Chương III
ĐẠI SỨ NGÔ ĐIỀN
Sinh thời, Đại sứ Ngô Điền kể :
Khi
dự hội nghị Hòa bình về Campuchia họp ở Paris năm 1991, ông ngồi gần
như đối diện với cựu hoàng Sihanouk và các đoàn 3 phái Khơ-me. Một người
bạn Campuchia trong đoàn của Nhà nước Campuhcia (SOC) kể lại rằng
Sihanouk đã nói ở hội trường với những người Khơ-me xung quanh: Hồi tôi
(Sihanouk) làm vua ở Phnôm Pênh, ông đó (Ngô Điền) làm nhà báo. Hiện nay
ông ta làm “Thái thú” ở Campuchia.
Nhớ
lại vào những năm 1990-1991, thế giới rung chuyển bởi sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Tình hình Campuchia cũng
có những thay đổi căn bản là Việt Nam đã rút hết quân, Cộng Hòa Nhân
dân Campuchia đã đổi tên thành Nhà nước Campuchia (SOC), ngày 23/10/1991
tại Paris, Hiệp định hòa bình về Campuchia được ký kết giữa 19 nước và
bốn phái Campuchia, lập nên Hội đồng Dân tộc tối cao (SNC) do Sihanouk
làm chủ tịch, chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên do Liên Hợp quốc
tổ chức tại Campuchia. Đoàn ngoại giao ở Nông Pênh lúc ấy không đông
nhưng cũng đứng trước một vấn đề là các đại sứ bên cạch SOC sẽ như thế
nào khi cựu hoàng Sihanouk trở về.
Chuyện
Đại sứ Ngô Điền ngồi gần như đối diện với Sihanouk ở Hội nghị Paris năm
1991 là trong bối cảnh đó. Và nếu như câu chuyện của người bạn
Campuchia kia là xác thực thì trong ngoại giao đó là một dấu hiệu chứng
tỏ ông Ngô Điền không dễ gì tiếp tục làm Đại sứ khi Cựu hoàng trở về
Nông Pênh.
Đại sứ Ngô Điền còn kể :
Thật
ra thì trước đó Cựu hoàng Sihanouk đã nhắn gửi ý tứ của mình qua miệng
nhà báo người Pháp là Jean Claude Pomonti, một người rất am hiểu về tình
hình Đông Nam Á. Sau khi đã gặp Sihanouk, ông này đến thăm Đại sứ Ngô
Điền vào ngày 3/9/91 tại Nông Pênh và hỏi Đại sứ Ngô Điền rằng liệu ông
có trình ủy nhiệm thư cho Sihanouk không, liệu Sihanouk có vừa lòng khi
một người vốn là “Thái thú” lại là Đại sứ bên cạch SNC không !
Về
sau này, mọi việc diễn ra đúng như vậy. Chưa đầy một tháng sau ngày
Hiệp định Paris được ký kết, sáng ngày 6/11/1991, Campuchia đã đề nghị
Đại sứ các nước bên cạnh Nhà nước Cămpuchia (SOC) rút về nước và trình
thư ủy nhiệm cho Hội đồng Dân tộc Tối cao (SNC). Việc rút cần làm lặng
lẽ, không tuyên bố, lịch sự và tốt nhất là vào trước ngày 14/11/1991,
tức là trước ngày Cựu hoàng trở về Nông Pênh.
Vào
chiều muộn ngày 10/11/91, Đại sứ Ngô Điền được lệnh rút trước 14/11/91.
Chấm dứt nhiệm kỳ công tác 12 năm ở Campuchia nhưng ông chỉ có hai ngày
để làm tất cả mọi việc, từ chào từ biệt lãnh đạo bạn đến dự tiệc tiễn
của đoàn ngoại giao, chào anh chị em trong Sứ quán, bàn giao, dặn dò một
số công việc còn lại và thu xếp hành trang. Anh em trong cơ quan rất ái
ngại cho ông vì lúc ấy ông đang mắc bệnh tiền liệt tuyến khá nặng. Rạng
sáng ngày 13/11/1991, trong khi nhiều phóng viên phương Tây săn đợi ông
ở sân bay Pô-chen-tông thì Đại sứ Ngô Điền cùng phu nhân lên xe theo
đường bộ về thành phố Hồ Chí Minh. Bà Tỳ vợ ông không quên mang theo một
cái bô để chăm sóc cho ông trên đường, và khi về tới thành phố, vì thể
trạng quá yêu, gia đình đã đưa ông vào thẳng bệnh viện. Thật lặng lẽ !
