Trước những cố gắng thương lượng của ta với Pol Pot không thành công,
cuối tháng 12/1977, ta đã dùng quân đội lớn có xe tăng hỗ trợ phản kích
bọn Pol Pot sâu vào nội địa CPC ở vùng Mỏ Vẹt dọc theo đường quốc lộ 1
tiến đến thị trấn [khum] Prasaut, gần thị xã Svay Rieng (cách biên giới
khoảng 50 km).
Ngày 31/12/1977, bọn Pol Pot ra tuyên bố chính phủ
lên án VN xâm lược CPC và tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao với VN. TQ
ủng hộ Pol Pot và phê phán VN. Ngày 31/12/1977, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Hoàng Văn Tiến gặp Đại sứ TQ Trần Chí Phương về tình hình biên giới
VN-CPC. Trần Chí Phương nói VN đã xâm lược CPC, đây là sự kiện nghiêm
trọng nhất của năm 1977, VN phải nhanh chóng rút quân.
Tối
3/1/1978, đ/c Nguyễn Cơ Thạch thông báo cho một số anh em ở Bộ Ngoại
giao: BCT ta họp nhận định ta có thể thắng về quân sự nhưng ta chưa có
ngọn cờ chính trị của người CPC nên quyết định rút quân. Ngày 6/1/1978
ta hoàn thành việc rút lui an toàn, bọn Pol Pot lấy ngày 6/1/1978 để ăn
mừng “chiến thắng” chống VN.
1.4 Năm 1978: năm bước ngoặt.
Bước
vào năm 1978, quan hệ VN với CPC và TQ ngày càng căng thẳng Năm 1977 TQ
gây ra 873 vụ va chạm ở biên giới và dùng người Hoa phá chính sách kinh
tế và cải tạo XHCN ở miền Nam, phá chính sách nghĩa vụ quân sự.
Tiếp
theo Tuyên bố của Chính phủ ta ngày 31/12/1977 về vấn đề biên giới
VN-CPC ngày 4/1/78, Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời TTXVN lần đầu tiên
đã nói ý chính sách nguy hiểm của nhà cầm quyền CPC “được bọn đế quốc và
phản động thế giới có tham vọng ở Đông-nam Á hoan nghênh và khuyến
khích”.
Ngày 5/2/1978, Chính phủ ta ra Tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam-CPC và đề nghị 3 điểm:
-
Chấm dứt ngay hoạt động quân sự thù địch ở biên giới, lực
lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên
giới 5 Km.
- Hai bên gặp nhau ngay đề bàn và ký Hiệp ước không xâm lược và Hiệp ước biên giới.
-
Hai bên sẽ thoả thuận một hình thức thích hợp bảo đảm quốc tế
và giám sát quốc tế Phía Pol Pot hoàn toàn bác bỏ đề nghị trên.
Về
thái độ của Lào: trong tháng 2/1978, đ/c Xuân Thủy dẫn đầu đoàn đại
biểu Đảng ta thăm bí mật Lào thông báo tình hình biên giới VN-CPC. Trong
cuộc họp với BCT Lào, đ/c Souphanouvong kể lại chuyến đi thăm hữu nghị
chính thức CPC tháng 12/1977, đ/c Souphanouvong có ấn tượng tốt, cho CPC
có kỷ luật và khâm phục việc CPC làm tốt hệ thống thủy lợi. Về quan hệ
VN- CPC, các đ/c Lào nói đại ý:
VN là anh cả nên xử sự đúng như
là người anh cả, hãy gặp phía CPC bàn bạc giải quyết (lúc này, Lào thừa
nhận VN là anh Cả nhưng rất phấn khởi đảm nhận vai trò anh Hai). VN đưa 3
đề nghị 5/2/1978 nhưng chỉ ra tuyên bố, không gửi trực tiếp cho phía
CPC có thể phía CPC phật lòng, cho VN không chân thành. Lúc này trong
nội bộ Lào có sự đấu tranh về quan điểm khá phức tạp trong quan hệ với
VN và với TQ trong khi đó TQ đẩy mạnh việc đưa quân giúp làm đường ở Bắc
Lào. Ngày 8/4/1978, Thứ trưởng Bộ Giao thông TQ Phan Kì thăm Lào, khánh
thành đoạn đường 286 km ở Bắc Lào. Theo gợi ý của Lào, ngày 10/4/1978,
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gửi công hàm
cho Ieng Sary nhắc lại đề nghị 3 điểm, nhờ Lào chuyển công hàm này. Ngày
15/5/1978, Bộ Ngoại giao CPC gửi công hàm trả lời, vu khống VN xâm
lược, muốn lập Liên bang Đông Dương, đòi VN thực hiện 4 điều kiện trong 7
tháng đến cuối năm 1978, có như vậy hai bên mới có thể gặp nhau.
Đáp
lại công hàm của phía CPC, ngày 6/6/1978, Bộ Ngoại giao ta gửi công hàm
cho Bộ Ngoại giao CPC nhắc đề nghị 3 điểm ngày 5/2/1978 và đề nghị 2
bên tuyên bố chấm dứt hoạt động quân sự thù địch ở biên giới vào một
ngày gần nhất mà hai bên thoả thuận, tách quân khỏi biên giới 5 Km, cùng
ngày đại diện ngoại giao 2 bên tại Viên Chăn (Vientiane) hoặc bất cứ
thủ đô nào gặp nhau để thoả thuận ngày giờ, địa điểm, cấp bậc cuộc họp
đại diện giữa 2 Chính phủ.
Tuy nhiên, mọi cố gắng đề nghị thương
lượng của ta với CPC đều bị bác bỏ kể cả nhờ LHQ và Phong trào Không
liên kết. Trong khi đó những cuộc tiến công giết hại đồng bào ta ở biên
giới ngày càng nghiêm trọng thêm điển hình là vụ thảm sát vô cùng dã man
ở xã Ba Chúc (An Giang) và thị xã Châu Đốc luôn bị pháo kích bằng pháo
130 ly. Tại Hội nghị Ngoại trưởng Phong trào Không liên kết ở Beograd
27/7/1978), phía CPC vu cáo ta thậm tệ và chống lại nội dung thông cáo
của Hội nghị Không liên kết kêu gọi 2 nước thương lượng. Còn ở LHQ, Kurt
Walheim, TTK/LHQ nói về quan hệ VN-CPC không được TQ tán thành.
Trong
khi cuộc chiến tranh biên giới với CPC ngày càng diễn ra ác liệt thì
quan hệ với TQ ngày càng căng thẳng hơn. Ngày 30/4/1978, lần đầu tiên,
Lưu Thừa Chí, Chủ tịch Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viên
TQ công khai nói Hoa kiều ở VN về nước hàng loạt, mở đầu cho chiến dịch
nạn kiều.
Ngày 12/5/1978, TQ gửi công hàm phản đối ta “bài xích,
xua đuổi Hoa kiều”, thông báo quyết định hủy bỏ 21 hạng mục thiết bị
toàn bộ cùng khoản tiền viện trợ dùng cho các hạng mục đó. Ngày
27/5/1978, TQ bác bỏ đề nghị của ta về chấm dứt tuyên truyền chống nhau,
đại diện 2 Chính phủ gặp nhau đàm phán và tự quyết định đưa tàu sang
đón “nạn kiều”. Ngày 30/5/1978, Chính phủ TQ gửi công hàm cho Chính phủ
ta hủy bỏ thêm 51 hạng mục thiết bị toàn bộ cùng khoản viện trợ dùng cho
các hạng mục đó. Ngày 2/6/1978, TQ gọi tất cả chuyên gia TQ ở VN về
nước. Ta gửi công hàm phê phán TQ (17/6/1978) làm xấu đi quan hệ với VN
và ủng hộ Pol Pot chống VN. Ngày 16/6/1978, TQ đòi ta rút 3 tổng lãnh sự
quán ở Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu.
