* Thời đoạn 1988 đến đầu 1990: Giai đoạn đàm phán đi vào nội dung thực chất.
Nghị
quyết 13 BCT ngày 20/5/1988 chủ trương giải quyết vấn đề CPC trước năm
1990 và phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ. Nghị quyết BCT nói rõ:
“Phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ là một quá trình đấu tranh gay
go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi bình thường hóa, quan hệ 2
nước khó trở lại ngay như những năm 50, 60. Cuộc đấu tranh tiếp tục dưới
nhiều hình thức khác, không như tình trạng đối đầu như hiện nay… Chúng
ta phải luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi mặt khi bước vào cuộc
đấu tranh mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xấu hòng làm suy yếu
ta, “diễn biến hòa bình”, chia rẽ, phá hoại nội bộ, chia rẽ 3 nước VN,
Lào, CPC“. Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc: chỉ thấy
giới hạn TQ là bá quyền, không thấy TQ là XHCN hoặc chỉ thấy TQ là nước
XHCN mà không thấy bá quyền, bành trướng.
Đối với Lào và CPC:
“Việc Lào và CPC sẽ đi lên CNXH hoặc phát triển theo con đường dân tộc,
dân chủ nhân dân là do Đảng và nhân dân 2 nước đó quyết định, phù hợp
với điều kiện thực tế và nguyện vọng nhân dân nước đó“… “Vấn đề CPC phải
giải quyết với TQ nhưng cho đến nay TQ chưa muốn trực tiếp giải quyết
với ta vấn đề CPC. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều hướng
khác nhau (Hun Sen-Sihanouk, VN-Indonesia, VN-Thái Lan, ASEAN- Đông
Dương, VN-Mỹ…) để thúc đẩy và kéo TQ vào giải quyết. Dù giải quyết trực
tiếp với TQ hay với các đối tượng khác thì việc giải quyết vấn đề CPC
cũng phục vụ mục tiêu bình thường hóa với TQ, không nhằm chống TQ“.
Thực
hiện Nghị quyết 13 BCT, ta đã có một loạt hoạt động rất quan trọng để
thúc đẩy giải quyết vấn đề CPC và phấn đấu bình thường hóa quan hệ với
TQ.
Với Trung Quốc
Thực hiện Nghị quyết 32 và nghị quyết đại hội VI
từ 1986, ta đã có nhiều hành động thiện chí để giảm căng thăng trong
quan hệ Việt-Trung, thôi coi TQ “là kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm“, có
nhiều động tác quan trọng để chứng tỏ ta không tiếp tục chống TQ và phấn
đấu bình thường hóa với TQ, kiên trì đề nghị đàm phán (từ khi TQ cắt
vòng 2 đàm phán Việt-Trung ở Bắc Kinh 6/3/1980 đến cuối 1986 ta đã 16
lần gửi công hàm và thư đề nghị họp lại vòng 3 và đàm phán bí mật) nhưng
TQ đều bác bỏ.
- Ngày 28/6/1988, Quốc hội có nghị quyết và
ngày 27/12/1988, Quốc hội chính thức thông qua Lời nói đầu của Hiến pháp
sửa đổi đoạn nói về TQ.