Ba
tháng sau khi về nước, Đại sứ Ngô Điền đã nhận được lời hỏi thặm sức
khỏe của Chủ tịch SNC Sihanouk qua nhà báo người Bỉ Jacques Bekaert, lúc
ấy là bình luận viên đài BBC. Biết nhà báo này đến Hà Nội, Sihaouk đã
đề nghị chuyển lời hỏi thăm và nói rằng rất tiếc đã không gặp Đại sứ Ngô
Điền tại Nông pênh !
Dẫu
rằng Đại sứ Ngô Điền không còn trên cõi đời này nữa nhưng tôi xin ông
và gia đình ông cho phép kể lại câu chuyện trên, coi là chuyện của riêng
đời ông cũng được mà coi là chuyện của đất nước cũng không sai. Những
chuyện ngoại giao đa chiều ý nghĩa và lý thú như vậy không có nhiều,
không thể không đem kể lại cho các bạn trẻ. Nó là bài học về những toan
tính chính trị ở một thời cuộc, những mưu mẹo ngoại giao để đạt tới cái
đích, về sự khôn ngoan lọc lõi của những nhà chính trị già đời. Nó còn
giống như một tấm huân chương, mặt trước sáng lòa ánh hào quang, còn mặt
sau mà không đem lật ra thì không ai biết được nó như thế nào.
Số
phận đã gắn chặt cuộc đời hoạt động ngoại giao của Đại sứ Ngô Điền với
Campuchia cho tới lúc ông kết thúc nhiệm kỳ về nước. Đến tháng 11 năm
1991, ông đã có cả thảy 18 năm phụng sự ở đất nước này, tính ra bằng cả
một phần ba thời gian hoạt động cách mạng và một phần tư cuộc đời của
ông. Thời gian nhiều như thế nhưng cũng chỉ là những đơn vị năm tháng,
còn những đóng góp của Đại sứ Ngô Điền cho công cuộc hồi sinh của con
người và đất nước Campuchia sau họa diệt chủng Pôn Pốt, những suy tư
trăn trở bằng tim bằng óc của ông cho quan hệ hữu nghị hai nước Việt Nam
và Campuchia thì khó mà đem ra đong đếm được. Mà chắc không phải ai
cũng có ý đem ra đong đếm làm gì.
Ông
Ngô Điền là Đại sứ có thời gian công tác dài nhất ở Campuchia, trong
suốt thời kỳ 10 năm của Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Nhưng ông không
phải Đại sứ đầu tiên. Vị Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cămpuchia sau chế độ
diệt chủng Pôn Pốt là ông Võ Đông Giang. Cả hai ông đều hiểu biết cao
rộng, nhưng ông Võ Đông Giang oai như một vị tướng, còn ông Ngô Điền lại
nho nhã như một văn nhân. Ông vốn là nhà báo, là đại diện đầu tiên của
Thông tấn xã Việt Nam tại Campuchia vào năm 1956.
Lần
đầu tiên tôi được biết ông Ngô Điền là lần ông giảng về công tác báo
chí cho sinh viên chúng tôi lúc ấy sơ tán ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên. Trời rét, ông khoác chiếc áo khoác ni lông mầu xám mỏng nho nhã,
tà áo trước gió cũng bay lật phật một cách nho nhã. Cho đến lúc tôi
được vào Campuchia giúp việc ông, lúc ấy ông đã là Phó ban B68, đã mặc
quân phục và đội mũ tai bèo mà vẫn nho nhã, tôi nghĩ có đeo cho ông khẩu
súng lục k54 vào nữa thì ông vẫn cứ văn nhân. Sự hiểu biết sâu rộng
cộng với cách đối nhân xử thế mềm mỏng và chân thành đến xiêu lòng người
của ông đã thành cái duyên cái cớ cột chặt ông vào một thời kỳ hơn mười
năm đầy cam go thử thách của nhân dân Campuchia, cũng là hơn mười năm
ông đeo đuổi một cách tận tụy sự nghiệp giúp đỡ Bộ Ngoại giao Campuchia,
một sự nghiệp mà vì nó ông đã hạnh phúc tột cùng trước những thành công
nhưng cũng chuốc về cho mình bao nhiêu trăn trở, dằn vặt trước những
mâu thuẫn khó giải quyết, những biến chuyển khó lý giải.