Về quan hệ với Mỹ, ngày
3/2/1978 Mỹ trục xuất đ/c Đinh Bá Thi, Trưởng phái đoàn ta tại LHQ.
Tháng 5/1978, Phó Tổng thống Mondale đi Đông-nam Á. Ngày 19/5/1978, Đặng
Tiểu Bình nói với báo chí: trong suốt thời gian Phó Tổng thống Mondale
thăm Đông-nam Á, hầu như ngày nào CPC cũng bị VN tấn công. Những cuộc
tấn công ác liệt này là do ảnh hưởng của Liên Xô ở VN tăng lên.
Ngày
20-23/5/1978, Brezinski thăm TQ, hai bên tố cáo “chủ nghĩa bá quyền
Liên Xô” và cam kết cùng nhau chống bá quyền. Ngày 16/12/1978, Mỹ, TQ
công bố sẽ chính thức lập quan hệ ngoại giao từ 1/1/1979 và trước đó
ngày 12/8/1978 đã ký Hoà ước Trung-Nhật trong đó có điều khoản chống bá
quyền. Trong khi TQ, Mỹ đi vào câu kết chống Liên Xô, Đặng Tiểu Bình
không ngừng hết lời công kích và khiêu khích VN. Ngày 7/6/1978, Đặng
Tiểu Bình nói với nhà báo Thái: VN đã đi bước thứ 10 chống TQ. Khi họ đi
bước thứ 11 thì TQ mới đi bước thứ 1, tức là giảm viện trợ cho họ. Nếu
họ đi bước thứ 12 thì TQ sẽ có bước thứ 2. Ngày 3/10/1978, một lần nữa
Đặng nói với các nhà báo Thái: TQ cố tìm nguyên nhân tại sao VN chống TQ
mạnh như thế và thấy rằng đó là do VN muốn lập Liên bang Đông Dương mà
TQ thì không tán thành. Ngoài ra, còn do Liên Xô xúi giục và sử dụng VN
để tìm căn cứ quân sự ở Đông-nam Á. Hiện nay VN đã đưa quân lên biên
giới TQ rất đông. Nếu VN cho rằng tiềm lực của mình đứng thứ 3 thế giới
và đem quân đánh phá các nước thì để họ làm thử xem… Ngay dù Phnom Penh
có mất, những người CPC kiên cường sẽ làm chiến tranh du kích đến thắng
lợi cuối cùng. TQ sẽ không đưa quân sang chiến đấu ở CPC nhưng sẽ tiếp
tục viện trợ cho CPC trong tất cả lĩnh vực. Ngày 5/11/1978, Đặng thăm
Thái Lan và gọi VN là tên côn đồ phương Đông. Giữa tháng 11/1978, Cơ
Bằng Phi nói với Đại sứ Nam Tư, và Đại sứ CHDC Đức nói lại với ta rằng:
nếu VN tấn công CPC và cả Phnom Penh, TQ sẽ không đưa quân vào; TQ sẽ có
biện pháp kiềm chế VN ở biên giới Việt-Trung.
Tình hình trên đặt
ra cho ta một tình thế rất khó khăn, quan hệ với CPC, TQ đều xấu đi
nghiêm trọng và nhanh chóng. Tháng 5/1978, Bộ chính trị có Nghị quyết.
Tháng 6/1978, Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá IV của Đảng quyết tâm
tiêu diệt bè lũ Pol Pot-Ieng Sary (theo tinh thần đề nghị của Nhóm 77
như trên trình bày) và kiên quyết chống chủ nghĩa bá quyền TQ, bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mar-Lenin.
Ngày 27/7/1978, đ/c TBT Lê Duẩn ký Nghị quyết số 09-NQ/TW với tiêu đề
“Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 4 của BCH Trung ương về tình hình và
nhiệm vụ mới”.
Về nhận định tình hình, Nghị quyết viết: “sự
nghiệp phấn đấu đưa cả nước tiến lên CNXH theo đường lối của đại hội lần
thứ IV của Đảng đã thu được những thành quả bước đầu đáng phấn khởi và
đương trên đà tiến triển tốt.
Nhưng chúng ta có nhiều khó khăn
phải giải quyết trong quá trình tiến lên. Khó khăn lớn nhất hiện nay là
âm mưu và hành động phá hoại của tập đoàn phản bội theo chủ nghĩa Mao
trong giới cầm quyền Bắc Kinh đối với cách mạng nước ta. Chúng đã dùng
bè lũ Pol Pot-Ieng Sary gây ra cuộc chiến tranh chống VN, đánh phá biên
giới Tây-nam nước ta. Gần đây, chúng dựng lên sự kiện “nạn kiều”, cắt
hoàn toàn viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước, đóng cửa 3 tổng
lãnh sự quán của ta ở TQ, tìm cách gây rối cho ta về chính trị và kinh
tế, uy hiếp về quân sự ở tuyên biên giới Việt-Trung và ở Biển Đông, tiếp
sức cho bọn phỉ Mẹo ở Lào17 và ở biên giới phía Tây, hàng ngày tuyên
truyền kích động tư tưởng chống VN ở TQ và trên thế giới”.
…“Mục
tiêu chiến lược của chủ nghĩa Mao là xóa bỏ chủ nghĩa Mar-Lenin, xóa bỏ
CNXH, thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn
trên thế giới, trước hết là ở Đông Nam châu Á”.
…”Trên thế giới
đã hình thành 2 lực lượng đối lập đấu tranh với nhau: một bên là các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trong 3 dòng thác cách mạng của thời đại;
một bên là các lực lượng đế quốc, phản động, chống CNXH, độc lập dân
tộc, dân chủ và hòa bình, trong đó Mỹ là lực lượng đầu sỏ, tập đoàn theo
Mao phản bội chủ nghĩa Mar-Lenin trong giới cầm quyền Bắc Kinh là thế
lực phản động quốc tế lớn nhất, đồng minh của Mỹ.
Ở Đông-nam Á
nổi bật lên mâu thuẫn chủ yếu giữa độc lập dân tộc và CNXH với chủ nghĩa
bành trướng, bá quyền nước lớn của tập đoàn theo Mao trong giới cầm
quyền Bắc Kinh và các thế lực đế quốc đương tranh giành quyền lợi và ảnh
hưởng trong khu vực này. Tập đoàn phản bội theo Mao đóng vai trò xung
kích phản cách mạng nguy hiểm nhất, trực tiếp chống lại 3 dòng thác cách
mạng ở Đông Nam châu Á. Nước Cộng hoà XHCN VN độc lập, tự chủ, tiêu
biểu cho CNXH và độc lập dân tộc, có sức mạnh và tiềm lực lớn, có uy tín
chính trị cao trên thế giới, là nhân tố quan trọng của hòa bình và cách
mạng ở Đông- nam Á, đồng thời là trở lực lớn nhất đối với mưu đồ bành
trướng và bá quyền ở Đông-nam Á của những người cầm quyền Bắc Kinh theo
Mao…
…Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và
bá quyền nước lớn của tập đoàn phản bội trong giới cầm quyền Bắc Kinh là
một bộ phận quan trọng trong cuộc đâu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
cách thế lực phản động, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH
trên thế giới. Thắng lợi của cuộc đấu tranh đó sẽ có tác dụng to lớn,
phát triển thế tiến công của 3 dòng thác cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa
Marx-Lenin, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, khôi phục và tăng cường
đoàn kết trong hệ thống XHCN thế giới và trong phong trào cộng sản quốc
tế” .