- Ngày 15/7/1988, Ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch gặp Đại sứ TQ nêu một loạt biện pháp để giảm căng thẳng
quan hệ 2 nước, chấm dứt hoạt động vũ trang trên biên giới đất liền và
hải đảo, không bên nào đóng ở điểm cao trên đường biên, giảm quân về
phía sau để tránh xung đột, ở điểm nóng Vị Xuyên cũng làm như vậy, tạo
điều kiện cho dân biên giới qua lại thăm họ hàng, hai bên chấm dứt tuyên
truyền chống đối nhau, và đề nghị hai bên đàm phán bất cứ cấp nào kể cả
cấp cao, bất cứ lúc nào, ở đâu, bí mật hoặc công khai. Và sau đó, ta đã
đơn phương thực hiện những đề nghị nói trên (2/8/1988), Ban Tuyên huấn
Trung ương ra thông tư 94 về hướng dẫn tuyên truyền với TQ; mở một số
cửa khẩu cho dân biên giới qua lại thăm nhau và trao đổi hàng thiết yếu
hàng ngày…
- Ngày 7/10/1989, Đặng Tiểu Bình tiếp đ/c Kaysone
Phomvihan, TBT Lào, sang thăm chính thức TQ để bình thường hóa quan hệ
hai Đảng, hai nước khi đề cập vấn đề bình thường hóa quan hệ với VN,
Đặng chỉ nêu điều kiện là VN rút hết quân. Ngày 6/11/1989, Bộ trưởng
Nguyễn Cơ Thạch gặp Đại sứ Trương Đức Duy chuyển thông điệp miệng của
TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình mong bình thường hóa quan hệ 2
Đảng, 2 nước, mong gặp Đặng. TQ không trả lời. Ngày 28/11/1989, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
[TQ] Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh và
khẳng định VN sẵn sàng gặp lại TQ cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng trong
tháng 12/1989. Ngày 12/12/1989, Đại sứ TQ Trương Đức Duy gặp Bộ trưởng
Nguyễn Cơ Thạch thông báo thông điệp miệng của Đặng Tiểu Bình gửi đ/c
Nguyễn Văn Linh: “VN rút quân sạch sẽ, triệt để và lập chính phủ liên
hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết
thực cần đồng thời giải quyết. Phía TQ sẽ suy xét dề nghị của VN về mở
vòng thương lượng ở cấp Thứ trưởng, nếu VN chấp nhận một cơ chế giám sát
quốc tế do Liên hợp quốc chủ trì có 4 bên tham gia để kiểm chứng VN rút
quân và lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu
trong giai đoạn quá độ”.
Sau Nghị quyết 13 BCT và điều chỉnh của
TQ ở Hội nghị BCT ĐCS TQ tại Bắc Đới Hà tháng 9/1988, ta và TQ đã tiến
hành hai vòng đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao ở Bắc Kinh (16/1/1989;
8-10/5/1989). Trong 2 vòng đàm phán này, ta chủ trương chỉ bàn mặt quốc
tế của vấn đề CPC còn TQ đòi phải bàn cả mặt nội bộ và đặt điều kiện có
giải quyết xong vấn đề CPC mới bàn bình thường hóa quan hệ 2 nước. Đàm
phán không kết quả. Như trên vừa nói, tháng 12/1989 ta đề nghị nối lại
đàm phán, TQ đặt điều kiện VN rút quân “sạch sẽ”, lập chính phủ 4 bên do
Sihanouk đứng đầu, nhận Liên hiệp quốc giám sát thì TQ “sẽ suy xét” đề
nghị của VN về nối lại đàm phán cấp Thứ trưởng. Trong tình hình bế tắc
đó, từ 3-9/5/1990, Thứ trưởng Đinh Nho Liêm đi Bắc Kinh “kiểm tra công
tác sứ quán” và thực chất đã tiến hành vòng 3 đàm phán. Trong lần đàm
phán này, ta tỏ mềm dẻo hơn là có thể trao đổi ý kiến về một giải pháp
toàn diện nhưng không thể quyết định về vấn đề nội bộ CPC. Đàm phán vòng
3 có một số tiến triển, TQ đòi 4 bên nhưng không đòi ngang nhau, không
đòi chính phủ lâm thời nhưng đòi Hội đồng tối cao mang tính chất chính
phủ; về diệt chủng, ta tán thành không nói quá khứ nhưng phải đề cập về
tương lai; hai bên hẹn gặp tiếp tháng 6/1990 ở Hà Nội.
Về vấn đề Campuchia
- Thực hiện Nghị quyết 13 của BCT, ta và
bạn thoả thuận rút hết chuyên gia quân sự dân sự ở CPC về nước, tháng
5/1988 tuyên bố rút 5 vạn quân trong năm 1988 và ngày 5/4/1989 tuyên bố
đơn phương rút hết quân vào tháng 9/1989.