Trước
khi đi Nông Pênh nhận nhiệm vụ, tôi đã tới thăm ông tại căn phòng nhỏ
của ông ở phố Hàng Chuối. Lúc ấy ông đã ngoại 80, sau một lần bị ngã thì
đã yếu lắm, nằm bất động trên chiếc giường bệnh trải ga mầu trắng. Bà
Tỳ, người bạn đời của ông mà trong các ghi chép công tác của mình ông
đều gọi là đồng chí Tỳ, cho chúng tôi biết : có một hôm, vô tuyến phát
tin về tình hình Campuchia. Lúc ấy ông Điền đang đi trong phòng, khi
nghe nói đến Campuchia thì quay ngoắt lại theo dõi vô tuyến và chính cái
quay ngoăt bất thình lình ấy đã làm ông ngã và phải nằm bất động đến
bây giờ. Bà Tỳ nâng ông dậy để nắm lấy tay tôi. Vẫn là bàn tay của một
văn nhân, bàn tay đối với cá nhân tôi, một cán bộ thuộc cấp của ông, là
bàn tay nâng đỡ dìu dắt. Ông nắm chặt tay tôi và tôi biết ông gửi gắm ở
nơi tôi một điều gì. Lúc ấy tôi bỗng nghĩ tới Chê-ghê-va-ra bởi vì tôi
cảm nhận được điều nhắn gửi ấy vẫn y nguyên là tình yêu của ông đối với
đất nước bạn, con người bạn, sự nghiệp hồi sinh và phát triển của
Campuchia. Và cả lòng bao dung nhân hậu nữa. Tình đoàn kết quốc tế trong
từng sự việc cụ thể và ở từng con người cụ thể chỉ có thể cao cả đến
thế mà thôi.
…………………………………………………………………………
Nhiều
cán bộ ngoại giao Campuchia bây giờ nhớ về Đại sứ Ngô Điền vẫn như nhớ
về một người thầy. Hình ảnh một nhà ngoại giao tài ba, một cán bộ xông
xáo, một người bạn chân thành và tận tụy trong cái thời hàn vi của Bộ
Ngoại Giao Campuchia nói riêng và của Campuchia nói chung vẫn in đậm
trong kỷ niệm nhiều người.
Bất chấp thời thế !
Chương V
V – BỘ ĐỘI TÌNH NGUYỆN
Vào
một ngày tháng 5 năm 2005, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Cămpuchia
Sok An họp với các đại biểu quốc tế tại văn phòng Hội đồng Bộ trưởng để
vận động các nước ủng hộ tài chính để mở Toà xét xử Khmer đỏ. Tại cuộc
họp, đại biểu nhiều nước phương Tây hứa hẹn ra tiền nhưng nêu câu hỏi
về quản lý số tiền thế nào, chi tiêu ra làm sao...Đại biểu Việt Nam
được hướng dẫn là nếu bạn có đề nghị thì trả lời đại ý là Việt Nam còn
nghèo.
Ngồi
dự cuộc họp này mà trong đầu tôi luôn tự hỏi đâu là mối liên hệ giữa
việc lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ năm 1979 và việc mở Toà xét sử
Khmer đỏ ngày hôm nay. Những người đang tham gia Toà án xét xử Khmer đỏ
đã nhận ra tội ác diệt chủng của chúng từ bao giờ mà trong suốt mười năm
kể từ khi Việt Nam giúp Cămpuchia lật đổ bọn đồ tể này, họ vẫn giữ ghế
cho chúng ở Liên Hợp Quốc ? Bà Helen Jervis, một người Úc, là cố vấn
của Thủ tướng Hun Sen về việc thành lập Tòa án xét xử Khmer đỏ, trong
một trả lời phỏng vấn cũng đã nói : chính việc những kẻ tra tấn, hành hạ
và đàn áp người dân Campuchia lại là chế độ nắm giữ ghế thành viên Liên
Hợp Quốc, lại đại diện cho toàn thể dân chúng Campuchia là điểm khiến
người Campuchia cảm thấy đau đớn. Những cảm nghĩ đớn đau của người dân
xứ Chùa Tháp được pha trộn giữa sự đắng cay, thất vọng và hoài nghi. Họ
thấy rõ thói đạo đức giả của thế giới về vấn đề nhân quyền vì thế giới
đó không chịu ra tay cứu giúp họ trong những giờ phút họ cần thế giới
nhất.
Ieng
Sary, 85 tuổi' từng là Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Pol Pot, đồng
thời là em rể của trùm diệt chủng đã qua đời năm 1998.
Từng
có thời gian theo học tại Pháp, Ieng Sary được hoàng gia Campuchia ân
xá vào năm 1996 sau khi ra đầu thú. Tuy nhiên, ông này bị bắt giam trở
lại vào ngày vào ngày 12/11/2007 và bị xét xử tại Tòa vào tháng 6 năm
2011. Ảnh: AFP.
|
Lại
tự hỏi : thế giới ủng hộ tài chính để mở phiên toà hiện nay nhiều lắm
cũng chỉ là 100 triệu đô la, còn Việt Nam giúp Cămpuchia lật đổ chế độ
diệt chủng thì tính bằng cái gì ? Bọn đồ tể đã tàn phá, cưỡng bức và
reo rắc sợ hãi trong cuộc giết chóc khác thường này chỉ trong vòng có ba
năm từ 1975 đến 1979, nhưng để làm hồi sinh một dân tộc, một đất nước
từ con số không thì cần bao nhiêu năm ?