…“Chúng ta đang ở trong giai đoạn vừa có hòa bình, vừa có
chiến tranh trên một bộ phận đất nước, đồng thời kẻ địch đương đe dọa
chiến tranh từ bên ngoài và gây rối bên trong, hòng gây khó khăn cho
công cuộc xây dựng của chúng ta và làm suy yếu ta về kinh tế và quốc
phòng. Tình hình còn diễn biến phức tạp. Chúng ta không loại trừ khả
năng kẻ địch tiến công quân sự qui mô lớn. Ta phải làm thất bại mọi âm
mưu và hành động của kẻ thù. Một mặt, ta phải tìm mọi cách làm cho khả
năng xấu nhất không xẩy ra. Nhưng mặt khác, ta phải khẩn trương chuẩn bị
và sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế “.
…“Chúng ta đương có
nhiều khó khăn của một nước sau nhiều năm chiến tranh ác liệt nhưng
Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hoàn toàn có đủ sức đánh thắng bọn theo chủ
nghĩa bành trướng đại dân tộc, nếu chúng trực tiếp xâm lược nước ta,
đồng thời đạp tan mọi âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ.
Chưa bao
giờ nước VN XHCN lại có sức mạnh như ngày nay. Đó là sức mạnh tổng hợp
của một nước độc lập, thống nhất, có chính nghĩa, có truyền thống anh
hùng, bất khuất, đoàn kết chống ngoại xâm, đã đánh thắng nhiều đế quốc
lớn, kể cả tên đế quốc đầu sỏ; có sức mạnh của nền chuyên chính vô sản…”
…“Đánh
bại mọi âm mưu và hành động của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc chống
VN là sứ mệnh lịch sử của nhân dân cả nước ta để bảo vệ độc lập dân
tộc, tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH, góp phần bảo vệ và
tăng cường CNXH trên thế giới và ở TQ, giữ gìn sự trong sáng của chủ
nghĩa Marx-Lenin.
Một lần nữa, tiếp theo cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, mâu thuẫn của thời đại lại tập trung ở VN,
cuộc đụng độ lịch sử mới có thể lại diễn ra ở VN, và kết quả cuối cùng
là nhân dân VN, chủ nghĩa Marx- Lenin, chính nghĩa và công lý sẽ
thắng!”.
Từ những nhận định như vậy, Nghị quyết xác định nhiệm vụ chung của cách mạng VN trước tình hình mới là:
“Động
viên cao độ tinh thần yêu nước và yêu CNXH, phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, truyền thống đoàn kết chiến đấu chống ngoại xâm, tinh thần
tự lực tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, xây dựng chế độ làm
chủ tập thể XHCN toàn diện và rộng khắp, đẩy mạnh công cuộc xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc, tăng nhanh tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá
tan âm mưu của địch hòng làm suy yếu và đánh phá nước ta, giành thắng
lợi trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam, tăng cường phòng thủ đất
nước, sẵn sàng chiến đấu đánh bại chiến tranh xâm lược trên qui mô lớn.
Tăng cường đoàn kết với các nước XHCN anh em và toàn thể loài người tiến
bộ, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc
Mỹ, chống chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản
động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, làm tốt nghĩa vụ quốc tế của nhân
dân ta, góp phần bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin, tăng
cường lực lượng của CNXH và độc lập dân tộc ở Đông-nam châu Á và trên
thế giới“.
Về quốc phòng, an ninh:
…”Kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng theo một kế hoạch cơ bản, lâu
dài và được nghiêm chỉnh thực hiện từng bước vững chắc. Chuẩn bị sẵn
sàng về mọi mặt để nắm chắc thế chủ động, giáng cho kẻ thủ xâm lược
những đòn sấm sét ngay từ đầu, dù chúng dùng phương tiện chiến tranh gì,
với bất cứ qui mô nào.
Tập trung sức thực hiện nhiệm vụ quân sự
trước mắt là đánh thắng trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam; tăng
cường khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu trên hướng Bắc và Tây Bắc,
tăng cường phòng thủ các đảo và bảo vệ vùng biển; bảo vệ vững chắc cả
nước. Phối hợp với các đ/c Lào dẹp bạo loạn, củng cố mọi mặt ở tuyến
biên giới phía Tây, phát huy sức mạnh của đường biên giới hữu nghị
Việt-Lào, ra sức làm tốt nghĩa vụ quốc tế“… ‘
Nghị quyết kết luận:
“Tiếp
theo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa kết thúc thì sứ mệnh lịch
sử mới, cuộc đấu tranh mới chống một đối tượng mới rất thâm độc và thô
bạo, lại bắt đầu.
Nhân dân ta đương vững bước tiến lên, hăng hái,
dũng cảm và bình tĩnh thông minh vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
quyết giành những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc VN yêu quý, đánh bại mọi mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa bành trướng đại dân tộc, tích cực làm nghĩa vụ quốc tế cao cả vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH trên toàn thế giới, tích cực
góp phần bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx- Lenin“.
Từ đây, ta tiến hành một loạt hoạt động quan trọng để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 :
-
Ngày 16/6/1978, BCT ra Nghị quyết 20 thành lập một ban mới gọi là B-
68 nhằm giúp Trung ương trong việc giúp cách mạng CPC. Nghị quyết nói
rõ đây là một cơ quan nghiên cứu, làm tham mưu, vừa là cơ quan chuyên
gia của bạn CPC. Trụ sở B-68 đặt ở ngôi nhà 606, đường Trần Hưng Đạo
thành phố HCM. B-68 lúc đầu do đ/c Nguyễn Xuân Hoàng làm Trưởng Ban, là
đ/c có quá trình lâu dài giúp CPC, từng là Trưởng ban CP-48 của Trung
ương Đảng; sau này đ/c Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Trưởng ban, Phó
ban có các đ/c Lê Hai (hiện là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính
trị), Đăng Thành, Vũ Oanh, Phan Đình Vinh, Nguyễn Hữu Tài (Ban Đối
ngoại Trung ương), Ngô Điền, sau này có thêm đ/c Phạm Chung (nguyên Phó
Văn phòng Trung ương Đảng). Khi cơ quan thành lập do đ/c Lê Đức Thọ trực
tiếp phụ trách đã nhanh chóng triển khai những công việc đế chuẩn bị
thực hiện Nghị quyết Trung ương
Đ/c Lê Đức Thọ vào Nam, tập
hợp những cán bộ miền Nam vốn quen biết CPC để xác minh những người ly
khai Pol Pot chạy sang VN, dùng trực thăng để triệu tập cán bộ, lúc này
Souvanna ở miền Đông CPC vốn có quan hệ tốt với VN hồi 1970 bị Pol Pot
trấn áp đã tự sát, (sau này Nayan Chanda và Ben Kierman viết nhiều sách
về vụ nổi dậy này ở miền Đông). Theo lời Hun Sen, Chea Sim, trước khi tự
sát Souvanna có dặn khi khó khăn cần chạy sang VN tìm sự giúp đỡ. Heng
Somrin và Chea Sim chạy sang VN năm 1978 cùng một số đông cán bộ cũng
thuộc lực lượng miền Đông mà Pol Pot gọi là khu 203, còn Hun Sen thì
sang VN từ 6/1977. Một nguồn cán bộ nữa là những người dân CPC khi ta
tấn công lên CPC ở khu vực Svay Rieng tháng 12/1977 cũng theo bộ đội VN
về VN tị nạn, sống tập trung ở trại Bến Sắn (Tây Ninh) trong số đó sau
này có người là Bộ, Thứ trưởng như Prach Sun, Phó Ban đối ngoại; Chay
Kannha, Chủ tịch Hội phụ nữ và Thứ trưởng Bộ Y tế; Chan Ven, Bộ trưởng
Bộ Giáo dục… Tôi được nghe kể lại là đ/c Lê Đức Thọ dặn cán bộ ta là
phải tìm cho bằng được ngọn cờ, ngọn cờ chính trị của người CPC dù đó là
“ngọn cờ rách”.