Nhân đây cũng nói thêm
rằng giữa đ/c TBT Nguyễn Văn.Linh và đ/c Nguyễn Cơ Thạch có ý kiến không
hoàn toàn giống nhau về vấn đề rút quân: đ/c Thạch muốn rút quân gắn
với giải pháp chính trị, ít nhất là có thỏa thuận quốc tế về chấm dứt
viện trơ quân sự cho các bên CPC để làm con bài mặc cả, còn đ/c Nguyễn
Văn Linh thấy không cần. Dịp đ/c Linh sang thăm Liên Xô ngày 20/7/1988,
đ/c Linh đã nói với Liên Xô rằng VN sẽ rút hết quân vào tháng 9/1989
nhưng không nói điều kiện, Liên Xô đã đưa công khai điều này. Ngày
6/1/1989, sang CPC dự 10 năm giải phóng CPC, cùng đi có đ/c Trần Quang
Cơ, đ/c Nguyễn Văn Linh phát biểu trong mít tinh ở Hội trường Bassac:
“Hôm
nay, VN tuyên bố hoàn toàn nhất trí với CHND CPC về quyết định rút toàn
bộ số quân tình nguyện VN còn lại ra khỏi CPC vào tháng 9/1989.
Việc
rút hết quân VN khỏi CPC phải đặt song song với việc chấm dứt viện trợ
quân sự của nước ngoài cho tất cả các bên CPC, chấm dứt sử dụng lãnh thổ
nước ngoài làm đất thánh chống lại nhân dân CPC. Những điều thoả thuận
này phải được tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế có hiệu quả“.
Khi
đưa tin, ta cố gắn vế rút quân với chấm dứt viện trợ quân sự, thực chất
ý Anh Linh không gắn 2 vấn đề này; mãi đến 5/4/1989, Chính phủ ta mới
ra tuyên bố rút quân đơn phương vào 9/1989.
Việc VN quyết định
rút hết quân VN khỏi CPC đã có tác động thúc đẩy đàm phán, tiếp theo mở
ra hàng loạt diễn đàn về giải pháp CPC: JIM-1 (7/1988), vòng 3 Hun
Sen-Sihanouk (11/1988), Nhóm làm việc của JIM (l0/1988), JIM-2 (2/1989),
vòng 4-5-6 Hun Sen- Sihanouk (4 và 7/1989, 2/1990), và các diễn đàn
Việt-Mỹ, Việt- Thái, CPC-Thái.
Đỉnh cao của các diễn đàn là Hội
nghị quốc tế Paris tháng 7/1989. Tại Hội nghị, phía bên kia đòi VN rút
quân, xóa bỏ Nhà nước CPC; phía ta một mực đòi phải loại trừ vĩnh viễn
bọn diệt chủng; phía bên kia lên án VN xâm lược CPC, đưa người VN định
cư đến xâm chiếm CPC (colons vietnamiens), đòi giải tán nhà nước và quân
đội CPC và Hội nghị không đi đến kết quả nào. Hội nghị quốc tế Paris
kéo dài từ 30/7 đến 31/8/1989 nhưng không thành công là do nhiều nguyên
nhân. TQ và 3 phái CPC chỉ muốn giải quyết vấn đề CPC trên cơ sở xoá bỏ
Nhà nước CPC, mặt khác TQ còn hy vọng làm thay đổi tình hình sau khi VN
rút hết quân tháng 9/1989. Về phía Nhà nước CPC, sau chuyến đi Thái Lan
ngày 25/1/1989 của Hun Sen theo lời mời của Thủ tướng Chatichai và tiếp
xúc với nhóm Chaovalít từ tháng 6/1988, CPC có phần ảo tưởng ở Thái Lan
và đánh giá không đúng lực lượng của bản thân mình nên Hội nghị Trung
ương lần thứ 9 từ 30/6 đến 5/7/1989 ngay trước Hội nghị quốc tế Paris
tháng 7/1989 quyết tâm ăn cả bằng một giải pháp quân sự, Nghị quyết nói:
“Đối với giải pháp chính trị cho vấn đề CPC, mọi cố gắng của ta đều đặt
trong phạm vi không có giải pháp“. Ngày 12/7/1989, đ/c Trần Quang Cơ
sang CPC thông báo gợi ý của ta về đấu tranh tới (vòng 5 Hun
Sen-Sihanouk; Hội nghị quốc tế Paris), Hun Sen phát biểu trong cuộc họp
BCT nghe đ/c Cơ trình bày: “Nghị quyết 9 đã hạ quyết tâm không có giải
pháp chính trị nhưng bên ngoài vẫn phải tỏ thiện chí phấn đấu cho một
giải pháp về mặt quốc tế. Không ngại nội chiến. Sẽ không nhắc lại việc
mở rộng chính phủ mời Sihanouk trở về mà chỉ nêu phương án lập HĐ Hòa
hợp Dân tộc và đề nghi lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp chuẩn bị cho Quốc
hội tương lai để giữ cầu với Sihanouk trong cuộc gặp tới với Sihanouk“.