Những
câu hỏi tự mình đặt ra này hôm nay tôi mới viết ra đây. Cũng để cùng
suy ngẫm thôi, với một mong muốn để mỗi người tự mình tìm ra một lẽ công
bằng trước khi có phán quyết của Tòa án quốc tế xét xử Khmer đỏ.
Ông
Ngô Điền là Đại sứ của Việt Nam ở Cămpuchia từ năm 1979 đến năm 1991 kể
lại là vào năm 1982, ông có nói chuyện với một người bạn Cămpuchia lúc
ấy vừa đi công tác từ tỉnh Pai-lin, một tỉnh biên giới phía Tây
Cămpuchia về. Trong chuyến đi này, người bạn Cămpuchia đã hỏi một chiến
sĩ tình nguyện Việt Nam bị thương muốn được trả ơn như thế nào. Người
thương binh Việt Nam trả lời : điều tôi mong muốn là bà con Campuchia
biết tôi đổ máu vì Campuchia.
Từ
khi nghe câu chuyện này tôi đã rất muốn viết về người lính tình nguyện
Việt Nam ở Cămpuchia. Viết về người lính tình nguyện Việt Nam ở
Campuchia những năm 1979-1989 thì không thể không nhắc tới chế độ diệt
chủng của bọn đồ tể Pôn Pốt, nhưng mà về chế độ diệt chủng này thì người
ta đã viết quá nhiều. Tuy nhiên tôi nghĩ nhắc lại một chút cũng không
sao, có khi lại tốt bởi vì không bao lâu nữa có thể các bạn trẻ sẽ hỏi
có thật thế không, có thật đã có một chế độ diệt chủng tàn bạo như thế
không ! Ôn cũ để biết mới luôn luôn phải là một nghĩa vụ. Với thế hệ trẻ
Việt Nam và Campuchia, Khmer đỏ đã là chuyện cách đây hơn ba mươi năm,
có thể coi như là chuyện của ngày xưa. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì
cuộc sống hôm nay có bao nhiêu điều mới lạ và hấp dẫn chờ đợi các bạn,
Khmer đỏ chỉ là chuyện của thế hệ trước !
Chắc
chắn không đơn giản thế đâu các bạn trẻ thân mến ạ, sự diệt chủng của
Khmer đỏ tuy chỉ diễn ra trong vòng ba năm tám tháng hai mươi ngày nhưng
nó mãi là một vết đen tì ố trong lịch sử Campuchia, trong lịch sử quan
hệ hai nước Việt Nam-Campuchia, là một khoảng tối mà sẽ còn bao nhiêu
người tiếp tục rọi đuốc vào đấy để tìm nhưng chắc gì đã hiểu. Những
trung tâm quyền lực quyết định thường ở rất xa cỗ máy chém, những duyên
cớ trực tiếp thường rất dớ dẩn nhưng lại phức tạp và khoả lấp những
nguyên nhân sâu xa.
Chính
những người dân Campuchia là nạn nhân của chế độ diệt chủng càng không
muốn quên. Ông Mey là một trong số ít ỏi những người sống sót từ trại
giam có biệt danh S-21, nói : Tôi muốn các con, các cháu tôi hiểu rằng
nhà tù S-21 là có thật chứ không phải chuyện tưởng tượng ra. Tôi muốn
người ta nói đến S-21 ở trường học.
Pin
Yathay, một tác giả viết về Khmer đỏ nói ‘Tôi muốn thế giới biết các
con tôi, vợ tôi, bố mẹ tôi, các anh chị em và các cháu, các bạn bè của
tôi đã bị giết chết như thế nào’’
Theo
rất nhiều tài liệu, ngày 17/4/1975 Pôn Pốt chiếm được Nông Pênh, lập
tức đuổi tất cả đàn ông đàn bà, già trẻ, sư sãi, nhà giáo nhà buôn, sinh
viên…ra khỏi thành phố. Những người dân bị đuổi không kịp mang theo
quần áo, không kịp tụ tập con cái, không kịp gọi vợ gọi chồng, đã bị lùa
đi như những bầy nô lệ. Xã hội Campuchia từ một ốc đảo hòa bình trong
thập kỷ 60 đã bị Pôn Pốt biến thành một trại khổ sai khổng lồ đầy rẫy
những hố chôn người, không còn trường học, chợ búa, tiền tệ, không còn
nhảy múa, đi chùa, tụng kinh niệm Phật, không có sự giao lưu với thế
giới bên ngoài, con người không được nói không được cười, không được vui
không được buồn, không được khóc không được suy nghĩ, chỉ được cúi đầu
tuân lệnh, sống câm lặng và thấp thỏm chờ đợi đến lượt mình bị hành
quyết.
