Chương VI
MỘT LẦN ĐI SIÊM-RIỆP
Nhớ
lại đầu năm 2009 tôi có dịp đi từ Nông Pênh đến Xiêm Riệp bằng ô tô.
Chuyến đi gần bốn trăm cây số mất khoảng hơn năm tiếng với các bạn người
Campuchia đã để lại cho tôi thật nhiều những ấn tượng tốt đẹp.
Đường
đi không so được với đường của Trung Quốc hay của Thái Lan nhưng so
với Việt Nam thì không thua kém gì. Điều khó chịu nhất của cánh lái xe
là thỉnh thoảng lại có mấy con bò thong thả qua đường, không thận trọng
thì cả xe cả bò quay lơ ra ngay. Anh bạn người Việt cùng đoàn vô tư bình
luận : chỉ có ở CPC mới để bò « tham gia giao thông »
kiểu này. Tôi phải kín đáo nói nhỏ vào tai anh ấy rằng ở mình chẳng cần
đâu xa mà ngay ở khu đô thị Mỹ Đình, nếu không cẩn thận thì cũng xơi
no. Chỉ khác của bạn là bò trắng còn của mình là bò vàng mà thôi.
Phải
qua các tỉnh Công Pông Chnang, Công Pông-chàm rồi mới đến Xiêm Riệp.
Lúc này mùa khô sắp qua nhưng mùa mưa chưa tới nên thời tiết nóng lắm,
mỗi lúc dừng xe uống nước thì mấy du khách nữ không dám rời khỏi cái
điều hòa nhiệt độ trong xe khiến anh bạn hướng dẫn người Campuchia áy
náy :
- Hà Nội của các bạn thời tiết tốt lắm, không nóng như thế này.
Tôi
nghĩ thầm cậu ta có biết thời tiết của Hà Nội thế quái nào đâu mà khen.
Mùa rét thì rét thấu xương, mùa nóng thì độ ẩm cao ngất nghểu, xểnh ra
một cái là viêm họng viêm mũi. Tôi nghĩ thời tiết Trung bộ Bắc bộ của
mình là thời tiết khắc nghiệt, có điều nó là của mình, từ lúc mình sinh
ra cho đến khi chết đi nó vẫn là như thế, không thay đổi, nó thấm vào
máu xương vào tâm hồn mình rồi thì thành đẹp, thành mơ mộng, vậy thôi
chứ có thuận lợi hơn gì người ta.
Phong
cảnh hai bên đường thật thanh bình. Những cây thốt nốt mọc xen trong
những ruộng lúa vừa gặt hoặc bên cạnh những ngôi nhà sàn nhỏ xinh. Cây
thốt nốt gắn bó với người Campuchia giống như cây tre gắn bó vơi làng
quê Việt mình vậy. Tôi nhớ báo Cambodia Daily ngày 6/1/2006 có bài viết
của Lor Chandara và David McFadden nhan đề 50.000 cây thốt nốt để vạch đường biên với Việt Nam, nội dung thế này :
“Ngày
5/1, Chan Sarun, Bộ trưởng Nông nghiệp Campuchia cho biết Campuchia dự
định sẽ trông nom việc trồng khoảng 50.000 cây thốt nốt trong năm nay
tại các tỉnh giáp giới với Việt Nam nhằm làm biểu tượng của tự hào dân
tộc và cải thiện đời sống của người dân nghèo… “Bộ Nông nghiệp có kế
hoạch trồng các cây giống dọc các tỉnh giáp biên với Việt Nam vì những
nơi này thiếu các cây thốt nốt và chúng tôi muốn chứng tỏ rằng Campuchia
có một phong cảnh rộng lớn về cây thốt nốt.” Ông Sarun nói: “Đâu có cây
thốt nốt, đó là Campuchia.”…
…”Vào
tháng ba, một sắc lệnh của Hoàng gia đã đưa cây thốt nốt trở thành loài
cây quốc gia của Campuchia; sắc lệnh này cũng chỉ ra loài hoa, loài cá,
bò và hoa quả quốc gia của Campuchia”.