Trong khi bên trong ta chuẩn bị khẩn trương như
vậy thì hoạt động đối ngoại để chuẩn bị cho hành động của ta cũng diễn
ra rất khẩn trương. Nghị quyết Trung ương IV tháng 7/1978, đề ra nhiệm
vụ cho hoạt động đối ngoại là:
“Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH, giữ vững độc lập, tự chủ, đoàn kết với tất cả các
lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ
nghĩa bành trướng đại dân tộc, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ,
ra sức lợi dụng mọi mâu thuẫn giữa các đế quốc, giữa đế quốc và các
nước khác với bọn phản động quốc tế phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm nhất hiện nay của nhân dân các nước Đông-nam châu
Á là tập đoàn phản động theo Mao trong giới cầm quyền Bắc Kinh.
Ra
sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết anh em và quan hệ hợp tác gắn
bó về mọi mặt với Liên Xô, đồng thời tăng cường quan hệ hữu nghị với các
nước XHCN khác tranh chủ sự giúp đỡ của các nước XHCN cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước ta“…
- Ngày 29/6/1978 : VN chính thức gia nhập SEV ( Hội đồng tương trợ kinh tế ).
- Ngày 3/7/1978: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền thăm Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Malaysia, Lào.
-
Từ 13/9/1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi thăm các nước Thái Lan,
Philippines, Indonesia, Maylaysia, Singapore nêu đề nghị ký Hiệp ước
không xâm lược, không lật đổ, lập khu vực hòa bình, độc lập, tự do,
trung lập và ổn định, phồn vinh. Ta tuyên bố không ủng hộ các tổ chức
Mao-ít ở các nước này.
- Cuối tháng 9/1978, tại LHQ, VN và Mỹ
gặp nhau về bình thường hóa quan hệ 2 nước. VN không gắn điều 21 với
bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ.
Hai bên thoả thuận lập Working Group bàn về bình thường hóa quan hệ 2 nước.
- Trong 2 tháng 8 và 9/1978 đàm phán Trung-việt về người Hoa nhưng không kết quả.
-
Tháng 10/1978, Mỹ chuyển mạnh sang câu kết với TQ chống Liên Xô, VN,
giảm và tạm ngừng thương lượng về bình thường hóa quan hệ với VN.
- Ngày 3/11/1978, VN ký với Liên Xô Hiệp ước hữu nghị và hợp tác.
-
Ngày 2/12/1978, ta giúp hình thành Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu
nước CPC, ngọn cờ chính trị của lực lượng yêu nước CPC và Hãng thông tấn
SPK ra đời. Anh Ngô Tiến (hiện là phát thanh viên tiếng Khmer của Đài
Tiếng nói An Giang) là người dịch và chép tay bản Tuyên ngôn và Cương
lĩnh của Mặt trận để phân phát. Trong quá trình chuẩn bị, một lần nữa
những người CPC lại tỏ ý ngại VN lại chi phối CPC, điển hình là Ouch Bun
Chhoeun người thuộc khu miền Đông cùng chạy sang với Chea Sim, cũng
nhắc lại đề nghị tương tự như Pol Pot năm 1970 là VN chỉ giúp pháo binh,
vũ khí và huấn luyện còn CPC tự đánh. Vì tư tưởng dân tộc đó nên Ouch
Bun Chhoeun không được lựa chọn vào hàng ngũ lãnh đạo mặc dù anh ta có
trình độ, sau này Chhoeun làm Bộ trưởng tư pháp. Người được lựa chọn
đứng đầu Mặt trận là Heng Somrin, một người nông dân chất phác, hiền
lành.
Ngay trước và sau khi ra đời Mặt trận, ta đã từng bước ém quân vào sâu
trong nội địa CPC, giúp xây dựng những đội quân vũ trang tuyên truyền
CPC. Sau khi tập trung 19 trong số 25 sư đoàn ở biên giới CPC-VN, ngày
23/12/1978, quân Pol Pot tiến công thị trấn Bến Sỏi và mục tiêu là đánh
chiếm thị xã Tây Ninh. Từ 25/12/1978, ta bắt đầu mở cuộc tấn công lớn
sang CPC và 7/1/1979, đánh chiếm Phnom Penh và các tỉnh khác của CPC.
Cần
nói thêm rằng, sau khi ta đã đưa quân đánh sang CPC ngoài Mặt trận ta
chưa kịp giúp thành lập Đảng, khi Phnom Penh sắp giải phóng, ngày 6/1-
8/1/1979, tại Thủ Đức (thành phố HCM) đã họp Hội nghị xây dựng lại Đảng
CPC với tất cả là 62 đảng viên tập hợp từ các nguồn khác nhau bầu 7
người vào Ban xây dựng Đảng (sau này được gọi là Đại hội III): Pen
Sovan19, Trưởng ban; Heng Somrin, Chea Sim, Van Son, Chan Kiri,
Bouthong, Hun Sen là Uỷ viên. Van Son làm Trưởng ban tổ chức; Chan Kiri
làm Trưởng ban kiểm tra. (Chan Kiri là một đ/c gốc Nam bộ tham gia kháng
chiến chống Pháp, người trung thực chất phác nhưng năng lực hạn chế.
Pen Sovan không thích đ/c này, thường chê bai và cũng không muốn có một
đ/c lớp cũ như vậy trong lãnh đạo. Van Son là Trưởng ban tổ chức kiêm Bí
thư thành Uỷ Phnom Penh sớm có những biểu hiện sa đoạ và liên hệ với
những phần tử xấu. Tháng 3/1979 Van Son và Chan Kiri bị Pen Sovan gạt và
đưa Sai Phuthong thay Van Son nhưng không trao đổi gì với phía VN. Pen
Sovan, Chea Sim và Sai Phuthong hình thành Thường vụ Trung ương Đảng).
Ngày 7/1/1979, ta giải phóng Phnom Penh và các tỉnh nhưng các cán bộ chủ
chốt của CPC vấn còn ở tại căn cứ Quân khu 7 ở sân bay Tân Sơn Nhất mãi
đến ngày 24/1/79, một chiếc Yak 40 của ta mới chở số lãnh đạo CPC bao
gồm cả Pen Sovan, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen… về Phnom Penh để
25/1/1979 dự lễ mừng chiến thắng ở sân vận động Olimpic, còn mọi việc
của buổi lễ đều do chuyên gia và anh Phùng Thế Tài đứng ra tổ chức.
Chuyên gia VN đến làm tất cả, “làm thay, làm thầy” và “làm cả tớ”. Khi
chuẩn bị đón Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ngoài vật chất, lễ tân, người phục
vụ do Anh Khai ở Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh đưa lên, ta còn đưa
cả công nhân quét đường lên Phnom Penh. Tôi còn nhớ một chi tiết khi
Phnom Penh giải phóng, cần ra đời Chính phủ và tên nước mới, Bộ Ngoại
giao được giao nhiệm vụ soạn giúp Tuyên ngôn của Chính phủ mới CPC. Một
buổi tối sau 7/1/1979, tại Phòng họp lớn của Bộ, các đ/c Nguyễn Cơ
Thạch, Võ Đông Giang, Phạm Bình, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi thảo luận và
phân công giao viết gấp. Anh Võ Đông Giang nói là Tuyên ngôn nên ngắn
gọn, súc tích, mang tính chất hiệu triệu như Tuyên ngôn 2/9 của VN.
Tuyên ngôn phải ra đời tên nước có ý kiến là đặt tên là Cộng hoà Dân
chủ, có ý kiến là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân, ý kiến này bị bác vì quá
giống tên nước Lào, cuối cùng anh Giang đề nghị đặt tên Cộng hoà Nhân
dân cho giống TQ.
Bản Tuyên ngôn được viết, điện mật vào trong tp
HCM và 12/1/1979, Tuyên ngôn của Hội đồng nhân dân cách mạng CPC chính
thức được công bố và tên nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân CPC có từ đấy.