Tác giả Eric D.Weitz trong cuốn Thế kỷ diệt chủng : những ý niệm không tưởng về chủng tộc và dân tộc, phần Campuchia dưới thời Khmer đỏ,
kể lại rằng chế độ diệt chủng của Khmer đỏ đã giết chết từ 1,7 đến 2
triệu người. Họ chết vì đói khát, dịch bệnh, vì bị tập trung cải tạo và
hành quyết, vì bị đuổi khỏi các thành phố, biệt lập đất nước với thế
giới bên ngoài. Họ chết vì có quan hệ với chế độ cũ, có liên hệ với
người cộng sản Việt Nam hoặc với các đảng phái khác. Và họ còn chết bằng
cách này hoặc cách khác chỉ vì họ không phải là người Khmer mà là người
Trung quốc hay Việt Nam.
Những
cái tên điển hình của tội ác diệt chủng Pôn Pốt là nhà tù Tuol Sleng,
biệt danh trại S21 ở Nông Pênh và làng Choeung Ek mà báo chí đã đặt cho
cái tên nổi tiếng là Cánh đồng chết. Tuol Sleng trong từ điển tiếng
Campuchia có nghĩa là Ngọn đồi độc dược, một cách vô tình mà ý nghĩa cái
tên này đã gắn liền với lịch sử diệt chủng của nó, còn Cánh đồng chết
là dịch từ tiếng anh The Killing Fieds, tên của một bộ phim nói về diệt
chủng của Khmer đỏ, được chiếu lần đầu vào năm 1984. Hai cái tên này có
mối liên hệ chết chóc ma quái trong cỗ máy giết người lúc bấy giờ. Vào
năm 2006 tôi đã có dịp đi thăm lại khu di tích Choeung Ek. Làng xóm hai
bên đường thanh bình trong màu xanh cây cỏ và tiếng chim gù một buổi
trưa tĩnh lặng, mấy nhà sư mặc áo vàng ngồi nghỉ dưới bóng cây thốt nốt,
vài con bò trắng gày dơ xương thong thả gậm cỏ, trẻ con cởi chuồng nô
đùa thỏa thích như ở bất kỳ một vùng quê châu Á nào. Vậy mà tới Cánh
đồng chết, tới cái chỗ phải mua vé vào cửa thì tôi rợn cả người. Bỗng
nhiên thấy vắng kinh khủng, hoang lạnh chứ không chỉ là vắng vẻ bởi vì
vẫn có lác đác du khách ra vào. âm khí vẫn còn rất nặng nề cho dù ba
mươi năm đã qua đi, những oan hồn vẫn còn biến thành những đàn bướm vàng
bướm nâu bay là là trên phần đất có hố chôn thập thể, chết oan chết
uổng thì đâu có dễ dàng mà siêu thoát đi được . Hàng ngàn chiếc đầu lâu
xương sọ sắp thành hàng chật chội trên 15 ngăn trong một cái tháp tủ
kính, ngay ngắn lớp trên lớp dưới, kiểu như sắp các bình sứ trong tủ
nhưng không phải các bình sứ mà là những cái đầu lâu trắng nhởn, hốc mắt
tròn không chớp nhìn vo vo người sống đến tưởng nhớ người chết. Số
lượng đầu lâu đã được bớt đi nhiều rồi. Năm 1985 tôi đã có dịp thăm khu
di tích này, lúc ấy đầu lâu bày la liệt trên các giá trong những gian
nhà trưng bày, nếu tôi nhớ không lầm thì người hướng dẫn có nói là đã
thu nhặt được khoảng trên dưới 20.000 đầu lâu xương sọ trong hơn 20 cái
hố chôn tập thể rải rác trên cánh đồng Choeung Ek. Lúc bấy giờ các hố
chôn tập thể cỏ dại lút người, dưới hố xương cốt vẫn lủng củng trơ ra.
