năm 1985, ô. Nhek Bun Chhay được cử đi học ở học viện sỹ quan cao cấp Thái. Tháng 3 năm 1985, bộ đội VN tấn công toàn tuyến biên giới Thái. Tướng Kim Men tư lệnh phó của ANS bị giết chết ở Bản Ta Tum. Tướng Kim Men chết, tướng Ton Chhay lên thay làm tư lệnh phó của ANS. Ô. Nhek Bun Chhay làm chỉ huy lữ đoàn 2 thế cho tướng Ton Chhay. Tới 27 tháng 4 1990 (sau khi VN rút quân), ANS đổi tên là "Army National Kampuchea Indepedant" gọi tắt là ANKI".
"Ngày 31 tháng 8 1980, ông Công Si Lốp (Mr. Kong Sileah - chính là ông đại úy mà E4 F5 tấn công vào đầu năm 1980) kêu gọi các phe kháng chiến dọc biên giới và nội địa họp tại Seung Changha để thành lập 1 lực lượng gọi là "Mouvement de liberation Nation du Kampuchea" tên tiếng Pháp, viết tắt là MOULINAKA. Hội nghị đã bầu ô. Công Si Lốp làm chủ tịch MOULINAKA, ô. Nhem Sophon phó chủ tịch và ô. Nhek Bun Chhay chỉ huy tiểu đoàn 124, ô. Khan Savoeun chỉ huy tiểu đoàn 125 của MOULINAKA. Cuối 1981, ô. Công Si Lốp bị thuốc độc chết và ô. Nhem Sophon lên thay chức chủ tịch MOULINAKA, và ô. Duong Khem phó chủ tịch. Cuối 1982, quân VN tấn công Nong Chan, Russey Srok và trại tỵ nạn Prey Preah Phnov do MOULINAKA kiểm soát. MOULINAKA và gia đình của họ vào khoảng 30.000 người sơ tán về O’ Smach và Bản Tà Tum. 21 tháng 3 năm 1981, ngài Norodom Sihanouk thành lập đảng chính trị "Le Front Unite Nation Pour un Cambodge Independant, Neutre, Pacifique et Cooperative" gọi tắt là FUNCINPEC. Đảng này thống nhất 3 lực lượng: MOULINAKA - chỉ huy bởi ô. Nhem Sophon, kháng chiến quân Khlaing Moeung - chỉ huy là ô. Tuon Chhay, và kháng chiến quân khu Bắc do ô. Svy Thoeun chỉ huy tại O’ Smach. Ngài Norodom Sihanouk chọn In Tam làm đại diện ở châu Á, đặt bản doanh ở O’Smach (cạnh Núi Cóc là địa bàn của E429). 04 tháng 9 năm 1981, ngài Sihanouk tuyên bố thành lập quân đội "Army National Sihanoukist" gọi tắt là ANS bao gồm MOULINAKA - lữ đoàn 1, kháng chiến quân Khlaing Moeung - lữ đoàn 2 và kháng chiến quân khu Bắc - lữ đoàn 3. Ngài Sihanouk chỉ định tướng Tiep Ben làm tổng tư lệnh và tướng Kim Men tư lệnh phó; Tea Chamrath tư lệnh phó về kinh tài cho ANS. Sau đó ANS lập lữ đoàn 5 giao cho thái tử Norodom Chakrapong làm chỉ huy. Lữ đoàn này còn gọi là cấm vệ quân. Sau đó lữ đoàn 6 thành lập dưới quyền chỉ huy của tướng Kieng Vang. Cuối 1983, ô. Nhem Sophon bị sốt rét chết, ô. Duong Khem lên thay làm chỉ huy lữ 1 (lữ đoàn của MOULINAKA), ô. Prak Sen và Nhek Bun Chhay làm phó. Tháng 2 năm 1985, ô. Nhek Bun Chhay được cử đi học ở học viện sỹ quan cao cấp Thái. Tháng 3 năm 1985, bộ đội VN tấn công toàn tuyến biên giới Thái. Tướng Kim Men tư lệnh phó của ANS bị giết chết ở Bản Ta Tum. Tướng Kim Men chết, tướng Ton Chhay lên thay làm tư lệnh phó của ANS. Ô. Nhek Bun Chhay làm chỉ huy lữ đoàn 2 thế cho tướng Ton Chhay. Tới 27 tháng 4 1990 (sau khi VN rút quân), ANS đổi tên là "Army National Kampuchea Indepedant" gọi tắt là ANKI".
Theo: Vnmilitaryhistory
____________
Ở chiến khu, họ tìm quỹ tiền bạc để sống bằng cách chận những người buôn lậu từ biên giới Thái Lan về để cướp của. Họ còn chận bắt những người tị nạn Việt Nam để bắt bớ, cướp của, hãm hiếp và giết hại.
Đương nhiên ở tại vùng biên giới, họ là ngưỡng cửa để chận cả hai bên mà ăn cuớp. Xong xuôi, họ còn bắt giữ dân tị nạn Việt Nam lại để làm gia mặc cả và đòi hội HTTQT nếu muốn cứu dân tị nạn thì phải trả cho họ khoảng 5 tạ gạo cho mỗi đầu người dân tị nạn.
Lực lượng kháng chiến Para vì chuyện chận bắt người buôn lậu và người Việt tị nạn để cướp của, hãm hiếp và giết hại. Nên từ đó, những người đứng đắn và có chính nghĩa ở trong Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia Cambodia đã rút lui hết. Chỉ còn lại toàn phường đầu trộm đuôi cướp mà thôi.
Nhân số của lực lượng này chỉ độ năm trăm người lính vô kỷ luật, toàn là quân ăn cướp và sát nhân. Những lần đụng trận với Cộng Sản Việt Miên thì họ đều bị đánh bật ra, phải tràn qua Thái Lan và nhờ lính Thái đánh trả lại lính Cộng sản.
Có thể nói lực lượng Para là những con thú dữ chống Cộng Sản. Họ phải tự tìm phương kế sinh sống nơi biên giới bằng cách cướp của giết người.
Hãy thử tưởng tượng năm trăm con người chiến đấu ở vùng biên giới. Trước mặt và sau lưng đều có kẻ thù: Lực lượng Khmer Đỏ Pol Pot và lực lượng Cộng Sản Việt Nam. Nếu họ không được tài trợ và nuôi đưỡng đầy đủ thì họ làm gì để sống và để duy trì cơ sở căn bản của mặt trận của họ. Tuy nhiên, họ đã đối xử độc ác với những người tị nạn Việt Nam đi ngang qua căn cứ địa của họ. Họ sống ở trong rừng, thiếu thốn mọi nhu cầu, kể cả nhu cầu sinh lý. Vì thế họ đã làm bậy bằng cách hãm hiếp các phụ nữ của dân tộc khác.
Những thanh niên Para này lại ít học và ngu dốt. Sau khi đã cướp của, hãm hiếp và giết người, họ sợ tiếng xấu loan truyền ra ngoài. Vì thế, họ phải giết người để ngăn tiếng xấu. Ai ngờ tiếng xấu cũng vẫn lọt ra và làm cho giá trị mặt trận thấp kém và mất uy tín đi.
Lực luợng Para muốn mua lòng dân chúng Miên. Họ dùng dân tị nạn Việt nam để đổi lấy số gạo từ hội HTTQT, nhưng phát gạo cho dân chúng Miên. Hễ dân Miên nào đói khổ, tới xin gạo thì họ đều cho gạo để mang về nhà ăn. Cũng nhờ vậy mà dân Miên lên xin gạo, để rồi người tị nạn Việt mới có lối đi vượt biên.