Đọc bài báo xong tôi nghĩ chắc tác giả nói vui rằng « đâu có cây thốt nốt đó là Campuchia »
thế thôi chứ cây thốt nốt có nguồn gốc tận châu Phi kia mà. Châu Á thì
các nước Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, Ấn độ đều có cây thốt
nốt, cây thốt nốt đều gắn bó với người dân của họ. Ở Ấn độ từ rất lâu
người ta đã dùng cây thốt nốt theo hàng trăm cách khác nhau, có kinh
nghiệm lắm. Người Campuchia cũng dùng cây thốt nốt theo nhiều cách khác
nhau, từ lá đến rễ chẳng bỏ đi cái gì. Bây giờ người ta đã làm cả bia cả
rượu từ nước cây thốt nốt, cũng dễ say ra phết, đến Nông Pênh mấy anh
bạn uống thử nói vui rằng mới một ly đã phê.
Trước
khi đi Siêm Riệp, tôi đã được chiêm ngưỡng nhiều bức tranh sơn mài cỡ
lớn vẽ Angkor Wat, trong tranh nào cũng có cây thốt nốt. Những cây thốt
nốt này được vẽ theo một bút pháp chính thống, giống nhau và hơi cứng
nhắc với màu xanh xám buồn bã. Campuchia vào mùa mưa thường có rất nhiều
mây xám. Hình như các hoạ sĩ hay vẽ vào mùa này, những bức tranh Angkor
Wat Angkor Thom thường cũng có màu xám lạnh lẽo của đá và của mây,
những cây thốt nốt cũng xám trên nền trời tối thành thử những bức tranh
tuy đẹp nhưng cứ đượm buồn.
Nói
gì thì nói, cây thốt nốt của người ta đã được vinh danh thành cây biểu
tượng của quốc gia. Ở Việt Nam mình có cây gì, con gì là biểu tượng !
*
* *
Trở
lại chuyến đi Siêm Riệp. Các bạn Campuchia giải thích cho tôi nghĩa từ
Siêm Riệp có liên quan tới những cuộc giao tranh giữa người Miên
(Campuchia) và người Siêm (Thái lan) trước kia. Tên một tỉnh khác ở phía
Tây Campuchia là Bát-tam-bang cũng có nghĩa liên quan đến chiến trận,
một vị tướng chiến đấu chống quân xâm lược cho đến lúc rơi mất cả gậy.
Tôi bỗng có một nhận xét rất bất chợt nhưng cũng thú vị, đó là tên nhiều
tỉnh ở phía Đông Campuchia không dữ dội mà êm đềm hơn, ví dụ như
Công-pông-chàm nghĩa là bến của người Chàm, Công-pông-xom là bến của sự
thuận tiện, Xoài Riêng là đất xoài…Nhận xét vu vơ ấy mà.
Trên đường đi, tôi để ý thấy có những tấm biển lớn cắm ven đường, đa phần thì ghi là CPP (Đảng Nhân dân Campuchia), thỉnh thoảng ghi Samransy Party (Đảng Samrainsy), Ranarith Party (Đảng Ranarith), lại có khi ghi FUNCIPEC (Đảng FUNCIPEC) hay Humain rigsth Party (Đảng Nhân quyền)…
Một anh bạn Việt Nam tò mò hỏi người hướng dẫn các biển ghi trên đường như thế là thế nào. Người hướng dẫn hào hứng giải thích :
- Đấy là các đảng chính trị ở Campuchia, đảng nào giành được phiếu ở đâu thì cắm biển ở đó.
Mọi người đều à lên, lúc ấy mới nhớ ra Campuchia là nước có nhiều đảng. Một người trong đoàn lại hỏi :
- Campuchia có bao nhiêu đảng ?
-
Ối giời ơi nhiều lắm anh ạ, tôi không nhớ hết bao nhiêu nhưng phải tính
đến vài chục. Nhiều vậy nhưng chỉ có vài đảng là có đông người ủng hộ,
mạnh nhất là Đảng Nhân dân.
Người bạn Việt Nam chữa :
- Đảng Nhân dân Cách mạng chứ ?
-
Bỏ chữ cách mạng rồi, bỏ để cho phù hợp với tình hình thôi chứ nội dung
thì vẫn là đảng cách mạng, vẫn giữ độc quyền lãnh đạo thôi.
Anh bạn trong đoàn bị tẽn tò nhưng vẫn dè dặt hỏi :
- Thế anh theo đảng nào ?
Anh hướng dẫn người Campuchia cười ngoác miệng, để lộ ra mấy cái răng bọc vàng :
- Tôi theo CPP.