Lúc này tình hình Đông Âu cũng bắt đầu diễn biến phức tạp mở đầu bằng
việc Công đoàn Đoàn kết lên cầm quyền ở Ba Lan, đã làm tăng thêm lực cản
của phía ta về việc đi vào giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. Ngày
10/8/1989, Hun Sen (ở Phnom Penh) lại điện cho Anh Thạch ở Paris là: Vấn
đề mở rộng chính phủ cho Sihanouk trở về là vấn đề sách lược đấu tranh
để phân hoá kẻ thù. Nếu Sihanouk chấp nhận thảo luận, chúng ta sẽ đưa ra
những đòi hỏi cao hơn nữa, trước hết là xoá Pol Pot và thậm chí đi đến
đòi xoá lực lượng Sihanouk và nếu cần thiết sẽ đưa ra những đòi hỏi khác
để ngăn chặn vai trò của Sihanouk hoặc ngăn không cho Sihanouk trở về.
Về
phía VN, mặc dù có Nghị quyết 13 BCT nhưng khi thực hiện có nhiều trục
trặc, ý kiến khác nhau và chúng ta cũng còn ý muốn ăn cả ở CPC như Nghị
quyết 13 nói: một giải pháp chính trị về CPC “phải bảo đảm thành quả
cách mạng CPC”. Trong đàm phán về giải pháp CPC lúc này, chúng ta giữ 3
nguyên tắc: bảo vệ thành quả cách mạng CPC, kiên quyết loại diệt chủng
Pol Pot; không chấp nhận lực lượng gìn giữ hòa bình IPKF. Chúng ta chủ
trương mềm dẻo trên 3 điểm: thành phần Chính phủ liên hiệp; giữ nguyên
trạng; chấp nhận Uỷ ban quốc tế về kiểm soát giám sát. Mặt khác, trong
lúc này chúng ta đánh giá quá cao thành tựu đạt được mỗi khi có những
tiến triển nhất định về đàm phán, cụ thể như:
- Gặp gỡ đ/c Nguyện
Cơ Thạch và Ngoại trưởng Indonesia ở thành phố HCM 29/7/1987 thoả thuận
về “tiệc rượu”. Tại JIM-1 (7/1988), ta đạt được ghi vào Tuyên bố của
Chủ tịch là không để diệt chủng trở lại. Chúng ta nhận định với việc rút
5 vạn quân tháng 5/1988, cuộc đấu tranh về CPC “đã thay đổi tính chất
từ chỗ đòi VN rút quân sang đòi ngăn chặn nguy cơ diệt chủng trở lại
CPC“… “đã đưa đến sự tập hợp lực lượng mới có lợi cho 3 nước“. Đề án đấu
tranh từ tháng 9/1988 đến cuối năm 1988 nhận định “có 4 khả năng giải
quyết vấn đề CPC: a) Một giải pháp toàn diện bao gồm mặt nội bộ và quốc
tế; b) Một giải pháp bao gồm toàn bộ mặt quốc tế và chỉ một phần mặt nội
bộ; c) Một giải pháp về mặt quốc tế, mặt nội bộ giải quyết sau; d) VN
rút hết quân đơn phương vào năm 1990 và không có giải pháp chính trị.