Người dân Miên đi xin gạo có hàng đoàn dài, đa số đi bằng xe bò. Có người đem dân tị nạn cho Para để nhận thêm phần gạo đem về. Số này cũng không nhiều vì có truờng hợp nhiều người tị nạn bị dân dẫn đường bỏ rơi dọc đường.
Lực lượng Para là một nhóm quân lính ở trong rừng rú, không văn phòng, không kỷ luật. Người lính thì bản chất còn man dại, mang thú tính, không văn hóa và không có sợ răn dạy.
Người tị nạn Việt nam nếu muốn tới nơi thành công thì cũng phải dùng tất cả mưu trí và sự chịu đựng. Sự cực khổ càng nhiều thì càng chứng tỏ mức độ thông minh và mưu trí của người tị nạn. Mình còn sống đây là vì đã biết chịu đựng nhịn nhục vô cùng. Mình nhịn còn nhiều hơn là ”Hàn Tín luồn trôn”. Đôi khi luồn trôn vẫn còn qúa dễ hơn là những người tị nạn phải chịu nhục nhã bởi sự đàn áp và hành hung của lính Para.
Nguyên nhân nào làm cho lính Para trở thành bọn cướp đường hung ác? Ta hãy nhìn lại qúa trình lịch sử của đất nước Cambodia. Sau năm 1975, dân tộc họ bị Pol Pot tàn sát khoảng hai, ba triệu người. Sau đó vào năm 1979, Việt Cộng xâm lăng Cambodia và áp đặt chính phủ bù nhìn lên dân tộc Cambodia.
Vì thế bọn Para đã chống đỡ hàng ngày, quen thói giết người. Họ giết người theo luật rừng xanh, không cần tòa án. Họ tập trung năm, sáu trăm người gan lì nhất, những kẻ chấp nhận cái chết và sự giết chóc. Họ giết người mà không bị ở tù.
Người Miên lại có mối thù truyền kiếp với dân tộc Việt Nam. Vả lại, người nào trong đám đó hầu như cũng có một tiểu sử thù hận nên mới ở lại trong rừng để chiến đấu. Nếu không thì họ đã đi làm ruộng hay đi tị nạn như một số dân Miên khác.
(Vượt biên đường bộ tìm tự do, Kim Hà)
http://memaria.org/vuot_bien_duong_bo_tim_tu_do/luc_luong_para/
Nguồn: Ttnbg
_______________
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh Quốc: tòng phạm của Khmer đỏ
01/03/2009 Mai Vân - RFI
Nhân
dịp Toà Án Quốc tế xét xử tội ác Khờ Me Đỏ mở ra tại Phnom Penh, và
những kẻ phạm tội diệt chủng lần lượt ra trước vành móng ngựa, các tuần
báo Pháp đã nhìn lại thời kỳ đen tối của lịch sử Cam Bốt, để tìm hiểu và
đưa ra ánh sáng những tòng phạm, đã từng đứng sau lưng hỗ trợ chế độ
này
Tạp chí Le Courrier International đặt câu hỏi :
Những kẻ đồng lõa với Khmer Đỏ sao không không thấy đâu cả ? Nêu bật
thắc mắc của một chuyên gia về Khmer Đỏ, ông John Pilger, đã không thấy
nhắc đến những lãnh đạo phương Tây, đã từng hỗ trợ cho chế độ Pol Pot
nhân phiên tòa, Le Courrier Inetrnational đã trích đang bài viết của
chuyên gia này trên tờ báo anh ngữ độc lập, Phnom Penh Post xuất bản ở
thủ đô Cam Bốt.
Nixon và Kissinger đã gián tiếp giúp Pol Pot lên cầm quyền
Tác giả bài báo có vẻ lấy làm tiếc là hiện nay chỉ có các lãnh đạo Khmer Đỏ bị đem ra xét xử, trong lúc thảm kịch Cam Bốt bao gồm 3 giai đoạn, trong vụ diệt chủng chỉ là một giai đoạn, và duy nhất được ghi lại trong ký ức chính thức. Theo John Pilger, Pol Pot không thể nào lên nắm quyền nếu tổng thống Mỹ thờI đó Richard Nixon và cố vấn của ông là Henry Kissinger đã không mở chiến dịch tấn công tại Cam Bốt, vào thời nước này còn là một quốc gia trung lập.
Năm 1973, pháo đài bay B.52 đã dội xuống Cam Bốt một lượng bom còn cao hơn số bom mà Nhật Bản hứng chiụ trong suốt Đệ nhị Thế chiến. Theo Pilger, số người Cam Bốt bị chết ước tính khoảng 600.000 người. Một số hồ sơ đã cho thấy là cơ quan tình báo Mỹ CIA đã đo lường đươc hậu quả chính trị của chiến dịch. Họ đã cảnh báo : thiệt hại do B.52 gây ra là trọng tâm tuyên truyền của Khmer Đỏ, mà theo CIA, ''đã tuyển mộ đươc một số lớn thanh niên, trong số những người chạy lánh nạn chiến sự".
John Pilger kết luận miả mai là Khmer Đỏ đã hoàn tất những gì mà Nixon và Kissinger đã bắt đầu. Thế nhưng Kissinger sẽ không ngồi vào ghế bị cáo ở Phnom Penh vì ông đang bận cố vấn cho tổng thống Barack Obama trên các vấn đề điạ lý chiến lược.
Nước Anh của Thatcher bí mật tiếp tay cho Khmer Đỏ
Nhưng không phải có Hoa Kỳ và Henry Kissinger bị lên án. John Pilger còn nêu tên một người khác : cựu thủ tướng Anh, bà Margaret Thatcher, và những viện chức cao cấp của Anh, nay đã về hưu. Họ đã bí mật hỗ trợ cho Khmer Đỏ, sau khi chế độ này bị Việt Nam đánh đuổi. Đây là giai đoạn 3.
Năm 1979, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã áp đặt cấm vận đối với một nhà nước Cam Bốt bị kiệt quệ. Vì là người giải phóng Cam Bốt, Việt Nam đã không đứng về phe tốt trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Pilger còn nhận thấy là chưa bao giờ một chiến dịch do bộ ngoại giao Anh tổ chức lại trắng trợn và dữ dằn như thế. Anh Quốc đòi hỏi là chế độ không còn nữa của nước Kampuchéa Dân chủ, được giữ ''quyền'' đại diện cho nạn nhân của họ ở Liên Hiệp Quốc. Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc, đã biạ đặt ra một liên minh ''không cộng sản'' lưu vong, mà thật ra chủ yếu gồm phe Khmer Đỏ. Ở Thái Lan, các cơ quan tình báo Mỹ CIA và DIA (tình báo quốc phòng) đã duy trì quan hệ mật thiết với Khmer Đỏ.
Năm 1983, chính quyền Anh của bà Margaret Thatcher, còn cử lực lượng đặc biệt SAS đến huấn luyện cho các thành phần này, đặc biệt là các kỹ thuật gài mìn. Khi trả lời dân biẻu đối lập Neil Kinnock, bà Thatcher khi đó đã hoàn toàn phủ nhận, khẳng định rằng chính quyền Anh không hề dính líu vào việc huấn luyện, trang bị, hay một hình thức hợp tác nào, với lực lượng Khmer Đỏ hay đồng minh của họ. Có điều là năm 91, chính phủ kế nhiệm là John Major đã phải thú nhận trước Quốc Hội Anh là lực lượng đặc biệt SAS đã thực sự tham gia huấn luyện một cách bí mật cho lực lượng Pol Pot.