Mãi về sau này, trẻ con đến khu này bới rác vẫn thường kể : chúng cháu
không biết những cái răng người này từ đâu ra, thế nhưng đôi khi trong
lúc bới rác, lúc cháu đào đất và lôi ra được những bộ quần áo thì cháu
cũng lôi ra cả đống răng người. Tôi nhớ hồi nhỏ thỉnh thoảng có đọc tiểu
thuyết trinh thám của Phạm Cao Củng, họa huần trong chuyện gặp một hai
cái đầu lâu của bọn buôn thuôc phiện lậu bị giết hại trên rừng thì đã
rùng rợn lắm rồi, nay đứng trước một núi đầu lâu xương cốt thì khủng
khiếp quá, không so sánh được với cái gì. Tự mình nhìn tận mắt cũng còn
khó tin nổi giữa thế kỷ 20 văn minh là thế mà còn có những tội ác man rợ
như vậy huống chi các lớp trẻ về sau này.
Một người Campuchia sống sót qua thời Khmer Đỏ biểu
hiện tâm trạng khi đứng trước bảo tàng diệt chủng ở ngoại ô Phnom Penh.
Khoảng 2 triệu người đã chết trong thời gian 4 năm cầm quyền của Khmer
Đỏ ở Campuchia vì đói khát, bị hành hạ, tra tấn và hành quyết.
Tháng 1/1979, quân tình nguyện Việt Nam giải phóng người dân Campuchia khỏi chế độ diệt chủng.
Ảnh: AP.
|
Còn
nhà tù Toul Sleng vốn là một trường trung học nằm trong khu phố nhỏ
Toul Svay Prey ở phía Nam Nông Pênh, bọn Pôn Pốt đã quây thép gai lại
rồi biến các lớp học thành phòng giam nhỏ để tra tấn các tù nhân, trở
thành trại tập trung ngay giữa thủ đô và đặt cho nó biệt danh là S21.
Ngay những ngày đầu năm 1979 mới tới Nông pênh tôi đã đến thăm nhà tù
Tuôl Sleng. Lính Pôn Pốt đã vội vã giết hại những tù nhân còn sót lại
đây ngay trước lúc quân tình nguyện giải phóng khu vực này thành thử khi
tới đây tôi vẫn còn ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, những vết máu của
nạn nhân tóe lên tường, dây trên sàn nhà vừa khô tím, hôi hám, một mảnh
quần màu đen còn vướng lại trên chiếc giường sắt cáu gỉ…Trên tường treo
ảnh hàng loạt tù nhân, phần lớn đều mặc áo đen quấn khăn rằn. Bọn Pôn
Pốt đã giam tù ở đây, tù đàn ông tù đàn bà, tù già tù trẻ con, cùm kẹp,
chụp ảnh lấy cung rồi tra tấn theo kiểu S21 như là rút móng tay móng
chân, đổ a xít vào mặt, khoét ngực để thả rết, dùng búa rừu roi đánh
đập… trước khi chở họ đến Choeung Ek dùng xẻng dùng búa, dùng cuốc dùng
gậy đập đầu hành quyết hàng loạt. Đó chính là mối liên hệ chết chóc ma
quái ghê rợn giữa Tuôl Sleng và Choeung Ek. Nhiều tài liệu nói chỉ có 14
người sống sót trong số từ 17.000 đến 20.000 tù nhân ở Tuol Sleng trong
đó có họa sĩ Vann Nath là người chuyên vẽ về cảnh tra tấn tàn bạo và
rùng rợn ở Tuol Sleng.
Thế
là ba thập kỷ đã qua đi kể từ khi thế giới biết đến những “cánh đồng
chết” ở Campuchia thì mãi tới tháng 7 năm 2006 một tòa án xét xử tội
diệt chủng của Khmer đỏ mới bắt đầu. Tôi thường nói đùa với mọi người
rằng đã có một Tòa xét xử Khmer đỏ năm 1979 của Cộng hòa Nhân dân
Campuchia, với một đoàn luật sư ít hơn đoàn luật sư bây giờ rất nhiều,
với một số tiền cực kỳ li ti so với gần trăm triệu đô la bây giờ, nhưng
cả hai Tòa đều có cùng một bị cáo là chế độ diệt chủng Khmer đỏ, và cuối
cùng thì Tòa thứ hai có giỏi lắm cũng sẽ đạt được một kết luận về căn
bản sẽ chỉ giống như Tòa thứ nhất mà thôi.
“Nói
cho cùng, chính Việt Nam đã nhanh chóng chấm dứt cuộc tàn sát man rợ
của kỷ nguyên Khmer đỏ trong khi phần còn lại của thế giới đang che mặt
làm ngơ”.(Mark A. Ashwill, Buffalo, New York, USA, trong lời giới
thiệu của cuốn Hành trình qua cánh đồng chết, tác giả Chanrithy-Him, nhà
xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 2006) .