Khả năng nào cũng có mặt lợi, mặt phức tạp. Tuỳ tình hình sẽ tính.”…
“Mục tiêu chính của ta là: vấn đề mấu chốt là tăng cường lực lượng cách
mạng CPC… làm tan rã trên thực tế liên hiệp 3 phái, cô lập làm suy yếu
lực lượng Khmer Đỏ” Ngày 16/10/1988, Đại sứ Nguyễn Xuân trao đổi với đ/c
Kaysone Phomvihan về đề án này thì đ/c Kaysone nói: “Điều quyết định là
lực lượng cách mạng CPC. Nếu VN rút quân mà CPC đứng vững được thì
không cần giải pháp chính trị”.
Lúc này có nhân tố mới là
Chatichai lên cầm quyền ở Thái, chủ trương biến Đông Dương từ chiến
trường thành thị trường; ngày 28/10/1988, Lào thu xếp để Hun Sen bí mật
gặp Tướng Chaovalít ở Vientiane (và Chaovalít cũng gặp đ/c Trần Văn
Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), Hun Sen-Chaovalít thoả thuận cơ chế
giữ liên lạc 2 bên; tháng 1/1989, Chatichai mời Hun Sen thăm chính thức
Thái; VN rút 5 vạn quân nhưng tình hình CPC không thay đổi lớn. Tình
hình đó củng cố thêm ý định VN rút quân, không có giải pháp mà CPC vẫn
đứng vững.
Ngày 11/2/1989, BCT họp cho ý kiến về đề án đấu tranh ngoại giao trong
thời gian tới. Đề án nhận định “hiện nay mặt quốc tế của vấn đề CPC cơ
bản đã được giải quyết đồng thời có nhiều thuận lợi gắn việc giải quyết
vấn đề CPC với việc lập khu vực hòa bình, tự do, trung lập ở Đông-nam
Á“, nhận định về 4 khả năng giải quyết vấn đề CPC (như đề án tháng
l0/1988). Khi xin ý kiến, đ/c Phạm Văn Đồng phát biểu với đ/c Nguyễn Dy
Niên ngày 10/2/1989 như sau: “Cần tính khả năng rút quân 9/1989. Trong
tình hình này phải tính nói chuyện với TQ. Đàm phán VN-TQ lúc này là
quan trọng. Ta đừng để nó mất thể diện. Xem có thể đi nhanh về bình
thường hóa quan hệ. Ta hiểu TQ, biết họ là bành trướng, biết âm mưu ý đồ
của họ. Đã biết thì không ngại“. Tuy nhiên ngày 16/2/1989, đ/c Nguyễn
Cơ Thạch sang CPC họp 3 Bộ trưởng ngoại giao chuẩn bị cho JIM- 2, đ/c
Thạch đã báo cáo với BCT CPC về chiến lược đấu tranh cho thời gian tới.
Đ/c Thạch trình bày:
“Tháng 7/1988, chúng ta đánh giá rằng có 4
khả năng, đồng thời nhất trí cho rằng khả năng thứ tư, không có giải
pháp, là không có lợi cho chúng ta. Lúc đó cũng thấy rằng tốt nhất là
giải quyết mặt quốc tế, còn mặt nội bộ thì giữ nguyên.
Bây giờ
chúng tôi cũng nghĩ rằng tốt nhất là giải pháp bộ phận, nhưng so với
tháng 7/1988 thì bây giờ tình hình có khác. Bây giờ không có giải pháp
không phải là xấu. Vì trước kia Thái Lan là đất thánh, nay Thái Lan khác
rồi, TQ cũng khác nên nếu không có giải pháp chúng ta vẫn sẽ rút quân
mà không sợ. Không có giải pháp thì mình ăn cả. Cho nên bây giờ chúng
tôi cho rằng giải pháp bộ phận là tốt, nhưng không có giải pháp cũng
không phải là xấu… Sau khi VN rút hết quân mà không có giải pháp chính
trị thì Sihanouk và Son San có thể phải xin về tham gia CHND CPC, chứ
không phải đòi xóa CHND CPC nữa. Có thể các đ/c nên tính sau khi VN rút
hết quân thì Quốc hội CHND CPC nên ra tuyên bố về nền trung lập vĩnh
viễn của CPC“… “Hiện nay chúng ta đang chuyển sang giai đoạn đấu tranh
mới. Chúng ta phải tranh thủ những nhân tố, đồng thời phải củng cố lực
lượng” … “Chúng ta đều hết sức phấn khởi trước những thắng lợi của cách
mạng CPC. Một năm trước đây chúng ta không nghĩ được rằng tình hình sẽ
thuận lợi như thế này“.