Tác giả bài báo kết luận, nếu công lý quốc tế không phải là một tấn hài kịch, thì phải gọi những người đồng hành với kẻ phạm tội ác ra trưóc toà án Phnom Penh. Ít ra là phải ghi tên họ vào ‘’danh sách nhục nhã’’. John Pilger là một chuyên gia về thời kỳ Khmer Đỏ, từng là phóng viên chiến trường, đồng thời là nhà văn, nhà đạo diễn phim. Ông là tác giả 2 bộ phim về thời kỳ Khmer Đỏ.
Hoa Kỳ đẩy Sihanouk vào vòng tay Khmer Đỏ
Le Monde 2, tạp chí hàng tuần của nhật báo Le Monde, đã ghi nhận một hệ quả khác của chiến dịch Mỹ tiến hành ở Cam Bốt : đẩy quốc vương Sihanouk đến với Khờ me đỏ.
Dưới tựa đề ‘’Sihanouk trong bóng Khmer Đỏ’’, tạp chí đăng lại một số bức ảnh ông Sihanouk chụp với các chiến sĩ trẻ hoặc bên cạnh các lãnh đạo Khmer Đỏ như Khiêu Samphan, trong bức ảnh đến tham quan thác Phnom Kulen ở vùng giải phóng, hay ảnh hoàng hậu Monique đứng bên cạnh vợ của Pol Pot. Theo lời chú thích, hai tấm ảnh này chụp vào tháng 3 và tháng tư năm 1973.
Một bức ảnh nữa cũng chụp Khiêu Samphan và Sihanouk ở Siem Reap, gần đền Angkor, chụp thời kỳ ông trở lại Phnom Penh, sau tháng 4 năm 1975. Hàng chú thích dưới bức ảnh giải thích : đây là một trong nhũng lần hiếm hoi mà ông Sihanouk rời cung điện ở Phnom Penh. Ông là nguyên thủ quốc gia nhưng không có quyền hạn gì và thật ra là tù nhân của Khmer Đỏ, từ tháng tư năm 1975 cho đến đầu năm 1976 (lúc ông từ chức).
Tạp chí Le Monde 2 cho biết là các bức ảnh trên nằm trong tài liệu lưu trữ cá nhân mà cưụ quốc vương Cambốt đã tặng cho Trưòng Viễn Đông Bác Cổ vào năm 2004. Hàng trăm ngàn tài liệu mà công việc kiểm kê, sắp xếp lại số tài liệu này chỉ vừa mới kết thúc. Tạp chí hoan nghênh thái độ minh bạch hoá lịch sử hiếm thấy của một nguyên thủ quốc gia.
Về bức ảnh đầu tiên, Francis Deron, tác giả bài báo dài lược qua thời kỳ này, và giải thích rằng : vào một ngày tháng 3 năm 1973, ở một góc rừng Cam Bốt, những chiến sĩ Khmer Đỏ đươc chọn lựa kỹ càng, đã được đưa đến chào người Cha đất nước, trước ống kính của một nhiếp ảnh gia do Trung Quốc đào tạo và trang bị.
Do đâu ông Sihanouk đã đến với Khmer Đỏ ? Dĩ nhiên là do chiến dịch của Hoa Kỳ ở Cam Bốt, việc dựng lên chính quyền Lon Nol, năm 1970. Bị quân đội lật đổ, không còn đươc hậu thuẩn của phưong Tây, Quốc vương Sihanouk, lánh nạn ở Bắc Kinh, đã không còn con đường nào khác là nghe lời của Trung Quốc liên minh với du kích quân Khmer Đỏ, mà trước đó ông vẫn cho săn đuổi.
Trong bài lược lại tình hình, Francis Deron nêu bật trở lại sự thay đổi thái độ của Henry Kissinger. Theo bài báo khi Pol Pot lên nắm quyền ở Phnom Penh, các nhà phân tích của CIA đã cố cảnh báo về chế độ độc tài đang đươc thiết lập ở đây. Nhưng CIA không phải là một nguồn tin đáng tin cậy. Chỉ có một người lắng nghe họ : Henry Kissinger, nhưng không phải là để ngăn chặn .
Bài báo trích lại lời của Kissinger, ngày 26 tháng 11 năm 1975, trong buổi ăn trưa ở bộ Ngoại giao với một đoàn đại diện Thái Lan : ‘’Chúng tôi nghĩ là mối đe doạ lớn nhất đối với Đông Nam Á hiện giờ, đến từ Miền Bắc Việt Nam. Chiến lược của chúng tôi là, là lôi kéo Trung Quốc đến Lào và Cam Bốt để ngăn chăn Việt Nam. Hãy nói với những người ở Cam Bốt rằng chúng tôi sẽ là bạn của họ. Họ là những tên côn đồ sát nhân, nhưng nói riêng giữa chúng ta thì điều đó không quan trọng. Chúng tôi sẳn sàng cải thiện quan hệ với họ. Hãy nói lại vớI họ phần cuối những gì tôi vừa nêu, đừng lập lại phần đầu’’.
(Những lời lẽ này nằm trong số tài liệu giải mật ngày 27 tháng 7 năm 2004). Và dĩ nhiên phía Thái Lan đã tường thuật lại cho Trung Quốc, và Bắc Kinh lập lại cho Khmer Đỏ.
Francis Deron nhận định là để trừng phạt Việt Nam, Henry Kissinger không ngần ngại sử dụng mọi phương cách. Việc Khmer Đỏ thù ghét Việt Nam là một công cụ tốt. Vả lại từ năm 1972, Bắc Kinh và Washignton không còn là kẻ thù nữa. Năm 1976, Trung Quốc ở vào một thờI điểm then chốt. Mao Trạch Đông qua đờI, Đặng Tiểu Bình sẽ cầm cương Trung Quốc. Đặng Tiều Bình, theo Deron, thù ghét Việt Nam không kém gì Kissinger.
Bài báo cũng nhắc lại là từ 1975 đến cuối 1978, Khmer Đỏ thực hiện kế hoạch thảm sát. Được sự hổ trợ của Trung Quôc và sự đồng ý ngầm của Phương Tây.
Như trả lờI thắc mắc của đồng nghiệp John Pilger, không thấy nhũng nguời bạn của Khmer Đỏ ở đâu trong vụ xét xử hiện nay, Deron cho là đã có những cuộc mặc cả gay go và thoả hiệp để chỉ xét xử những hành vi Khmer Đỏ trong giai đoạn từ năm 1975 đến ngày mùng 7 tháng giêng 1979. Phần còn lại, lịch sử sẽ phán xét.
Thái Lan chưa thoát khỏi quá khứ phong kiến
Tiếp tục nhìn sang Châu Á, le Courrier International chú trọng đến Thái Lan. DướI tựa đề ‘’Bất bình đẳng như là nền tảng của xã hội’’, tạp chí trích dẫn tờ Bangkok Post, lấy làm tiếc là khái niệm nhân quyền chưa thâm nhập thực sự vào xã hội Thái, và sở dĩ Thái Lan vẫn là đứa học trò kém cỏi về nhân quyền, đó là vì chưa thóat ra khỏi quá khứ phong kiến.