Và cũng từ đó, do Bộ Ngoại giao CPC chưa hình thành, chuyên gia giúp Bộ
Ngoại giao chỉ có anh Ngô Điền, anh Chiến Thắng và anh Bùi Hữu Nhân nên
phần lớn các tuyên bố của Bộ Ngoại giao CPC đều được viết từ Bộ Ngoại
giao VN, anh Võ Đông Giang duyệt rồi gửi sang Phnom Penh để dịch và công
bố.
Ngày 16/2/1979, Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang thăm chính thức
CPC; ngày 17/2/1979 ký Hiệp ước hữu nghị và Hiệp định quân sự; cùng
ngày TQ đưa 60 vạn quân tiến công các tỉnh miền Bắc VN để “dạy cho VN
một bài học”.
Chúng ta đưa quân vào CPC, giúp CPC làm lại cuộc
cách mạng từ con số 0 trên tất cả mọi lĩnh vực. Để hiểu thực chất đội
ngũ cán bộ CPC, xin trích đoạn báo cáo nhận xét của chuyên gia ta ở CPC
năm 1980:
“Lực lượng cán bộ, đảng viên CPC do nhiều nguồn tập hợp lại, chưa thông cảm và hoà hợp với nhau:
- Số cán bộ đảng viên tập kết từ miền Bắc VN về nay còn độ 40 người.
Số
lượng ít song giữ vị trí quan trọng, chủ chốt (3/6 Uỷ viên Trung ơng,
5/8 Bộ trưởng, 9/26 Thứ trưởng, 7/29 Bí thư và Chủ tịch tỉnh. Nói chung,
thái độ chính trị tốt, tin cậy và đoàn kết với VN. Có một ít thật sự là
ly khai Pol Pot ở lại miền Bắc, giác ngộ chính trị khá. Còn số đông là
già yếu hoặc do cầu an, sinh hoạt bê tha. Đến nay một số đã thoái hoá,
rơi rụng.
- Lực lượng ly khai Koh Kong thuộc dân tộc Thái, đã
sớm nhận ra bản chất phản động của Pol Pot, nổi dậy chống lại chúng
ngay từ năm 1974 rồi chạy sang Thái Lan, lúc đó có 65 đảng viên. Lực
lượng ly khai Đông Bắc chủ yếu là thuộc dân tộc ít người ở Ratanakiri
cũng đã sớm chống lại Pol Pot, chạy sang VN và Lào.
Hai lực lượng
ly khai này đều thuộc các dần tộc ít người, nói chung có lập trường
chính trị tốt, đoàn kết gắn bó với VN. Các dân tộc ít người tuy chiếm tỷ
lệ nhỏ nhưng có lực lượng cán bộ, đảng viên khá đông và giữ vị trí quan
trọng. Dân tộc Thái chỉ có gần 4.000 người song đảng viên hiện tới 70
người chẳng những giữ vị trí chủ chốt của tình Koh Kong mà cả Kampot và
một vài ngành Trung ương. Số cán bộ dân tộc ở Ratanakiri nay được bố trí
giữ các chức vụ chủ chốt ở cả 4 tỉnh Đông Bắc và một vài ngành Trung
ương.
Bên cạnh chỗ mạnh, căn bản về lập trường chính trị, các cán
bộ đảng viên người dân tộc (Koh Kong và Đông Bắc) đều có nhược điểm là
trình độ văn hoá thấp, chủ nghĩa địa phương và thành kiến dân tộc với
người CPC Kinh20 khá nặng nề.
- Lực lượng nổi dậy của K-203,
có số cán bộ, đảng viên khá đông, giữ nhiều chức vụ quan trọng (2 Uỷ
viên Trung ương, 10 Bí thư tỉnh, 2 Bộ trưởng và 4 Thứ trưởng). Số do
nhận rõ đường lối, quan điểm Pol Pot phản động mà chống nó là số ít còn
số đông do bị Pol Pot nghi ngờ trừng trị mà nổi dậy. Có người đến nay
thấy rõ là tiến bộ, chuyển biến tốt lên nhưng cũng còn những người ta
chưa thật hiểu rõ, ảnh hưởng quan điểm dân tộc hẹp hòi, nghi ngờ VN, tác
phong xấu của thời kỳ Pol Pot trong một số người còn nặng.
-
Những người tị nạn và ly khai khác, lẻ tẻ không thành tổ chức, chạy rải
rác sang VN từ 1977 đến cuối 1978. Số này không thuần nhất. Có những
người tốt nay trở thành cán bộ nòng cốt. Nhưng cũng có người khá phức
tạp.
- Lực lượng cán bộ mới sau 7/1/1979, chủ yếu là học sinh,
sinh viên, trí thức. Số đông có tinh thần yêu nước, nhiệt tình, tận tuỵ
đã thấy những nhân tố mới, có triển vọng nhưng những người giác ngộ
chính trị thấp, nhận thức mơ hồ, dễ dao động, có ảo tưởng đối với
Sihanouk, hoài nghi chưa tin chế độ mới.
Số cán bộ này đã chiếm tới 25% các Ban cán sự tỉnh, 38% UBND tỉnh, 80% cấp Vụ, Cục và 7 Thứ trưởng”.
II. Diễn biến cuộc đấu tranh về CPC và một số quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1979-1991
Cuộc
đấu tranh về vấn đề CPC trong gần 13 năm (1979-1991) và những quyết
sách của ta về CPC luôn luôn gắn liền với những biến đổi trong chiến
lược của các nước lớn những biến đồi sâu sắc trên thế giới. CPC là trọng
tâm của hoạt động ngoại giao của ta trong giai đoạn này. Có thể có
nhiều cách chia giai đoạn khác nhau những để tiện trình bày được chi
tiết, tôi phân chia làm 4 giai đoạn nhỏ:
2.1 Giai đoạn 1979 – 1981
a) Bối cảnh quốc tế:
Thắng
lợi của VN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đưa đến sự suy yếu và
khủng hoảng sâu sắc nhất của đế quốc Mỹ, kéo theo sự khủng hoảng toàn
diện của chủ nghĩa đế quốc trong thời kỳ sau VN. Mỹ phải rút khỏi lục
địa châu Á, chuyển sang chiến lược quần đảo tạo nên khoảng trống trong
khu vực. Thất bại của Mỹ, thắng lợi cách mạng VN và các nước Đông Dương
đã đưa tới sự khủng hoảng của các nước ở Đông-nam Á. Mỹ ra sức giải
quyết khủng hoảng nội bộ bằng mọi cách khôi phục lại sức mạnh của Mỹ về
quân sự, kinh tế và vị trí số một đối với đồng minh; đối phó với việc
Liên Xô mở rộng ảnh hưởng và sự phát triển của cách mạng thế giới. Nhằm
mục tiêu đó, từ cuối những năm 70, Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, kiềm
chế Liên Xô và quan hệ Đông-tây nhưng tránh không làm đổ vỡ quan hệ
Xô-Mỹ; đồng thời đẩy mạnh hoà hoãn với TQ, từng bước chơi con bài TQ
chống Liên Xô và cách mạng, nhất là từ sau chuyến đi TQ của Brezinski
tháng 8/1978, khi TQ chuyển hẳn sang đi với Mỹ chống Liên Xô, phục vụ 4
hiện đại hóa. Trong vấn đề CPC, Mỹ lợi dụng chính sách chống Liên Xô của
TQ, tuy nhiên tránh dính líu trực tiếp và điều Mỹ quan tâm nhất là bảo
đảm an ninh cho các nước ASEAN nhất là Thái Lan.
Liên Xô triệt để
khai thác cục diện quốc tế “sau VN”, sự suy yếu của Mỹ và khó khăn của
TQ để mở rộng ảnh hưởng, bao vây, kiềm chế TQ và phá câu kết Mỹ-Trung.