Ngày 30/4/1989, Quốc hội CPC ra tuyên bố
về nền trung lập vĩnh viễn của CPC và đổi tên từ CHND CPC thành Nhà nước
CPC (Etat du Cambodge và State of Cambodia) theo yêu cầu của Sihanouk.
Ngày 2/5/1989, tiến hành vòng 3 Hun Sen- Sihanouk tại Jakarta
(Indonesia) đạt kết quả, Sihanouk hứa sẽ trở về CPC sau khi VN rút quân,
thôi đòi giải tán CHND CPC.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung
ương 9 Đảng CPC ra nghị quyết ăn cả bằng giải pháp quân sự (5/7/1989) và
Hội nghị quốc tế Paris về CPC tháng 7/1989 thất bại.
- Sau
thất bại ở Hội nghị quốc tế Paris, để tìm một giải pháp toàn bộ, những
cố gắng để đạt giải pháp từng bước (sáng kiến của Chatichai về kiểm
chứng rút quân VN (9/1989), nhân chuyến thăm Thái Lan lần thứ 2 của Hun
Sen, tuyên bố của Ngoại trưởng Xô-Mỹ ngày 23/9/1989 về moratorium đình
hoãn việc cung cấp viện trợ cho các bên CPC…) đều không đạt kết quả.
Cuộc đọ sức trên chiến trường CPC cho thấy không bên nào ở CPC có thể
giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự. 4 ngày sau khi VN rút quân, lực
lượng Son San đã đánh chiếm Thmar Pouk; ngày 22/1 0/1989, Khmer Đỏ đánh
chiếm Pailin và uy hiếp thị xã Battambang, ta đã phải đưa lực lượng đặc
biệt lên giúp bạn.
Cũng từ thời gian này, nội bộ ta lại bộc lộ ra
những khác biệt về nhận định đánh giá tình hình trước những chuyển biến
nhanh chóng ở Đông Âu. Nghị quyết 13 chủ trương thúc đẩy giải pháp
chính trị cho vấn đề CPC và bình thường hóa quan hệ với TQ được Nghị
quyết Trung ương 6 khẳng định lại. Nhưng trong quá trình thực hiện đã
gặp không ít khó khăn, đặc biệt là trong thái độ xử lý quan hệ với TQ.
Sau sự kiện Trường Sa (14/3/1988) và việc TQ tiếp tục gây căng thẳng
trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị cải thiện quan hệ của ta, giữa
các ngành đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, và không khí chung là
không thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ với TQ theo Nghị quyết
13 của BCT. Một số ý kiến cho rằng, trong khi TQ đang chống ta thông qua
vấn đề CPC và tìm cách lấn chiếm biên giới 2 quần đảo của ta, việc ta
rút quân khỏi CPC, sứa Điều lệ Đảng, sửa Hiến pháp… là sự hy sinh chủ
quyền lãnh thổ của đất nước, chủ trương của BCT về giảm tuyên truyền
chống đối nhau cũng không được thực hiện đầy đủ; thậm chí còn có ý kiến
cho rằng ngoại giao hữu khuynh trong quan hệ với TQ.