Bài báo nhắc lại là sau khi bị tố cáo ngược đãi ngườì tỵ nạn sắc tộc Rohingya (Miến Điện), chính quyền Bangkok đã mở cửa cho Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, và cho các tổ chức phi chinh phủ để vào điều tra.
Nhưng câu hỏi được nêu ra là chính quyền có thực sự giải quyết tận gốc vấn đề hay không ? Theo bài báo, người Thái Lan không chia sẻ khái niệm nhân quyền như người ta thấy ở phương Tây, ví dụ như đối với người hồi giáo Thái Lan. Việc họ bị đẩy ra bên lề xã hội là một thực tế, và phần lớn xã hội không thấy đoái hoài, tỏ cảm tình đối vơí thành phần này.
Suy nghĩ là mọi người đều có những quyền bình đẳng như nhau không có ở Thái Lan. Xã hội được xây dựng trên một nền tảng tôn ti trật tự. Thời phong kiến, mỗi tầng lớp xã hội có những quyền lợi khác nhau, trong mỗi tầng lớp thì đàn ông vẫn có quyền hơn đàn bà.
Cho đến nay thì người ta cũng không thực sự đòi hỏi quyền bình đẳng, Mọi người có vẻ an phận với chỗ đứng của mình bất kỳ là trong tầng lớp xã hội nào. Người Thái đã không thoát khỏi cơ cấu xã hội cứng nhắc dù quyền lợi của họ bị chà đạp. Không ai muốn thay đổi, kể cả giới chính trị.
Bài báo kết luận nếu thủ tướng Abhisit muốn thật sự cải thiện, tìm giải pháp cho vấn đề nhân quyền hiện nay thì ông phải thay đổi cả hệ thống xã hội, chính trị Thái, cách quan hệ giữa con người và con người. Tóm lại điều khó thể hay chưa thể làm được.
Trung Quốc : từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi
Tạp chí Anh The Economist tuần này chú trọng đến việc Bắc Kinh kềm hãm Tây Tạng với bàn tay sắt, trong lúc tạp chí kinh tế Pháp l'Expansion thì nhìn kinh tế Trung Quốc, và tóm lược tình hình trong hàng tựa hóm hỉnh : "Trung Quốc đi từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi". Tất cả các vùng miền, các vùng phát triển nhất cũng như tầng lớp trung lưu, không ai thoát khỏi tác động khủng hoảng kinh tế.
Năm nay theo l'Expansion, tình hình càng nguy hiểm với những lễ kỷ niệm lịch sử, 60 năm ngày Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, 50 năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong, 20 năm ngày đàn áp phong trào sinh viên Thiên An Môn.
L'Expansion ghi nhận yếu tố đáng ngại đối với chính quyền là người dân không còn sợ xuống đường để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Năm 2005, theo số liệu chính thức, đã có 87.000 cụôc biểu tình, phần lớn do các do vụ trưng thu đất đai. Nhưng bây giờ tình hình càng nguy hiểm do nạn thất nghiệp, đặc biệt trong số các dân công, ước tính có 20 triệu người mất việc làm. Ngày càng nhiều các công ty bị lỗ lã phải đóng cửa, và thường khi là không trả đươc lương công nhân. Tình cảnh bị sa thải, lại không tiền, họ là một thách thức lớn lao về mặt xã hội đối với chính quyền.
Trở lại vớí tạp chí Anh the Economist, nhận định về đối sách của Bắc Kinh đối với Tây Tạng, Tạp chí này nhìn thấy Trung Quốc chọn biện pháp mạnh vì có nhiều thuận lợi : tình hình êm xuôi, Tây Tạng không còn được thế giới quan tâm như vào năm ngoái. Trong chuyến công du vừa qua, tân ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton không đặt nặng vấn đề nhân quyền và Tây Tạng.
Nhưng the Economist cảnh báo là đàn áp không phải phương thức dẫn đến thành công chính trị. Theo tạp chí Anh, cái gai đối với chính quyền Bắc Kinh vẫn là Đức Đạt lai Lạt Ma. Lãnh đạo Trung Quốc nghĩ là mọi vấn đề sẽ đươc giải quyết khi ngài mất đi. Nhưng theo the Economist hệ quả có thể ngược lại, và Bắc Kinh có thể sẽ tiếc nuối ảnh hưởng ôn hoà của ngài.
_______________
Nixon và Kissinger đã gián tiếp giúp Pol Pot lên cầm quyền
Tác giả bài báo có vẻ lấy làm tiếc là hiện nay chỉ có các lãnh đạo Khmer Đỏ bị đem ra xét xử, trong lúc thảm kịch Cam Bốt bao gồm 3 giai đoạn, trong vụ diệt chủng chỉ là một giai đoạn, và duy nhất được ghi lại trong ký ức chính thức. Theo John Pilger, Pol Pot không thể nào lên nắm quyền nếu tổng thống Mỹ thờI đó Richard Nixon và cố vấn của ông là Henry Kissinger đã không mở chiến dịch tấn công tại Cam Bốt, vào thời nước này còn là một quốc gia trung lập.
Năm 1973, pháo đài bay B.52 đã dội xuống Cam Bốt một lượng bom còn cao hơn số bom mà Nhật Bản hứng chiụ trong suốt Đệ nhị Thế chiến. Theo Pilger, số người Cam Bốt bị chết ước tính khoảng 600.000 người. Một số hồ sơ đã cho thấy là cơ quan tình báo Mỹ CIA đã đo lường đươc hậu quả chính trị của chiến dịch. Họ đã cảnh báo : thiệt hại do B.52 gây ra là trọng tâm tuyên truyền của Khmer Đỏ, mà theo CIA, ''đã tuyển mộ đươc một số lớn thanh niên, trong số những người chạy lánh nạn chiến sự".
John Pilger kết luận miả mai là Khmer Đỏ đã hoàn tất những gì mà Nixon và Kissinger đã bắt đầu. Thế nhưng Kissinger sẽ không ngồi vào ghế bị cáo ở Phnom Penh vì ông đang bận cố vấn cho tổng thống Barack Obama trên các vấn đề điạ lý chiến lược.
Nước Anh của Thatcher bí mật tiếp tay cho Khmer Đỏ
Nhưng không phải có Hoa Kỳ và Henry Kissinger bị lên án. John Pilger còn nêu tên một người khác : cựu thủ tướng Anh, bà Margaret Thatcher, và những viện chức cao cấp của Anh, nay đã về hưu. Họ đã bí mật hỗ trợ cho Khmer Đỏ, sau khi chế độ này bị Việt Nam đánh đuổi. Đây là giai đoạn 3.
Năm 1979, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã áp đặt cấm vận đối với một nhà nước Cam Bốt bị kiệt quệ. Vì là người giải phóng Cam Bốt, Việt Nam đã không đứng về phe tốt trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Pilger còn nhận thấy là chưa bao giờ một chiến dịch do bộ ngoại giao Anh tổ chức lại trắng trợn và dữ dằn như thế. Anh Quốc đòi hỏi là chế độ không còn nữa của nước Kampuchéa Dân chủ, được giữ ''quyền'' đại diện cho nạn nhân của họ ở Liên Hiệp Quốc. Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc, đã biạ đặt ra một liên minh ''không cộng sản'' lưu vong, mà thật ra chủ yếu gồm phe Khmer Đỏ. Ở Thái Lan, các cơ quan tình báo Mỹ CIA và DIA (tình báo quốc phòng) đã duy trì quan hệ mật thiết với Khmer Đỏ.