*
* *
Tóm tắt câu chuyện về cuộc diệt chủng lần thứ ba trong thế kỷ 20 như vậy là để phần nào làm cái việc mà người Pháp gọi là le devoir de memoire,
tức là nghĩa vụ nhắc lại lịch sử cho các thế hệ trẻ, nhưng chủ tâm của
tôi là để có một bối cảnh nhìn cho rõ hơn hình ảnh người lính tình
nguyện Việt Nam những năm 1979-1989 ở Campuchia. Tôi không dám chắc lắm
nhưng hình như trên thế giới rất ít nước có quân tình nguyện. Việt Nam,
trong những giai đoạn khác nhau, có quân tình nguyện ở Campuchia và cả ở
Lào.
Ở
Nông Pênh có phố Samdach Sotheros gần Đài Độc lập, nổi tiếng là một phố
du lịch đẹp. Từ những quán ăn sang trọng ở phố này người ăn nhìn qua
bên kia đường đều có thể thấy Tượng đài Hữu nghị Việt Nam- Campuchia
chốt giữa công viên, với hình ảnh người lính tình nguyện Việt nam sát
cánh cùng người lính Campuchia che chở cho người phụ nữ đang bồng đứa
con nhỏ. Thần kỳ ở chỗ tuy những nét chạm khắc còn thô và chắc chắn
không phải của một nhà điêu khắc chuyên nghiệp nhưng đã bộc lộ một ý chí
dũng mãnh hoà quyện với tình cảm thân hữu trên nét mặt và ánh mắt những
người lính. Họ đứng đấy xừng xững khắc tạc vào không gian và thời gian.
Cứ
mỗi lần có việc đi ngang qua Tượng đài Hữu nghị, tôi đều nổi da gà vì
xúc động nhớ tới những người lính tình nguyện. Sau quen dần, tôi thường
ngắm nhìn những người dân đi dạo trong công viên, dưới chân Tượng đài.
Họ bước những bước gấp gáp hay thong thả khác nhau nhưng đều với một
dáng điệu thanh bình. Những bông phượng nở sớm cũng đỏ một cách thanh
bình. Cả bầu trời đầu hè Nông Pênh cũng trong vắt mầu xanh bình yên.
Ông
Ngô Điền kể : Tháng 4 năm 1981 có một đoàn kiều dân Campuchia từ Pháp
về do bác sĩ Kim Viên dẫn đầu. Khi ở Siem Riệp, Kim Viên hỏi về sự có
mặt của quân đội Việt Nam. Chị phụ trách khách sạn Siem Riệp nói muốn
quân đội Việt Nam rút đi thì dễ thôi, chỉ có một việc là đưa quân
Campuchia lên mà đánh Khmer đỏ, nhưng hãy đến bệnh viện ở đây mà xem
những ai là người bị thương, cụt chân cụt tay. Toàn là thanh niên Việt
Nam cả.
Trong
sổ tay của anh Lý Quang Bích, tham tán công tác tại Sứ quán Việt Nam ở
Cămpuchia, có đoạn ghi : số quân Việt Nam bị thương vong trong chiến
tranh chống bọn Pôn Pốt : chết 55 000 người, bị thương tương tự như
trên. Thời kỳ 1977-1978, bộ đội Việt Nam hy sinh ở biên giới là 30.000
người. Từ sau 1979 và trong năm 1980 là 15000 người. Từ 1981 đến hết
1988 là 10.000 người.
Đó
là ghi chép của anh Lý Quang Bích để nói với báo chí. Còn theo số liệu
mà hai tác giả Harish C.Mehta và Julie B.Metha đưa ra trong cuốn Hun
Sen, Người hùng của Campuchia (Hun Sen, Strongman of Cambodia, Graham Brash, Singapore, 1999, p.86) thì con số cao nhất phải tới 220.300, trong đó 55.300 người chết, 110.000 người bị thương nặng và 55.000 người bị thương nhẹ.
Đã
có một lần tôi được về Tây Ninh dự lễ tiếp nhận, truy điệu và an táng
hài cốt hơn hai trăm chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh ở
Campuchia. Buổi lễ hôm ấy được làm ở Nghĩa trang huyện Tân Biên, cách
cửa khẩu Sa Mát khoảng 20 cây. Tôi tự hào, nhưng không phải không đau
đớn, nhìn cảnh những người sống đón rước những người chết trở về, mỗi
người chết được gói trong một bọc vải màu đỏ. Lúc ấy trong đầu tôi cứ tự
nhiên bật ra những câu sau :
Ba mươi năm đón các anh về
Ba nén nhang
Một chén nước lã
Và một lá cờ đỏ
Bây giờ thì thôi lá cây ngọn cỏ
Hãy yên nghỉ đi
Rủ lên mộ anh cành hoa đại trắng
Trên cao nữa là trời xanh quê hương
Đất mẹ ôm anh, ru các anh nằm.