Mấy anh chị trong xe thở phào, cách gì thì với CPP mình cũng vẫn gần gũi hơn, đỡ phải giữ gìn kín đáo khi trao đổi chuyện trò
- Sao lại theo CPP ?
-
Tôi theo CPP vì đảng này đem lại hòa bình, cơm no áo ấm cho người dân
Campuchia. Đảng chúng tôi đã thắng liên tục trong bốn cuộc bầu cử liền
đấy. Đó là thành tích của chúng tôi bởi vì chế độ nhiều đảng cũng phức
tạp lắm anh ạ, đảng viên phải phấn đấu gấp mười lần bình thường, công
tác đảng cũng gấp mười lần, thời trước chỉ có một Đảng Nhân dân Cách
mạng thì không ai cạnh tranh, không ai chạy đua, không sinh hoạt đảng
cũng không ai nói gì, bây giờ nhiều đảng mình không gương mẫu là bị các
đảng đối lập nó soi, nó móc ra, đến khi tranh cử là mình mất phiếu như
không.
Tôi
thật mến phục anh chàng đảng viên CPP trẻ tuổi, sinh ra sau thời diệt
chủng Pôn Pốt mà có thể nói về đảng của anh ta với một niềm kiêu hãnh
như thế. Tôi hỏi :
- Anh học tiếng Việt ở đâu mà sõi thế ?
-
Tôi học Đại học Ngoại thương, ở Láng Hà Nội ấy. Tôi thích được đi đây
đó nên khi về nước đã xin vào ngành du lịch, cũng không trái nghề lắm
anh ạ.
Có
lẽ Campuchia là nơi có nhiều người nói tiếng Việt nhất, đấy quả là một
vốn quý cho quan hệ hữu nghị và làm ăn buôn bán giữa hai nước. Có điều
rồi đây mình sẽ gìn giữ và phát huy cái vốn quý giá này như thế nào đây !
*
* *
Khoảng
12 rưỡi chúng tôi tới Siêm-riệp. Siêm Riệp của bạn đẹp lắm, hùng vĩ mà
lại thơ mộng, cổ kính mà lại gần gũi vì có Angkor Vát, Angkor Thom và
những đền đài cổ tích khác trong một khung cảnh núi rừng thâm nghiêm.
Thế nhưng trong lịch sử thì công cuộc xây dựng đền đài đã hút đi bao
nhiêu nguyên khí, đế quốc Campuchia bị khánh kiệt rồi đi đến suy sụp.
Chúng
tôi tranh thủ đi thăm Angkor Vát và Angkor Thom ngay trong buổi chiều.
Khi thu mỗi người hai mươi đô la vé vào cửa, anh bạn hướng dẫn lại cười
hồn nhiên :
-
Tổ tiên chúng tôi để lại cho chúng tôi kỳ quan này, nó đã phải trải qua
bao nhiêu là thăng trầm lịch sử để đến bây giờ thế hệ chúng tôi được
hưởng lợi từ nó. Đó là niềm tự hào của dân tộc Khmer, với nó, chúng tôi
có thể kiêu hãnh ngẩng cao đầu.
Người
hướng dẫn đưa chúng tôi đi vào một thời lịch sử Campuchia qua những đền
đài miếu mạo được xây đắp bằng đá, qua hàng ngàn bức tượng khắc trên
đá, qua những cái đầu mãng xà cũng bằng đá đang vươn lên. Và qua khuôn
mặt Bay-on, nụ cười Bay-on đầy huyền bí, nụ cười đã thôi miên hàng trăm
năm lịch sử và bây giờ vẫn đang thôi miên hiện tại của chúng ta.
Tôi
đã đọc đã nghe về Angkor, kỳ quan huyền thoại này của người Campuchia
không xa lạ trong hiểu biết của tôi. Vậy mà khi đến trước những công
trình kiến trúc kỳ vĩ có một không hai này tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng,
trong lòng tràn đầy tình cảm khâm phục. Phải đứng trước Angkor để có
thể hiểu được điều mà nhà thám hiểm người Pháp Alexandre Henri Mouhot đã
thốt lên năm 1858 khi ông tìm lại được Angkor lúc ấy hoang tàn và bị
vùi lấp trong rừng rậm nhiệt đới dày đặc : “Trời
ơi, ước gì tôi có thể viết hay như Chateaubriand hay Lamartine, hoặc có
thể vẽ đẹp như Claude Lorrain để làm cho bạn bè biết được những tàn
tích có một không hai này đẹp và kỳ vĩ như thế nào !”.