Năm 1983, chính quyền Anh của bà Margaret Thatcher, còn cử lực lượng đặc biệt SAS đến huấn luyện cho các thành phần này, đặc biệt là các kỹ thuật gài mìn. Khi trả lời dân biẻu đối lập Neil Kinnock, bà Thatcher khi đó đã hoàn toàn phủ nhận, khẳng định rằng chính quyền Anh không hề dính líu vào việc huấn luyện, trang bị, hay một hình thức hợp tác nào, với lực lượng Khmer Đỏ hay đồng minh của họ. Có điều là năm 91, chính phủ kế nhiệm là John Major đã phải thú nhận trước Quốc Hội Anh là lực lượng đặc biệt SAS đã thực sự tham gia huấn luyện một cách bí mật cho lực lượng Pol Pot.
Tác giả bài báo kết luận, nếu công lý quốc tế không phải là một tấn hài kịch, thì phải gọi những người đồng hành với kẻ phạm tội ác ra trưóc toà án Phnom Penh. Ít ra là phải ghi tên họ vào ‘’danh sách nhục nhã’’. John Pilger là một chuyên gia về thời kỳ Khmer Đỏ, từng là phóng viên chiến trường, đồng thời là nhà văn, nhà đạo diễn phim. Ông là tác giả 2 bộ phim về thời kỳ Khmer Đỏ.
Hoa Kỳ đẩy Sihanouk vào vòng tay Khmer Đỏ
Le Monde 2, tạp chí hàng tuần của nhật báo Le Monde, đã ghi nhận một hệ quả khác của chiến dịch Mỹ tiến hành ở Cam Bốt : đẩy quốc vương Sihanouk đến với Khờ me đỏ.
Dưới tựa đề ‘’Sihanouk trong bóng Khmer Đỏ’’, tạp chí đăng lại một số bức ảnh ông Sihanouk chụp với các chiến sĩ trẻ hoặc bên cạnh các lãnh đạo Khmer Đỏ như Khiêu Samphan, trong bức ảnh đến tham quan thác Phnom Kulen ở vùng giải phóng, hay ảnh hoàng hậu Monique đứng bên cạnh vợ của Pol Pot. Theo lời chú thích, hai tấm ảnh này chụp vào tháng 3 và tháng tư năm 1973.
Một bức ảnh nữa cũng chụp Khiêu Samphan và Sihanouk ở Siem Reap, gần đền Angkor, chụp thời kỳ ông trở lại Phnom Penh, sau tháng 4 năm 1975. Hàng chú thích dưới bức ảnh giải thích : đây là một trong nhũng lần hiếm hoi mà ông Sihanouk rời cung điện ở Phnom Penh. Ông là nguyên thủ quốc gia nhưng không có quyền hạn gì và thật ra là tù nhân của Khmer Đỏ, từ tháng tư năm 1975 cho đến đầu năm 1976 (lúc ông từ chức).
Tạp chí Le Monde 2 cho biết là các bức ảnh trên nằm trong tài liệu lưu trữ cá nhân mà cưụ quốc vương Cambốt đã tặng cho Trưòng Viễn Đông Bác Cổ vào năm 2004. Hàng trăm ngàn tài liệu mà công việc kiểm kê, sắp xếp lại số tài liệu này chỉ vừa mới kết thúc. Tạp chí hoan nghênh thái độ minh bạch hoá lịch sử hiếm thấy của một nguyên thủ quốc gia.
Về bức ảnh đầu tiên, Francis Deron, tác giả bài báo dài lược qua thời kỳ này, và giải thích rằng : vào một ngày tháng 3 năm 1973, ở một góc rừng Cam Bốt, những chiến sĩ Khmer Đỏ đươc chọn lựa kỹ càng, đã được đưa đến chào người Cha đất nước, trước ống kính của một nhiếp ảnh gia do Trung Quốc đào tạo và trang bị.
Do đâu ông Sihanouk đã đến với Khmer Đỏ ? Dĩ nhiên là do chiến dịch của Hoa Kỳ ở Cam Bốt, việc dựng lên chính quyền Lon Nol, năm 1970. Bị quân đội lật đổ, không còn đươc hậu thuẩn của phưong Tây, Quốc vương Sihanouk, lánh nạn ở Bắc Kinh, đã không còn con đường nào khác là nghe lời của Trung Quốc liên minh với du kích quân Khmer Đỏ, mà trước đó ông vẫn cho săn đuổi.
Trong bài lược lại tình hình, Francis Deron nêu bật trở lại sự thay đổi thái độ của Henry Kissinger. Theo bài báo khi Pol Pot lên nắm quyền ở Phnom Penh, các nhà phân tích của CIA đã cố cảnh báo về chế độ độc tài đang đươc thiết lập ở đây. Nhưng CIA không phải là một nguồn tin đáng tin cậy. Chỉ có một người lắng nghe họ : Henry Kissinger, nhưng không phải là để ngăn chặn .
Bài báo trích lại lời của Kissinger, ngày 26 tháng 11 năm 1975, trong buổi ăn trưa ở bộ Ngoại giao với một đoàn đại diện Thái Lan : ‘’Chúng tôi nghĩ là mối đe doạ lớn nhất đối với Đông Nam Á hiện giờ, đến từ Miền Bắc Việt Nam. Chiến lược của chúng tôi là, là lôi kéo Trung Quốc đến Lào và Cam Bốt để ngăn chăn Việt Nam. Hãy nói với những người ở Cam Bốt rằng chúng tôi sẽ là bạn của họ. Họ là những tên côn đồ sát nhân, nhưng nói riêng giữa chúng ta thì điều đó không quan trọng. Chúng tôi sẳn sàng cải thiện quan hệ với họ. Hãy nói lại vớI họ phần cuối những gì tôi vừa nêu, đừng lập lại phần đầu’’.
(Những lời lẽ này nằm trong số tài liệu giải mật ngày 27 tháng 7 năm 2004). Và dĩ nhiên phía Thái Lan đã tường thuật lại cho Trung Quốc, và Bắc Kinh lập lại cho Khmer Đỏ.
Francis Deron nhận định là để trừng phạt Việt Nam, Henry Kissinger không ngần ngại sử dụng mọi phương cách. Việc Khmer Đỏ thù ghét Việt Nam là một công cụ tốt. Vả lại từ năm 1972, Bắc Kinh và Washignton không còn là kẻ thù nữa. Năm 1976, Trung Quốc ở vào một thờI điểm then chốt. Mao Trạch Đông qua đờI, Đặng Tiểu Bình sẽ cầm cương Trung Quốc. Đặng Tiều Bình, theo Deron, thù ghét Việt Nam không kém gì Kissinger.
Bài báo cũng nhắc lại là từ 1975 đến cuối 1978, Khmer Đỏ thực hiện kế hoạch thảm sát. Được sự hổ trợ của Trung Quôc và sự đồng ý ngầm của Phương Tây.
Như trả lờI thắc mắc của đồng nghiệp John Pilger, không thấy nhũng nguời bạn của Khmer Đỏ ở đâu trong vụ xét xử hiện nay, Deron cho là đã có những cuộc mặc cả gay go và thoả hiệp để chỉ xét xử những hành vi Khmer Đỏ trong giai đoạn từ năm 1975 đến ngày mùng 7 tháng giêng 1979. Phần còn lại, lịch sử sẽ phán xét.