Tôi
Một mình xin khóc
Nước mắt một giọt
Ba mươi năm.
Tại
buổi lễ, những người sống gặp gỡ nhau chuyện trò vui vẻ. Trong một niềm
xúc động không kìm lại được, tôi đã đọc cho một số người nghe những câu
thơ trên và ngay sau đó biết rằng sự xúc động của tôi chưa đủ để có thể
truyền cảm chút ít gì đấy cho người nghe. Mọi người bàn luận sôi nổi về
các dự án đầu tư và thương mại. Buổi tối, tôi bật vô tuyến, thấy một
chương trình văn nghệ, các thí sinh trẻ đeo số vừa hát những ca khúc về
những mối tình gian dối, tình dại khờ, nước mắt hững hờ...vừa vặn vẹo
như cung quăng bọ gậy trên sân khấu. Mà làm sao tôi cứ bị ám ảnh bởi
khuôn mặt một nghệ sĩ khi vừa xem vô tuyến vừa nghĩ tới buổi lễ đón
người chết buổi sáng, khuôn mặt người hát nó cứ ghê ghê, dại dại như
khuôn mặt người lên đồng cho cô hồn hơn là biểu diễn nghệ thuật. Chẳng
có lẽ tôi đã là người bảo thủ và định kiến đến mức ấy hay sao ! Giá mà
các nghệ sĩ trẻ tài năng hãy làm và hát lấy một bài hát ca ngợi những
người đã chết, dù cho cái chết ấy có được gọi là của người tình nguyện,
hãy làm và hát lấy một bài ca ngợi người mẹ khổ đau chờ đợi con và ca
ngời Tổ quốc nghèo khó mãi nhưng không ngớt bao dung thay vì hàng trăm
ca khúc linh tinh về yêu đương con trai con gái đang hát hàng ngày !
Chắc
tôi đã là người cũ quá rồi. Nhưng mà, thưa các bạn, chúng ta cũ hay mới
đều là những người đang sống, xin các bạn đôi lúc hãy làm như vô tình
đọc lấy những đoạn tin ngắn lạnh lùng và đau buốt như thế này :
“Bộ
Đội, hài cốt của khoảng 100 lính Việt Nam mất tích trong những năm
70-80 trên đất CPC đã được đưa về Việt Nam. Một Uỷ ban hỗn hợp hai nước
đã được thành lập để tìm kiếm hài cốt bộ đội Việt Nam ở các tỉnh
Bát-tam-bang và Siem Riệp. Hài cốt bộ đội Việt Nam đặc biệt nhiều chung
quanh chùa Angkor Thom và Banteay Srei”.(Báo Cambodge Soir, tr 9, ngày 23/3/05).
Theo
con số thống kê chưa đầy đủ thì đến bây giờ còn khoảng 24 cái đài tưởng
niệm quân tình nguyện hoặc tình hữu nghị ở các tỉnh ở Campuchia. Đài
tượng niệm ở Nông Pênh mới được tu sửa lại khang trang, đẹp đẽ. Những
đài ở một số tỉnh lớn như Công Pông-xom, Bát-tam-bang, Cần-đan, Công
Pông-chnăng…cũng được trông nom cẩn thận, số còn lại hầu hết đều hương
khói lạnh lùng, cỏ hoang leo mọc, đấy là chưa kể có những cái vô tình bị
đập đi để lấy đất xây chung cư. Điều này cũng có thể hiểu được thôi.
Cái cần nói ra và nói một cách thật rõ ràng là những tượng đài này có
thể tồn tại mãi mãi mà cũng có thể thay đổi, nhưng các thế hệ chúng ta
bây giờ và mai sau, chính chúng ta phải tôn vinh hơn nữa người lính tình
nguyện Việt Nam, phải xây dựng tượng đài về họ trong tim trong óc mỗi
thế hệ. Phải nhắc về họ, ca ngợi họ nhiều hơn nữa, chứ cứ như vừa qua
thì công bằng mà nói là chưa đủ.
Những
ngày mới sang làm nhiệm vụ ở Campuchia, tôi luôn luôn cảm thấy có linh
hồn những người lính tình nguyện, đi đâu tôi cũng đều thấy như họ vật
vờ trên những cành cây ngọn lá. Với tình cảm như thế, nhiều anh em đề
nghị tôi cho xây một cây hương trong Sứ quán, lấy chỗ thờ cúng hương
khói cho linh hồn các chiến sĩ quân tình nguyện và vong linh bất kể
người Việt nào bỏ mình trên đất CPC. Sứ quán phải là Tổ quốc của những
người đang sống và của cả những người đã chết ở đây. Ngày 6/4/2005, anh
em làm xong cây hương.
Nguồn: Chienthang47