Chương VII
VII-TIẾNG THỞ DÀI
CỦA ÔNG PHẠM THẾ DUYỆT
Ngày
23/1/2006, nhân dịp tết Bính Tuất, tôi đi thăm một xóm Việt kiều trong
đó có nhà bà Võ Thị Lền, 66 tuổi, ở tổ 35-36, ấp Tua Rka, phường Chak
Angre Crom, quận Mean Chey. Đây là một xóm nghèo ven sông Mê Kong, gần
Nông Pênh. Gọi là nhà vì bà Lền sống ở đấy chứ thật ra nó không phải cái
nhà, nó là cái lều, mà lại là cái lều sàn vì nó được bắc trên mấy cái
cột khẳng khiu. Lúc đầu mọi người ngăn tôi đừng lên bởi vì trước hết
phải đi ván lên một chiếc thuyền của người khác, rồi lại từ cái thuyền
ấy đi qua hai nhịp cầu độc bắc díc dắc mới lên được đến cái lều sàn của
bà Lền. Tôi cứ lên, cứ đi trên những chiếc ván rộng chừng 20 phân bập bà
bập bùng để hỏi thăm bà. Một mình bà ngồi trên chiếc lều rộng chừng 5, 6
mét vuông, ngồi ôm gối, tóc bạc rối tung, mắt lòa ngước lên nhìn chúng
tôi nhưng chắc không trông thấy gì bởi vì tôi thấy bà phải chú ý nghe
ngóng bằng đôi tai của mình. Tôi hỏi có biết Tết đến rồi không, bà nói
không. Tôi hỏi dưới mình quê bà ở đâu, bà bảo lâu ngày không nhớ nữa.
Lại hỏi con cháu họ hàng có ai, lại trả lời không còn ai. Thế là ba
không. Tôi sợ, không dám hỏi từ sáng đến giờ đã ăn gì chưa. Bởi vì chưa
hỏi đã muốn khóc, mà không dám khóc, thể diện nào mà muốn khóc ở chỗ này
!
(Chèo thuyền trên Tông-lê Sáp, ảnh minh họa)
Một
lần khác tôi đi thăm bà Võ thị Kim Loan ở ấp Sen Sok, phường Khmuôi,
quận Russey Keo. Nơi này cách sông Mê Kông xa hơn, nằm giữa cánh đồng
khô hạn, dễ cháy, bụi bẩn cả ngày. Bà Loan cũng ở trong lều, nhưng
không phải lều sàn như bà Lền, hơn bà Lền là có một đứa cháu ngơ ngơ
ngẩn ngẩn, không biết cháu kiểu gì.
Họ là Việt kiều đấy, theo cách gọi của một số người thì họ là kiều đấy. Khi ở An-giê-ri, tôi đã viết một bài báo với đầu đề Cũng là một đời Kiều.
Để viết bài báo này chủ yếu tôi đã nghe những chuyện do anh Vũ Duy Láu,
lúc ấy là Bí thư thứ nhất Sứ quan, kể lại. Anh Láu là người đã công tác
mấy khoá ở Châu Phi, đã gặp nhiều bà con mình. Qua những chuyện của anh
Láu, tôi cảm thấy nỗi tê tái của những người xa quê. Khi sang Ma-li
trình quốc thư, tôi đã gặp một số bà con mình, trong đó có bà Tuyết, chủ
một tiệm cơm rất đông khách. Bà đã nuôi chúng tôi trong suốt thời gian
một tuần, nuôi cơm thịt, nuôi bia rượu không lấy tiền. Những người đến
công tác trước tôi, kể cả ông Ngô Điền, cũng được bà đối đãi như thế.
Cảm động lắm, gặp chúng tôi là cứ day dứt nỗi xa nhà. Bà con ở châu Phi
lúc ấy xa tít tắp không về được quê hương đã đành, đằng này ở ngay
Campuchia mà cũng rất đông người nghèo kiết, không lấy đâu ra tiền mà về
dưới, tức là về quê. Cầu kiều trong ca dao là cái cầu đẹp vì nó là cái
cầu hiếu học, nói lên nỗi khao khát hướng tới cái sự học.
Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
Còn cái cầu Kiều của những người xa sứ thì mây gió tha phương lắm, qua
cái cầu này rồi thì bỗng dưng sẽ trở thành kiều dân, có qua mà không
tính trước được ngày trở lại. Tuy nhiên tình cảm xa sứ kiểu này là tình
cảm của thời xưa thôi, thời mà cái làng cái xã ở nhà quê cũng bao la chứ
đừng nói gì thế giới. Bây giờ thế giới hội nhập, công nghệ thông tin
tung ra thị trường nào in-téc-nét nào là 3G, hàng loạt các hãng máy bay
giá rẻ ra đời, kiều dân bỗng dưng trở thành các công dân quốc tế, bỗng
dưng sẽ có hai quốc tịch, kiều hối tăng nhanh hàng năm, Việt kiều trí
thức đóng góp chất xám…. Oai lắm.
Tuy
vậy Việt kiều ở Campuchia phần đông vẫn nghèo, vì sao nghèo thế thì
nhiều nguyên nhân lắm, biết hết cả nhưng nó cứ rối như cái bòng bong,
chưa gỡ ra hết được.
Cứ
mỗi lần đi thăm bà con về là trong lòng lại nặng nề tâm sự, lại thấy
như mình còn có nhiều lỗi hẹn với bà con, day dứt muốn làm một cái gì
cho bà con. Vẫn biết những cố gắng từ xưa nay cũng nhiều đấy, cũng đậm
đà đấy nhưng vẫn chỉ như muối bỏ bể. Các cụ xưa nói tiền vào chỗ khó như
gió vào chỗ trống thật chẳng sai.
Bây
giờ ở Cămpuchia cũng đã có nhiều Việt kiều làm ăn khấm khá, có cuộc
sống dễ chịu hơn nhưng phần nhiều vẫn sống trôi nổi trong nhà thuyền
trên mặt nước Biển Hồ hoặc dọc các con sông, kênh rạch, làm nghề nuôi,
đánh bắt và chế biến thủy sản. Nhiều người khác sống bằng đủ các thứ
nghề nặng nhọc như mộc, nề, xe ôm, ve chai, lao công, bốc vác, hàng
rong…, công việc thì không ổn định, thu nhập thì thất thường.
Tôi
đã mấy lần đi Biển Hồ thăm bà con, được gặp chị Tuyết lúc ấy là Chi Hội
trưởng chi hội Việt kiều Giàng Pháo thuộc khu vực Biển Hồ tỉnh Công
Pông Chnang. Chị là Việt kiều cốt cán từ bé, cả đời lăn lộn với phong
trào, tinh thần yêu nước lúc nào cũng cao ngất trong từng việc làm, từng
câu chuyện của mình. Chị dẫn tôi đi thăm bà con, đi huỳnh huỵch trên
ván thuyền, nhẩy ào ào từ thuyền này sang thuyền khác, luôn miệng cười
nói chào hỏi. Rồi chị đưa tôi về nhà, tức về thuyền của chị, cho xem ảnh
thời kháng chiến, lúc ấy tuy còn trẻ nhưng trông chị đã giống như một
người đàn ông thuyền chài thực thụ. Rồi chị thết tôi một bữa cơm có món
canh chua nấu với lòng và đầu cá xủ cùng một chén nước mắm gan cá. Đây
là một trong số ít những bữa cơm tuyệt nhất trong đời Đại sứ của tôi.
Tôi hỏi tại sao chỉ đãi Đại sứ toàn lòng và đầu cá thì chị cười và giảng
giải cho tôi rằng bao nhiêu phần thân cá đã đem phơi khô hết rồi, người
dân vào mùa cá thì chỉ ăn đầu và lòng cá thôi. Mùa làm cá thì gan cá
cũng nhiều, người ta mới mang gan cá ấy ra làm thành một thứ nước mắm
tuyệt ngon, được ít lắm nên nhà nào giữ lại cho nhà ấy. Chị cười, đọc
cho tôi nghe hai câu ca :
Biển Hồ cực lắm ai ơi
Đêm thời mổ cá ngày thời đem phơi.
Cả
đời chị sống ở Biển Hồ, những câu chuyện chị kể về tôm cá Biển Hồ, về
cuộc chiến đấu chống bọn Pôn Pốt ở Biển Hồ và về cuộc sống của cư dân
Việt trên Biển Hồ chứa đựng bao nhiêu những cay cực khổ ải nhưng đầy ắp
chất lãng mạn, lòng vị tha và nhất là tình yêu hướng về Tổ quốc.