Thái Lan chưa thoát khỏi quá khứ phong kiến
Tiếp tục nhìn sang Châu Á, le Courrier International chú trọng đến Thái Lan. DướI tựa đề ‘’Bất bình đẳng như là nền tảng của xã hội’’, tạp chí trích dẫn tờ Bangkok Post, lấy làm tiếc là khái niệm nhân quyền chưa thâm nhập thực sự vào xã hội Thái, và sở dĩ Thái Lan vẫn là đứa học trò kém cỏi về nhân quyền, đó là vì chưa thóat ra khỏi quá khứ phong kiến.
Bài báo nhắc lại là sau khi bị tố cáo ngược đãi ngườì tỵ nạn sắc tộc Rohingya (Miến Điện), chính quyền Bangkok đã mở cửa cho Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, và cho các tổ chức phi chinh phủ để vào điều tra.
Nhưng câu hỏi được nêu ra là chính quyền có thực sự giải quyết tận gốc vấn đề hay không ? Theo bài báo, người Thái Lan không chia sẻ khái niệm nhân quyền như người ta thấy ở phương Tây, ví dụ như đối với người hồi giáo Thái Lan. Việc họ bị đẩy ra bên lề xã hội là một thực tế, và phần lớn xã hội không thấy đoái hoài, tỏ cảm tình đối vơí thành phần này.
Suy nghĩ là mọi người đều có những quyền bình đẳng như nhau không có ở Thái Lan. Xã hội được xây dựng trên một nền tảng tôn ti trật tự. Thời phong kiến, mỗi tầng lớp xã hội có những quyền lợi khác nhau, trong mỗi tầng lớp thì đàn ông vẫn có quyền hơn đàn bà.
Cho đến nay thì người ta cũng không thực sự đòi hỏi quyền bình đẳng, Mọi người có vẻ an phận với chỗ đứng của mình bất kỳ là trong tầng lớp xã hội nào. Người Thái đã không thoát khỏi cơ cấu xã hội cứng nhắc dù quyền lợi của họ bị chà đạp. Không ai muốn thay đổi, kể cả giới chính trị.
Bài báo kết luận nếu thủ tướng Abhisit muốn thật sự cải thiện, tìm giải pháp cho vấn đề nhân quyền hiện nay thì ông phải thay đổi cả hệ thống xã hội, chính trị Thái, cách quan hệ giữa con người và con người. Tóm lại điều khó thể hay chưa thể làm được.
Trung Quốc : từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi
Tạp chí Anh The Economist tuần này chú trọng đến việc Bắc Kinh kềm hãm Tây Tạng với bàn tay sắt, trong lúc tạp chí kinh tế Pháp l'Expansion thì nhìn kinh tế Trung Quốc, và tóm lược tình hình trong hàng tựa hóm hỉnh : "Trung Quốc đi từ đại nhảy vọt đến đại hoài nghi". Tất cả các vùng miền, các vùng phát triển nhất cũng như tầng lớp trung lưu, không ai thoát khỏi tác động khủng hoảng kinh tế.
Năm nay theo l'Expansion, tình hình càng nguy hiểm với những lễ kỷ niệm lịch sử, 60 năm ngày Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, 50 năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong, 20 năm ngày đàn áp phong trào sinh viên Thiên An Môn.
L'Expansion ghi nhận yếu tố đáng ngại đối với chính quyền là người dân không còn sợ xuống đường để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Năm 2005, theo số liệu chính thức, đã có 87.000 cụôc biểu tình, phần lớn do các do vụ trưng thu đất đai. Nhưng bây giờ tình hình càng nguy hiểm do nạn thất nghiệp, đặc biệt trong số các dân công, ước tính có 20 triệu người mất việc làm. Ngày càng nhiều các công ty bị lỗ lã phải đóng cửa, và thường khi là không trả đươc lương công nhân. Tình cảnh bị sa thải, lại không tiền, họ là một thách thức lớn lao về mặt xã hội đối với chính quyền.
Trở lại vớí tạp chí Anh the Economist, nhận định về đối sách của Bắc Kinh đối với Tây Tạng, Tạp chí này nhìn thấy Trung Quốc chọn biện pháp mạnh vì có nhiều thuận lợi : tình hình êm xuôi, Tây Tạng không còn được thế giới quan tâm như vào năm ngoái. Trong chuyến công du vừa qua, tân ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton không đặt nặng vấn đề nhân quyền và Tây Tạng.
Nhưng the Economist cảnh báo là đàn áp không phải phương thức dẫn đến thành công chính trị. Theo tạp chí Anh, cái gai đối với chính quyền Bắc Kinh vẫn là Đức Đạt lai Lạt Ma. Lãnh đạo Trung Quốc nghĩ là mọi vấn đề sẽ đươc giải quyết khi ngài mất đi. Nhưng theo the Economist hệ quả có thể ngược lại, và Bắc Kinh có thể sẽ tiếc nuối ảnh hưởng ôn hoà của ngài.
_______________
Những đồng minh của Polpot ở Mỹ và Anh
Tác giả: John Pilger (nhà báo và nhà làm phim tài liệu điều tra đoạt giải Pulitzer người Australia)
Nguồn: http://www.freerepublic.com/forum/a3902258f0b7b.htm
17 tháng Tư năm nay (2000), là 25 năm từ
khi Khmer Đỏ của Polpot tiến vào Phnom Penh. Trong lịch của sự cuồng
tín, đó là Năm Số Không; khoảng hai triệu người, một phần năm dân cư của
Campuchia, sẽ chết như một hệ quả của ngày hôm đó. Để đánh dấu ngày kỷ
niệm này, tội ác của Polpot sẽ được nhắc đến, gần như một hành động mang
tính nghi thức cho những người tò mò về những trò chính trị đen tối và
không giải thích được. Đối với những người cầm chịch của sức mạnh phương
tây, những bài học đúng sẽ không được rút ra, vì không có những kết nối
nào sẽ được dẫn tới họ và tới những người đi trước của họ, những người
đã từng là đối tác kiểu Faust (nhân vật huyền thoại thời trung cổ đã bán
linh hồn cho ác quỉ để đổi lấy kiến thức và sức mạnh) với Polpot. Tuy
vậy, sự thật vẫn là sự thật, nếu không có sự đồng lõa của phương Tây,
Năm Số Không có thể đã chưa bao giờ xảy ra, hay sự đe dọa trở lại của nó
đã không được nuôi dưỡng lâu dài đến như vậy.
Những tài liệu giải mật của chính phủ Mỹ
để lại rất ít nghi ngờ rằng việc ném bom bí mật và bất hợp pháp lên
lãnh thổ nước Campuchia trung lập lúc đó bởi Tổng thống Richard Nixon và
Henry Kissinger giữa 1969 và 1973 đã gây ra chết chóc và tàn phá trên
bình diện rộng, và nó đã tạo điều kiện cho sự hình thành sức mạnh của
lực lượng Polpot. "Họ đang sử dụng thiệt hại gây ra bởi những vụ ném bom
B52 như là đề tài chính để tuyên truyền" Giám đốc hoạt động của CIA
tường trình tháng 2/1973. "Cách tiếp cận này đã dẫn đến sự tuyển mộ
thành công thanh niên. Dân chúng nói rằng chiến dịch tuyên truyền đã có
hiệu quả với những người tị nạn trong những vùng là mục tiêu của B52."