Đặc biệt Liên Xô đã lợi dụng thắng lợi của VN để tăng cường vị trí ở
Đông-nam Á. Liên Xô đã ủng hộ ta đưa quân vào CPC, đồng thời thúc đẩy
quan hệ với VN (ký Hiệp ước hợp tác hữu nghị tháng 11/1978), với Lào,
thiết lập quan hệ với CPC, mở rộng sự có mặt của Liên Xô cả về chính
trị, kinh tế lẫn quân sự, tranh thủ VN và các nước Đông Dương đi với
Liên Xô đối phó với câu kết Trung-Mỹ song tránh dính líu trực tiếp vào
cuộc xung đột.
TQ coi Đông-nam Á là khu vực ảnh hưởng và là hướng
bành trướng chủ yếu của TQ. Thắng lợi của VN, Đông Dương và sự phát
triển của xu hướng hòa bình, ổn định ở Đông-nam Á làm cho TQ thất bại
trong chính sách truyền thống lợi dụng và kiềm chế cuộc đấu tranh của 3
nước Đông Dương, phá hoại và chia rẽ các nước Đông-nam Á vì lợi ích
chiến lược của TQ.
Thắng lợi của VN kéo theo việc Liên Xô tăng
cường ảnh hưởng ở Đông Dương, Mỹ thất bại và bị đẩy ra khỏi lục địa
Đông-nam Á tạo một khoảng trống chiến lược lớn. Các chính quyền của các
nước ASEAN lâm vào khủng hoảng, trong khi TQ bị suy yếu nghiêm trọng sau
cách mạng văn hoá và bè lũ 4 tên.
Trong tình hình đó, từ 1978 TQ
triển khai mạnh mẽ kế hoạch 4 hiện đại [hóa] đi liền với sự chọn lựa
“phương Tây hoá cả gói” đã quyết định bước ngoặt chiến lược đối ngoại
của TQ đi với Mỹ dẫn đến đỉnh cao của câu kết Trung-Mỹ trong những năm
1978-1981. TQ triệt để lợi dụng sự suy yếu của Mỹ và yêu cầu của Mỹ ngăn
chặn Liên Xô và cách mạng thế giới, khai thác mâu thuẫn Mỹ-Xô và giữa
cách mạng với phản cách mạng, đưa ra khấu hiệu chống “đại bá” và “tiểu
bá” tự xưng là “NATO phương Đông” phát triển mạnh quan hệ với Mỹ và
phương Tây.
TQ cũng triệt để lợi dụng mối lo ngại của các nước
ASEAN trước việc Mỹ rút lui và nguy Cơ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng ở
Đông-nam Á để lập mặt trận TQ-Mỹ-ASEAN-phương Tây chống Liên Xô, VN và
cách mạng thế giới. Nhằm thực hiện mục tiêu tranh thủ Mỹ và phương Tây
phục vụ 4 hiện đại hoá đồng thời chống lại sự bao vây, kiềm chế của Liên
Xô, TQ đã có những bước đi rất quyết liệt về mặt đối ngoại, cắt viện
trợ cho VN, Anbani (1978), khuyến khích, hỗ trợ cho bọn Pol Pot tiến
đánh VN, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược chống VN tháng 2/1979,
và lôi kéo Mỹ, ASEAN, phương Tây bao vây cô lập VN, đối phó với ảnh
hưởng ngày càng tăng của Liên Xô, VN trong khu vực. Việc TQ chuyển từ
cách mạng sang đi với Mỹ chống cách mạng, dùng vấn đề CPC để chống Liên
Xô và VN đánh dấu sự thay đổi lớn trong chiến lược của TQ trong hơn 40
năm qua.
b) Về CPC, ngày 7/1/1979 khi ta giải phóng CPC mặc
dù ta dùng cả hải-lục-không quân; dùng lính dù nhảy xuống Siem Reap
nhưng chủ yếu là lùa quân Pol Pot từ phía Đông sang phía Tây, do đó cơ
bản lực lượng Pol Pot không bị tiêu hao lớn.
Về mặt đối ngoại, ta
phải đối phó với tình hình rất khẩn trương. Ngày 6/1/1979, TQ cho máy
bay đón Sihanouk sang Bắc Kinh và cũng trong những ngày này Cảnh Tiêu,
Hàn Niệm Long21 bí mật sang Bangkok gặp Thủ tướng Kriangsak Chomanan bàn
việc giúp Pol Pot ” đất thánh” và vận chuyển vũ khí của TQ cho Pol Pot
(tài liệu ta bắt được ở căn cứ Tà Sanh – Battambang). HĐBA/LHQ họp ngày
10/1/1979 và ra dự thảo nghị quyết lên án VN xâm lược, đòi VN rút quân;
Liên Xô đã phủ quyết dự thảo nghị quyết này. Ngày 9/1/1979, Hội nghị
Ngoại trưởng các nước ASEAN ra tuyên bố kêu gọi rút ngay, rút hết quân
nước ngoài khỏi CPC. Cũng ngày 9/1/1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance
nói: cuộc nói chuyện giữa VN và Mỹ về bình thường hóa quan hệ đã đổ vỡ
do cuộc xâm lăng của VN vào CPC. Từ lúc này sức ép đòi ta rút quân ngày
càng mạnh và cũng từ 30/6/1979 dòng người VN di tản ngày càng tăng vọt
trong khi kinh tế trong nước rất khó khăn làm xấu đi hình ảnh VN trên
thế giới. Lập trường Cơ bản của chúng ta về CPC lúc này là tuyên bố
“tình hình CPC là không thể đảo ngược” và quyết tâm “ăn cả” ở CPC. Tháng
7/1981, chúng ta tẩy chay không tham dự Hội nghị quốc tế của Liên hợp
quốc về CPC (ICK).
Trong nội địa CPC, sau giải phóng 7/1/1979,
ngoài việc bộ đội ta tiếp tục tiến công đánh vào 11 căn cứ lớn của Pol
Pot, nhiệm vụ khẩn cấp là phải cứu đói cho dân, lo tổ chức toà án kết
tội Pol Pot (8/1979) làm ngọn cờ chính trị cho chính quyền CPC, lo tổ
chức bộ máy chính. quyền từ Trung ơng đến địa phương, tổ chức in và phát
hành đồng tiền trở lại. Cần nói thêm rằng trong bối cảnh tình hình CPC
lúc đó việc xây dựng Đảng và chính quyền đều làm từ trên xuống, lập
chính quyền tỉnh rồi mới đến huyện, xã; phát triển đảng viên trong Bộ,
Thứ trưởng trước rồi mới đến cán bộ… đây cũng là nguyên nhân tại sao CPC
không thể có Cơ sở vững chắc. Ngày 1/5/1981, ta giúp tổ chức tổng tuyển
cử bầu Quốc hội ở CPC; 26-29/5/1981, tổ chức Đại hội IV của Đảng ( Nhân
dân Cách mạng CPC ) và công bố Hiến pháp mới. Có thể nói tất cả mọi
hoạt động của ta về đối ngoại và trên thực địa CPC lúc này là nhằm củng
cố chính quyền CPC, giữ nguyên trạng ở CPC.
Từ giữa năm 1979, một
vấn đề nữa mà ta phải đối phó là nhân việc dân CPC đói, các tổ chức
quốc tế dùng chiêu bài “cứu trợ quốc tê” để mùa mưa kéo dân CPC tị nạn
sang biên giới Thái và mùa khô thì đẩy trở lại vào nội địa CPC để giúp
bảo tồn và cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men cho bọn Pol Pot.
Tiếp theo Hội nghị 3 Ngoại trưởng VN, Lào, CPC lần thứ nhất năm 1980 tại
Phnom Penh nhân kỷ niệm một năm ngày giải phóng CPC (đ/c Nguyễn Duy
Trinh dự Hội nghị này; sau Hội nghị, đ/c Nguyễn Cơ Thạch trở thành Bộ
trưởng ngoại giao). Hội nghị 3 ngoại trưởng lần thứ 2 họp tháng 7/1980 ở
Vientiane là nhằm đối phó với vấn đề tị nạn, cứu trợ quốc tế và từ đấy
hình thành cuộc họp thường kỳ Ngoại trưởng ba nước.