(Biển hồ Campuchia, ảnh minh họa)
Tôi
đã đi nhiều nơi, đã được gặp nhiều người, từ những người nghèo kiết xác
đến những người giàu nứt đố đổ vách, dù họ là ai, trong hoàn cảnh nào, ở
đâu tôi cũng đều thấy hai chữ Tổ Quốc như ngọn đuốc sáng ngời trong
lòng bà con. Viết tới đây tôi lại nhớ tới bà con trong thời kỳ tôi công
tác tại Pháp. Hình ảnh những Lâm Bá Châu, Nguyễn Văn Bổn, Nguyễn Thiện
Đạo, Trần Văn Khê, hình ảnh các bác Dớ, bác Học, bác Hệ, các em Pascal
Tân, Kiều Thu…lại hiện lên rõ mồn một trong tâm trí tôi như những người
thân trong cuộc đời mình.
Xin
nhắc lại một vài kỷ niệm về ngày tết. Tết âm lịch thường trùng vào cuối
tháng một hoặc tháng hai dương lịch, là lúc những cây tiêu huyền trước
cổng Sứ quán ở phố Boa-lô phơi ra những cái búp non như nắm tay trẻ con,
chỉ đợi nắng lên là xoè nở. Trong cái giá rét sau Nô-en và tết dương
lịch, bà con cô bác hồ hởi cùng chuẩn bị cho ngày gặp gỡ đầu xuân.
Bà
con cô bác đến Sứ quán như những người con xa về nhà lo đón tết. Trước
tết ba ngày, nhiều cô bác đã đến làm nem. Làm vài nghìn chiếc nem trong
ngày là một công việc vất vả. Các cô các bác người đứng người ngồi thành
dẫy, ngực quấn tạp dề, tay cuốn thoăn thoắt, hành sống và hạt tiêu trộn
nem xông lên mắt đỏ mọng. Mọi người đua nhau kể về những kỷ niệm ngày
còn trong nước, có người cao hứng vừa làm vừa đọc thơ hoặc hát cải
lương. Công việc xong sớm cũng phải sáu bẩy giờ, có năm phải đến chín
giờ tối. Ngoài trời rét bốn năm độ, có năm tuyết rơi như mưa nhưng trong
lòng ai cũng cảm thấy có ngọn lửa ấm áp vô cùng. Nem chỉ là một món, Sứ
quán còn phải nhờ cô bác chuẩn bị nhiều món khác, các cô bác lại chia
việc cho nhau, hội công nhân lo món nộm gà xé phay, hội thương gia làm
món tôm rán bọc vừng...Ngày trước, khi Hàng không Việt Nam chưa có điều
kiện giúp đưa bánh chưng hành nén từ trong nước sang, cô bác còn giúp
gói cả bánh chưng, có khi các cô bác từ những tỉnh xa như Mác-xây,
Boóc-đô còn chở hàng xe bánh chưng lên góp. Những chiếc bánh chưng ấy
chỉ gói bằng một lớp lá chuối mỏng mà như đã gói ghém tất cả tấm lòng
hiếu thảo với quê hương đất nước của bà con. Nhiều cô bác mải lo bếp núc
và bày cỗ cho đến tận giờ khai mạc mới vội vàng mặc áo dài, com-lê lên
dự. Khi các bác đến phòng tiệc thì khách đã đông kín, ôm hôn các bác mà
tôi vẫn ngửi thấy mùi thức ăn còn vương trên những mái tóc bạc.