Qua việc thả một khối lượng bom tương đương với năm quả bom ở Hiroshimas
lên một cộng đồng nông dân, Nixon và Kissinger đã giết chết ước tính
khoảng một nửa triệu người. Năm Số Không bắt đầu, trên thực tế, là với
họ (Nixon và Kissinger); việc ném bom bừa bãi là một chất xúc tác cho sự
nổi lên của một nhóm bè phái nhỏ, Khmer Đỏ, mà chủ trương là sự kết hợp
giữa Chủ nghĩa Mao và nếp sống thời Trung cổ trước đó không có sự ủng
hộ trong đại chúng.
Sau hai năm rưỡi nắm quyền, Khmer Đỏ bị
lật đổ bởi quân đội Việt nam vào Ngày Lễ Noel, 1978. Và những tháng năm
sau đó, Mỹ cùng với Trung Quốc và những đồng minh của họ, đáng chú ý là
chính phủ Thatcher (Thủ tướng Anh lúc đó), đã chống lưng cho Polpot đang
đào tị trên đất Thái. Ông ta là kẻ thù của kẻ thù của họ: Việt Nam.
Công giải phóng Campuchia của nước này đã không thể được công nhận, vì
họ ở bên kia chiến tuyến của cuộc Chiến tranh Lạnh. Đối với người Mỹ,
bây giờ đang ủng hộ Bắc Kinh chống lại Moskva, có một bàn thua cần phải
gỡ cho mối nhục của họ khi phải tháo chạy khỏi Sài Gòn trên những mái
nhà.
Về việc này, Liên Hiệp Quốc đã bị lạm
dụng bởi những cường quốc. Mặc dù chính phủ Khmer Đỏ ("Kampuchea Dân
chủ") đã ngừng tồn tại từ tháng Giêng, 1979, những người đại diện của nó
vẫn được phép tiếp tục chiếm giữ cái ghế của Campuchia tại Liên Hợp
Quốc; Thực vậy, Mỹ, Trung quốc và Nước Anh đã đòi hỏi như thế. Cùng lúc
đó, một lệnh cấm vận của Hội đồng Bảo an lên nước này đã làm tăng thêm
sự khốn khổ mất mát của một đất nước đang bị tổn thương nặng nề, trong
khi Khmer Đỏ đang đào tị thì gần như muốn gì được nấy. Vào 1981, cố vấn
An ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, Zbigniew Brzezinski,
nói: "Tôi động viên người Trung hoa hỗ trợ Polpot". Nước Mỹ, ông ta thêm
rằng, "nháy mắt công khai" khi Trung quốc gửi vũ khí cho Khmer Đỏ.
Sự thật là Mỹ đã bí mật tài trợ cho
Polpot lúc đang đào tị từ tháng Giêng, 1980. Qui mô của sự hỗ trợ này --
85 triệu USD từ 1980 đến 1986 -- đã được tiết lộ ra qua một bức thư gửi
tới một thành viên của Ủy ban Quan hệ Nước ngoài của Thượng viện. Trên
biên giới Thái Lan với Campuchia, CIA và các cơ quan tình báo khác thiết
lập một cơ quan gọi là Nhóm Cứu cấp Campuchia, mà nhiệm vụ là bảo đảm
hàng cứu trợ nhân đạo sẽ đến những khu của Khmer Đỏ trong những trại tị
nạn và bên kia biên giới. Hai người Mỹ làm việc cứu trơ, Linda Mason và
Roger Brown, sau đó viết "Chính phủ Mỹ nhấn mạnh rằng Khmer Đỏ phải được
nuôi... Mỹ thích việc nuôi cơm cho Khmer Đỏ đó được hưởng dưới uy tín
của hoạt động cứu trợ mà cả thế giới biết đến. "Dưới sức ép Mỹ, Chương
trình Thực phẩm Thế giới đã trao hơn 12 triệu USD giá trị thực phẩm cho
quân đội Thái Lan để chuyển qua cho Khmer Đỏ; "20.000 tới 40.000 kháng
chiến quân Polpot đã hưởng lợi", Richard Holbrooke, trợ lý bộ trưởng
ngoại giao Mỹ lúc đó, viết.
Tôi chứng kiến điều này. Đi cùng đoàn xe
của Liên Hợp Quốc gồm 40 xe tải, Tôi đến một khu căn cứ hoạt động của
Khmer Đỏ ở Phnom Chat. Người chỉ huy cơ sở này là Nam Phann, một người
khét tiếng, được nhân viên cứu trợ biết đến với cái tên "Đồ tể" và
"Himmler của Polpot". Sau khi đồ cung cấp đã được bốc dỡ hết, ngay dưới
chân mình, ông ta nói "Cám ơn bạn rất nhiều, và chúng tôi muốn có thêm
nữa".
Trong tháng Mười Một của năm đó, 1980,
tiếp xúc trực tiếp giữa nhà Trắng và Khmer Đỏ đã được bố trí khi Bác sĩ
Ray Cline, một cựu phó giám đốc của CIA, làm một cuộc viếng thăm bí mật
đến một trụ sở hoạt động chính của Khmer Đỏ. Lúc đó Cline là một cố vấn
về chính sách đối ngoại trong nhóm chuyển tiếp của Tổng thống vừa đắc cử
là Reagan. Đến năm 1981, một số chính phủ trên thế giới đã trở nên rõ
ràng khó chịu với trò đố chữ của Liên Hợp Quốc đang tiếp tục công nhận
cái chế độ đã chết từ lâu của Polpot. Cần phải làm một cái gì đó để cải
thiện tình hình. Năm sau đó, Mỹ và Trung Quốc sáng chế ra Liên minh của
Chính phủ Dân chủ Campuchia, mà thực sự không phải là một Liên minh,
cũng không phải Dân chủ, hay là một Chính phủ, hay hiện hữu trên đất
Campuchia. Nó là cái mà CIA gọi là "Một ảo tưởng bậc thầy". Hoàng tử
Norodom Sihanouk được chỉ định làm cái đầu của nó; ngoài ra không có gì
khác nhiều cả. Hai nhóm "không cộng sản", nhóm một là những người theo
Sihanouk, thì được dẫn dắt bởi con trai của Hoàng tử là Norodom
Ranariddh, nhóm thứ hai là Mặt trận Giải phóng Quốc gia của người Khmer,
mà về ngoại giao và quân sự, bị khống chế bởi phe Khmer Đỏ. Một trong
số những bạn thân của Polpot, Thaoun Prasith, là người điều hành văn
phòng đại diện của họ tại Liên Hợp Quốc ở New York.
Ở Bangkok, người Mỹ cung cấp cho "liên
minh" này những kế hoạch tác chiến, đồng phục, tiền và tình báo từ vệ
tinh; vũ khí thì đến trực tiếp từ Trung quốc hay từ phương tây, theo
đường Singapore. Phe không cộng sản đáng xấu hổ trên đã trở thành cái cớ
cho phép Quốc hội -- được thúc đẩy bởi một người cuồng tín về Chiến
tranh Lạnh là Stephen Solarz, một chủ tịch ủy ban có thế lực -- phê
duyệt 24 triệu USD giá trị viện trợ cho "kháng chiến".