Về Sihanouk,
sau khi rời Phnom Penh 6/1/1979, Sihanouk được đưa đến New York để trình
bày vấn dề CPC, đòi VN rút quân; trong tâm trạng vừa thoát khỏi tù Pol
Pot nhưng phải bảo vệ Pol Pot, ngày 14/1/1979, Sihanouk xin tị nạn chính
trị ở Mỹ nhưng TQ đã thuyết phục Mỹ không cho Sihanouk tị nạn. Trở về
Bắc Kinh, Sihanouk 4 lần viết thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng (7, 23,
27/10/1979 và 11/11/1979), nội dung thư Sihanouk cám ơn đã giải phóng
CPC khỏi diệt chủng nhưng đề nghị được đàm phán với VN để khôi phục chủ
quyền CPC.
Ta không nhận và không trả lời những thư đó. Trong
cuộc họp báo ở La Havana nhân dịp Hội nghị cấp cao 6 của Phong trào
không liên kết (tháng 8/1979), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về
Sihanouk như sau: “Qest ce qui est Sihanouk? C’est ùn homme fini”. Tình
hình đó là do lợi ích của ta là giữ nguyên trạng ở CPC, còn những người
lãnh đạo mới ở CPC rất sợ uy tín và ảnh hưởng của Sihanouk nên kiên
quyết không muốn ta tiếp xúc với Sihanouk. Trong một cuộc gặp lãnh đạo
ta năm 1979, để ngăn ta có thể có tiếp xúc với Sihanouk, Pen Sovan nói:
giống như tục ngữ CPC, Sihanouk như con chó khi chui qua rào thì cụp
đuôi, vượt qua rào nó sẽ vểnh đuôi trở lại.
c) Về quan hệ của ta với chính quyền CPC:
Cán
bộ, chuyên gia “làm thay, làm thầy, làm tớ”, còn những người lãnh đạo,
cán bộ CPC “hưởng thụ từ lúc còn thơ, quan liêu từ lúc bơ vơ mới về” lại
sớm nảy sinh đầu óc hẹp hòi dân tộc. Điển hình là vụ Chea Sim và Pen
Sovan. Chea Sim là đại biểu Quốc hội của Pol Pot, được coi là người mẫu
mực của CPC Dân chủ và Chea Sim dẫn đầu đoàn ly khai chạy sang VN 1978
trong đoàn có Heng Somrin nhưng không được trọng dụng, được cử làm Bộ
trưởng nội vụ một thời gian ngắn lại chuyển sang làm Mặt trận, Quốc hội.
Vốn mặc cảm vì không được tin cậy nên Chea Sim tỏ ít nói, lầm lì và
càng mặc cảm hơn khi bị khám nhà. Ngày 10/3/1979 một chiếc ca nô cặp bến
Phnom Penh, có 47 người, có vũ trang và cờ Pol Pot, nói về để liên hệ
với Chea Sim; tối 12/3/1979, quân quản Phnom Penh đem xe tăng đến khám
nhà Chea Sim, chụp ảnh tài liệu, những người trong nhà và cho máy rà mìn
tìm vũ khí quanh nhà Chea Sim. Cuối tháng 3/1979, Hun Sen nói với anh
Ngô Điền về sự kiện này như sau: Sao lại khám nhà một đ/c Trung ương. Có
địch mới làm như vậy. Nếu là tôi, tôi không cho phép làm thế, tôi bắn
cả người khám và bắn cả tôi luôn. Còn Pen Sovan, vốn là trẻ mồ côi CPC
do bộ đội ta nhặt được và được nuôi từ bé, trở thành đại uý quân đội ta,
và thành Tổng Bí thư nhưng sớm trở mặt chống lại ta và tháng 7- 8/1981
làm găng về vấn đề người Việt ở CPC và đòi cử đoàn của Trung ương Đảng
CPC sang đàm phán với Trung ương Đảng VN về vấn đề này. Trong nội bộ
đảng CPC, Pen Sovan độc quyền, không tôn trọng tập thể. Tháng 12/1981,
BCT CPC khai trừ Pen Sovan, nhờ ta bắt giam Pen Sovan ở Hà Nội và Heng
Somrin trở thành Tổng Bí thư.
Đối với Bộ Ngoại giao, từ 3 đ/c
chuyên gia đầu năm 1979, tháng 9/1979 theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao CPC
ta đã cử sang 17 chuyên gia bố trí tới tất cả các Vụ của Bộ Ngoại giao
CPC (như các đ/c Hoàng Đình Cầu – trưởng đoàn, Ngô Quý Cận, Ngô Viết
Lũy, Đặng Đức Khôi, Châu Phong, Lê Đông, Trần Ngữ, Đỗ Ngọc Sơn, Nguyễn
Huy Cẩm, Lê Quang (Tài vụ), Kim Lân (Cục) v.v…). Tháng 3/1981, Pen Sovan
và Hun Sen gặp đ/c Nguyễn Cơ Thạch ở nhà khách góc đường Nguyễn Du ở Hà
Nội có ý chê chuyên gia ta, cho rằng một số việc CPC tự làm tốt hơn
chuyên gia VN như về lễ tân, báo chí… và yêu cầu ta rút chuyên gia khỏi
Bộ Ngoại giao và chỉ cử một vài cố vấn giỏi. Theo yêu cầu của CPC, ta
rút chuyên gia khỏi Bộ Ngoại giao và cử 5 cố vấn sang CPC giúp Bộ Ngoại
giao CPC trong thời gian từ 1982 đến 1988 (các đ/c Vũ Toàn, Hoàng Đình
Cầu, Khang, Trần Ngữ, Đoàn Trần Cảnh/Ban Đối ngoại, Phạm Công Bai…).
Cần
phải nói rằng Bộ Ngoại giao ta có sự giúp đỡ rất to lớn đối với Bộ
ngoại giao CPC, ngoài sự giúp đỡ trực tiếp rất tỉ mỉ hàng ngày của đ/c
Ngô Điền với cá nhân Hun Sen và Bộ Ngoại giao CPC, những cuộc họp ba
ngoại trưởng thường kỳ hoặc những dịp sang trao đổi tình hình với những
bài phát biểu chuẩn bị công phu của đ/c Nguyễn Cơ Thạch thật sự là sự
bồi dưỡng rất Cơ bản về đánh giá tình hình thế giới và khu vực cũng như
phương pháp luận trong việc xem xét xử lý các vấn đề đối ngoại và điều
này có ảnh hưởng rất lớn đến Hun Sen. Không những thế, năm 1985 ta còn
giúp mở lớp bồi dưỡng kiến thức ngoại giao cho CPC, các đ/c Vũ Khoan, Lê
Mai, Nguyễn Phượng Vũ đã từng sang CPC giới thiệu với lớp học này về
chiến lược của Liên Xô, Mỹ, TQ.