Càng
gần ngày tết, không khí chuẩn bị càng náo nức. Có người mải công việc
quay ra đã chiều 30, băn khuăn vì quần áo lễ đã cũ nên vội vàng đi mua
bộ com-lê màu đen giá ba nghìn quan mặc luôn từ cửa hiệu về thẳng Sứ
quán đón tết. Nhiều thiếu nữ rủ nhau may áo dài từ trước hàng tháng, may
lấy cho nhau, chọn những màu sắc rực rỡ như hoa xuân, tội một nỗi không
thể chỉ mặc riêng áo dài vì thời tiết thường quá lạnh. Nhiều cô bác sát
giờ còn gọi cho cán bộ Sứ quán hỏi xem có cho con dâu, con rể, các cháu
nội ngoại đi kèm được không. Hỏi vậy thôi, có bác dắt theo ba con gái
kèm theo ba chàng rể Tây cao lớn, đối với họ tết bên vợ là một đêm hội
tưng bừng. Tội nhất là những cô bác không tìm được chỗ đỗ xe. Đỗ xe ở
Pa-ri rất khó, tìm được chỗ đỗ ở phố Boa-lô là nơi có Sứ quán còn khó
hơn. Bà con đến Sứ quán thường đi tàu điện ngầm. Những người đi ô tô
phải vòng mấy lượt ở những phố chung quanh, tìm được chỗ đỗ quay lại thì
phòng tiệc đã chuyển sang phần văn nghệ, nhưng còn gì vẫn ăn nấy rất
vui vẻ. Nhiều cô bác đi hàng trăm cây số về dự tết, lúc vào tiệc hỏi
lấy phần đem về, rất tự nhiên gắp nửa cái bánh chưng, mấy củ dưa hành
gói vào túi, cảm động không khác gì đi cỗ chạp, cỗ họ ở quê.
Ở
Cămpuchia thì không như thế, ở đây còn có nhiều người cần đến những gói
quà tết, một gói mứt tết, dăm cân gạo, một gói mì chính, mấy lon nước
ngọt và nhất là một phong bao tiền lì xì, dù chỉ là một đô la chuyển
sang thành bốn riên tiền Cămpuchia cũng đủ làm cho nhiều người nghèo cảm
nhận được tình cảm ấm nồng của đồng bào đùm bọc lẫn nhau nhân ngày xuân
đến.
Có một lần tôi được tháp tùng Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt thăm Cămpuchia. Văn phòng Trung ương Đảng
CPP chiêu đãi Chủ tịch trên một chiếc tàu du lịch đi trên sông Bốn Mặt.
Bánh làm từ quả thốt nốt được đem đến từ các tỉnh Công Pông-chàm, Công
Pông-Spư...Mỗi loại bánh được làm theo một kiểu và theo bạn thì đây là
các đặc sản của mỗi địa phương. Đoạn sông Mê Kông chảy qua Nông Pênh
được gọi là sông Bốn Mặt là vì từ đây sông tách ra chảy theo bốn hướng.
Trên bờ sông phía Nông pênh là hàng dẫy những túp lều lúp xúp, chằng đụp
bằng các thứ tôn cũ, bìa cũ, thân cây thốt nốt, mái lá thốt nốt. Ông
Sai Chum, Thường vụ Đảng CPP chỉ cho chủ tịch Phạm Thế Duyết thấy và
giới thiệu đó là khu nhà của người Việt. Tôi nhìn theo tay ông chỉ,
miếng ngon chưa khỏi miệng đã thấy đắng lòng. Mưu sinh trong những túp
lều kia là bà con mình, đồng bào mình. Những khu nhà ổ gì gì chứ chưa
được là ổ chuột của người Việt mình ở chung quanh Nông pênh, ở chung
quanh Biển Hồ nhiều lắm. Họ là đại diện cho cái nghèo đói khốn khó và
dốt nát còn lại của Việt Nam. Làm sao có thể tự hào về cái nghèo khó,
cái sự nhếch nhác hèn kém do đói khát và dốt nát đem đến. Tôi liếc nhìn
chủ tịch Phạm Thế Duyệt, thấy mặt ông dầu dầu buồn, trong tiếng sóng
tiếng gió trên sông lẫn với tiếng máy nổ ca nô, tôi vẫn nghe được tiếng
thở dài của người lãnh đạo tuổi tác vốn là công nhân mỏ than. Chắc chắn
ông hiểu hơn nhiều người khác thế nào là một cuộc sống lầm than. Sau
chuyến thăm của Chủ tịch Phạm Thế Duyệt không lâu, một vụ cháy xẩy ra ở
bên sông Bát Xắc, thiêu rụi hơn một trăm nóc nhà, thực chất là hơn một
trăm túp lều, phần lớn là của Việt kiều. Mặt trận Tổ quốc đã rất nhanh
chóng gửi thư thăm hỏi và kèm theo một trăm triệu đồng cứu trợ. Nhận bức
điện thông báo quyết định trên, tôi nhớ đến tiếng thở dài của ông Phạm
Thế Duyệt.
Nguồn: Chienthang47