Cho đến 1989, vai trò của Anh ở
Campuchia vẫn còn nằm trong bí mật. Những tường trình đầu tiên xuất hiện
trên tờ Sunday Telegraph, viết bởi Simon O'Dwyer- Russell, một phóng
viên ngoại giao và quốc phòng có những tiếp xúc nghề nghiệp và gia đình
gần gũi với SAS (lực lượng đặc biệt của Anh). Ông ta tiết lộ rằng SAS
đang huấn luyện lực lượng do Polpot cầm đầu. Không lâu sau đó, tờ Jane's
Defense Weekly lại cho biết rằng việc huấn luyện của Anh cho những
thành viên "không cộng sản" của "liên minh" đó đã được thực hiện "tại
những căn cứ bí mật trên đất Thái trong hơn bốn năm rồi". Huấn luyện
viên được cử đến từ SAS, "Tất cả bọn họ đều là những nhân viên quân sự
đang tại ngũ, cựu chiến binh của cuộc xung đột Falklands, được dẫn dắt
bởi một đại úy".
Việc huấn luyện ở Campuchia đã trở thành
riêng của Anh sau khi vụ "Irangate", vụ vũ khí đổi con tin, vỡ lở ra ở
Washington vào năm 1986. Nếu Quốc Hội biết được chuyện người Mỹ có dính
dáng đến chương trình huấn luyện bí mật ở Đông Dương, chưa nói đến việc
đó là huấn luyện cho lực lượng Polpot", một nguồn tin từ Bộ Quốc phòng
cho O'Dwyer- Russell cho biết, "Cái bong bóng đó chắc đã bay ngay lên.
Đó là một trong những vụ dàn dựng ăn ý cổ điển giữa Thatcher và Reagan".
Hơn nữa, Margaret Thatcher đã vuột miệng, trước sự kinh ngạc của Bộ
Ngoại giao, rằng "những người ôn hòa hơn trong lực lượng Khmer Đỏ sẽ
phải đóng vai trò nào đó trong chính phủ tương lai". Vào 1991, tôi phỏng
vấn một thành viên của Đội "R" (đội dự bị) của SAS, một người đã từng
phục vụ ở vùng biên giới. "Chúng tôi đã huấn luyện Khmer Đỏ về rất nhiều
những nội dung kỹ thuật -- rất nhiều về mìn," anh ta nói. "Chúng tôi đã
sử dụng mìn nguyên thủy đến từ Kho Đạn dược Hoàng gia ở nước Anh, đi
qua đường Ai-cập để đổi nhãn mác... Chúng tôi thậm chí còn huấn luyện họ
về tâm lý. Lúc đầu, họ muốn đi vào làng để chém người thôi. Chúng tôi
đã bảo họ cách làm sao để cảm thấy thư thái hơn..."
Bộ Ngoại giao đã phản ứng trước những
thông tin này bằng cách nói láo. "Nước Anh không có một sự giúp đỡ quân
sự dưới bất kỳ hình thức nào cho các đảng phái ở Campuchia", một nghị
viên phát biểu. Thủ tướng Anh lúc đó, Thatcher, viết cho Neil Kinnock,
"Tôi xác nhận rằng không có sự liên can nào giữa chính phủ Anh dưới bất
kỳ hình thức nào tới việc huấn luyện, trang bị hay hợp tác với Khmer Đỏ
hay những nhóm đồng minh với họ." Vào 25 tháng Sáu, 1991, sau hai năm
chối quanh, chính phủ cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng SAS đã bí mật
huấn luyện "quân kháng chiến" từ 1983. Một tường trình bởi Asia Watch đã
mô tả chi tiết: SAS đã dạy "cách sử dụng những thiết bị nổ tự tạo, bẫy
và chế tác, sử dụng những thiết bị kích nổ chậm". Tác giả của bản tường
trình, Rae McGrath (người cùng đoạt Giải thưởng Nobel Hoà bình từ cuộc
vận động quốc tế về mìn), viết trên tờ Guardian rằng "Việc huấn luyện
của SAS là một chính sách phạm tội vô trách nhiệm và đê tiện".
Khi cuối cùng, một "lực lượng gìn giữ
hoà bình" của Liên Hợp Quốc cũng đã đặt chân đến ở Campuchia vào 1992,
bản hiệp ước bán linh hồn cho ác quỉ đã lộ rõ hơn bao giờ hết. Được gọi
đơn thuần nhẹ nhàng là một "thành phần trong cuộc chiến", Khmer Đỏ được
chào đón quay trở lại Phnom Penh bởi viên chức của Liên Hợp Quốc, nếu
không phải là bởi người dân. Một chính khách phương tây, người đã giành
công kiến tạo "tiến trình hoà bình", Gareth Evans (ngoại trưởng Úc lúc
đó), lên tiếng trước bằng việc yêu cầu nên có một cách tiếp cận "vô tư"
đối với Khmer Đỏ và đặt ra câu hỏi rằng liệu gọi việc họ làm là diệt
chủng có phải đã tạo ra "một viên đá cản đường rõ ràng" không.
Khieu Samphan, thủ tướng của Polpot
trong thời gian những năm diệt chủng, tiếp nhận dàn chào của quân đội
Liên Hợp Quốc với người chỉ huy của họ, tướng người Australia John
Sanderson, đứng bên cạnh ông ta. Eric Falt, người phát ngôn của Liên Hợp
Quốc ở Campuchia, nói với tôi: "Mục tiêu của tiến trình hoà bình là cho
phép [Khmer Đỏ] gầy dựng lại tiếng tăm."
Hệ quả của việc nhúng tay vào của UN là
việc tách ra không chính thức ít nhất một phần tư Campuchia cho Khmer Đỏ
(theo bản đồ quân sự của Liên Hợp Quốc), cùng sự tiếp tục của một cuộc
nội chiến âm ỉ và cuộc bầu cử của một chính phủ bị chia rẽ hết thuốc
chữa giữa "hai thủ tướng" Hun Sen và Norodom Ranariddh.
Chính phủ Hun Sen kể từ sau đó đã thắng
cuộc bầu cử thứ hai một cách dứt khoát. Một người độc đoán và đôi khi
thô bạo, tuy vậy theo tiêu chuẩn Campuchia vẫn là ổn định lạ thường,
chính phủ được dẫn dắt bởi một người bất đồng quan điểm với Khmer Đỏ cũ,
chạy trốn sang Việt Nam từ những năm 1970, đã giải quyết xong những
thoả thuận với những nhân vật lãnh đạo thời Polpot, đáng chú ý là nhóm
ly khai của Ieng Sary, trong khi từ chối những người khác việc miễn tố.
Một khi chính phủ Phnom Penh và Liên Hợp
Quốc có thể đồng ý về một khuôn mẫu, một tòa án tội ác chiến tranh quốc
tế sẽ có nhiều khả năng tiến hành. Người Mỹ không muốn có sự tham gia
nhiều của người Campuchia; mối quan tâm của họ thật dễ hiểu vì không chỉ
có Khmer Đỏ sẽ bị buộc tội.
Luật sư Campuchia bảo vệ Ta Mok, người
lãnh đạo quân Khmer Đỏ bị bắt năm ngoái, đã nói: "Mọi người ngoại quốc
liên quan phải được gọi ra trước tòa án, và sẽ không có những ngoại
lệ... Madeleine Albright, Margaret Thatcher, Henry Kissinger, Jimmy
Carter, Ronald Reagan và George Bush... Chúng tôi sẽ mời họ tới để nói
cho thế giới biết rằng tại sao họ đã hỗ trợ cho Khmer Đỏ".
Đó là một nguyên lý quan trọng, mà
Washington và Whitehall, hiện thời nếu đang nuôi dưỡng những tên bạo
chúa tay dính đầy máu ở nơi nào đó trên thế giới, thì nên ghi nhớ lấy.
Theo DIEHARD CAT
Nguồn: Reds