2.2 Giai đoạn từ 1982-1986
a) Bối cảnh quốc tế:
Dưới
tác động mạnh mẽ của cuộc chạy đua toàn cầu về kinh tế và KHKT và do
những khó khăn nội tại của mỗi nước, từ đầu những năm 1980 cả ba nước
Mỹ, Xô, Trung đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược, tập trung phát triển sức
mạnh bên trong, giảm bớt tình trạng căng mỏng ra nhiều địa bàn và nhiều
mục tiêu, từ đó ở mức độ khác nhau buộc phải giảm bớt chạy đua vũ
trang, giảm cam kết ở bên ngoài, tránh đụng độ trực tiếp với nhau và
tránh bị sa lầy vào một cuộc xung đột quân sự kéo dài. Quan hệ 3 nước
lớn đã vượt qua thời kỳ đối đầu căng thẳng của giai đoạn trước, chuyện
sang hình thái cải thiện quan hệ từng đôi một. Xô- Mỹ đã đẩy nhanh việc
cải thiện quan hệ (gặp gỡ cấp cao Genève 1985, ký INF 12/1985), củng cố
thế 2 cực. TQ tiếp tục duy trì quan hệ với Mỹ trong khuôn khổ các thông
cáo chung Trung-Mỹ từ 1972, đồng thời từng bước đi vào bình thường hóa
với Liên Xô (nối lại đàm phán Thứ trưởng từ 1982, gặp gỡ 2 Ngoại trưởng
tháng 9/1984, đón Phó Thủ tướng Liên Xô Arkhipov tháng 12/1984). Tuy
nhiên, việc cải thiện từng cặp quan hệ các nước lớn chỉ đang ở bước đầu.
b)
Cuộc đấu tranh về vấn đề CPC trong giai đoạn này về cơ bản vẫn nằm
trong khung cảnh tập hợp lực lượng.cho cuộc đối đầu giữa 2 phía, đồng
thời xuất hiện nhân tố mới là các nước lớn bắt đầu sử dụng vấn đề CPC để
dàn xếp quan hệ với nhau.
Khi nối lại đám phán Trung-Xô tháng
10/1982, ngay từ đầu TQ nêu “3 trở ngại”, trong đó có vấn đề CPC, đồng
thời trao 5 điểm cho Liên Xô (VN tuyên bố rút hết quân và bắt đầu rút
một bộ phận, đàm phán bình thường hóa Việt-Trung, cải thiện quan hệ
Trung-Xô, lập Chính phủ liên hiệp ở CPC, bảo đảm quốc tế cho một nước
CPC độc lập và không liên kết). Đến 1/3/1983, TQ đưa ra công khai 5
điểm, tháng 6/1983, TBT Triệu Tử Dương nhắc lại 5 điểm ở Quốc hội TQ, và
10/1983 TQ nhắc lại tại vòng 3 Xô-Trung. Lập trường của TQ về vấn đề
CPC lúc này là không chấp nhận được đối với ta. Trong khi thương lượng
với Liên Xô về CPC, TQ cương quyết bác bỏ đàm phán với ta, dùng việc TQ
cải thiện quan hệ với Liên Xô, các nước XHCN để ép ta và gây xung đột
lớn trên biên giới Việt-trung đầu năm 1984. Đi vào đàm phán với TQ từ
tháng 10/1982, Liên Xô tiếp tục ủng hộ VN, CPC, chưa chịu bàn với TQ về 3
trở ngại. Cùng với việc điều chỉnh quan hệ với TQ, Mỹ coi trọng hơn vị
trí của ASEAN. phó Tổng thống, Ngoại trưởng, Bộ trưởng quốc phòng, Tham
mưu liên quân Mỹ lần lượt thăm Đông-nam Á (1983-1984). TQ cùng các nước
ASEAN thúc đẩy việc lập “Chính phủ liên hiệp 3 phái” (6/1982) và Mỹ ủng
hộ, và từ 1983 TQ bắt đầu đề cao vai trò Sihanouk phù hợp với yêu cầu
của Mỹ và ASEAN hơn.
Từ năm 1985, khi các nước lớn đẩy mạnh quá
trình cải thiện quan hệ từng cặp một, vấn đề CPC ngày càng trở thành một
chủ đề quan trọng và trực tiếp trong đàm phán tay đôi giữa 3 nước lớn.
Từ
giữa năm 1984, thái độ của Liên Xô trên vấn đề CPC đã bắt đầu thay đổi,
Liên Xô thúc đẩy ta và CPC đi vào giải quyết vấn đề CPC bằng chính trị.
Tháng 6/1984, lần đầu tiên gợi ý ta tiếp xúc với Sihanouk, đồng thời
lấy vấn đề CPC làm một nội dung trong đàm phán tay đôi với Mỹ và TQ.
Tháng 5/1985 vấn đề CPC đã được đặt vào chương trình nghị sự cuộc đàm
phán cấp chuyên viên Xô-Mỹ bàn về các vấn đề khu vực. Từ vòng 9 đàm phán
Xô-Trung tháng 10/1986, Liên Xô bắt đầu nhận bàn với TQ về vấn đề CPC,
nêu lên khả năng sử dụng Khieu Samphan. Tháng 7/1986, TBT Gorbachov
tuyên bố ở Vladivostok nêu vấn đề CPC phải giải quyết giữa VN và TQ là 2
nước XHCN. Tháng 3/1987, Ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadze thăm VN, CPC
khuyên CPC nên đẩy mạnh hoà hợp dân tộc. Tháng 6/1987, đ/c Nguyễn Văn
Linh thăm Liên Xô, Liên Xô gợi ý giải pháp về CPC theo công thức
Afghanistan; sau chuyến đi này, đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang CPC (2/6/1987)
thông báo cho lãnh đạo CPC và phân tích sự khác nhau giữa CPC và
Afghanistan… Tháng 7/1987, Gorbachov tuyên bố với báo Merdeka
(Indonesia) Liên Xô ủng hộ việc lập Chính phủ liên hiệp ở CPC giống như ở
Afghanistan; cuối 1987, Liên Xô lại gợi ý với ta về việc Hun Sen gặp
Khieu Samphan. Khác với trước, Mỹ tăng cường hoạt động về vấn đề CPC, từ
tháng 5/1985, cùng với Liên Xô đưa vấn đề CPC vào danh mục các vấn đề
khu vực nhưng ưu tiên bàn về các khu vực khác quan trọng hơn đối với Mỹ,
đồng thời Mỹ bắt đầu viện trợ công khai cho 2 phái không cộng sản CPC
nhằm giúp 2 phái này tăng cường lực lượng, khẳng định vai trò của Mỹ
trong việc giải quyết vấn đề CPC. Tới tháng 9/1985 Mỹ cùng với Liên Xô
đàm phán ở cấp Thứ trưởng về CPC và châu Á- Thái Bình Dương. Qua 8 vòng
đàm phán Xô-Trung, TQ kiên trì đòi lấy vấn đề CPC làm một nội dung đàm
phán về bình thường hóa quan hệ 2 nước, và trước bước phát triển nhanh
của quan hệ Xô-Mỹ, TQ đã giảm yêu cầu, cố vượt qua “trở ngại” để thúc
đẩy quan hệ Trung-Xô (tháng 4/1985, Đặng đặt vấn đề: nếu VN rút quân
khỏi CPC, Liên Xô có thể duy trì căn cứ Cam Ranh và tháng 9/1986, Đặng
tuyên bố sẵn sàng gặp Gorbachov nếu để giải quyết vấn đề CPC). Ngay
trong khi sử dụng vấn đề CPC để thúc đẩy quan hệ với Liên Xô, TQ vẫn rất
coi trọng việc tranh thủ Mỹ, phương Tây và ASEAN. Tháng 11/1986, Đặng
tuyên bố một chính thể cộng sản không phù hợp với CPC, đồng thời TQ
không chịu nói chuyện với VN.
Trước triển vọng Xô-Mỹ, Xô-Trung
dùng vấn đề CPC để dàn xếp với nhau, ASEAN cũng điều chỉnh chính sách
gia tăng đối thoại với VN về vấn đề CPC, trong đó Indonesia đi mạnh hơn
cả do Indonesia muốn đề cao vai trò nước lớn trong khu vực, tạo thế đi
vào bình thường hóa với TQ. Từ cuối 1987, Thái Lan cũng bắt đầu tìm kiếm
quan hệ với ta và CPC. Một nhân tố không kém phần quan trọng là các
nước Đông-nam Á cũng đi vào cuộc chạy đua về kinh tế và KHKT, từ đầu
những năm 1980 do giá sản phẩm sơ cấp giảm mạnh, nhiều nước khó khăn
lớn, phải điều chỉnh cơ cấu để thích nghi với tình hình.
Nguồn: Vnmilitaryhistory