Mặt khác,
trong Trung ương, một số ngành và ngay trong BCT cũng đã bắt đầu xuất
hiện một số ý kiến khác nhau về đánh giá sự kiện Thiên An Môn (6/1989),
đánh giá TQ cũng như đánh giá Liên Xô-Đông Âu. Tại Hội nghị Trung ương
7, ý kiến rất khác nhau về thái độ của ta khi Công đoàn Đoàn kết lên cầm
quyền ở Ba Lan (7/1989), báo Nhân dân có xã luận về sự kiện này. Trong
hội nghị Trung ương 8 (27/3/1990), một số ý kiến đặt vấn đề về sự đúng
đắn của Nghị quyết 13 và những bước đi của ta với TQ và trong vấn đề
CPC. Tuy nhiên, sự khác nhau chưa bộc lộ rõ nét. Trung ương và BCT vẫn
khẳng định Nghị quyết 13 là đúng đắn, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh đã phát
biểu về vấn đề này tại Hội nghị Trung ương 8 (26/3/1990) khi tiếp thu ý
kiến phê bình của Trung ương đối với BCT.
Đến đầu năm 1990, những
ý kiến khác nhau trong BCT từ giữa năm 1989 bộc lộ rõ nét hơn. Có ý
kiến nhấn mạnh mặt XHCN của TQ và thấy cần phải hợp tác với TQ để bảo vệ
XHCN chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác, nhất là từ sau sự kiện Thiên
An Môn, sau khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô, Ba Lan, Đức, Rumani và
các nước Đông Âu khác. Từ những cách đánh giá đó đã dẫn đến ý kiến khác
nhau về phương hướng đấu tranh cho một giải pháp chính trị về CPC. Sự
thật là:
Ngày 11/11/1989, BCT họp bàn và thông qua đề án đấu
tranh ngoại giao về vấn đề CPC. Trên cơ sở đánh giá tình hình quân sự,
chính trị trên chiến trường và xu thế chung trên thế giới, ta chủ trương
cần phấn đấu đạt một giải pháp chính trị về CPC, đề ra 3 phương án về
Cơ quan quyền lực ở CPC trước tổng tuyển cử (thấp nhất là giữ nguyên bộ
máy 2 chính phủ đang tồn tại, lập Chính phủ liên hiệp hai bên ở Trung
ương để tổ chức tổng tuyển cử và thực hiện những điều thoả thuận).
Ngày
24/11/1989, Ngoại trưởng Australia Gareth Evans đưa ra sáng kiến dùng
công thức Namibia để trống vấn đề quyền lực ở CPC trong thời kỳ quá độ,
Liên hợp quốc kiểm soát và tổ chức tổng tuyên cử.
Ngày 2/12/1989,
đ/c Nguyễn Cơ Thạch, theo chỉ thị của BCT, đã sang bàn với BCT CPC,
phân tích cuộc chiến tranh ở CPC là một cuộc nội chiến, VN không thể đưa
quân trở lại, tính chất quốc tế của vấn đề CPC, xu thế của thế giới và
bàn với bạn cần đấu tranh để đạt một giải pháp chính trị để giành thắng
lợi từng bước. BCT CPC hoàn toàn nhất trí với 3 phương án trên, đồng
thời đồng ý với ý kiến đ/c Thạch cần nghiên cứu việc sử dụng vai trò
Liên hợp quốc như sáng kiến của Ngoại trưởng Australia G. Evans ngày
24/11/1989. Phải nói thêm rằng đ/c Thạch khi trên máy bay sang Phnom
Penh mới đọc thư của Evans về sáng kiến 24/11/1989 và đến nơi, đ/c Thạch
sửa lại bản trình bày tinh thần như BCT cho ý kiến 11/11/1989 nhưng
thêm phương án sử dụng vai trò Liên hợp quốc. Về phía những người CPC,
khi thấy có phương án Liên hợp quốc thì họ bập ngay cho là Liên hợp quốc
ít phức tạp và nguy hiểm hơn là liên minh với lực lượng CPC đối lập.
Đ/c Thạch nói phương án Liên hợp quốc cần xin thêm ý kiến BCT VN.
Hội nghị BCT ta họp 14h30′ ngày 6/12/1989 có mặt Cố vấn Phạm Văn Đồng và
7 Uỷ viên BCT: Võ Chí Công, Đỗ Mười, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách,
Đổng Sĩ Nguyên, Nguyễn Cơ Thạch và Đào Duy Tùng (lúc này đ/c Nguyễn Văn
Linh đang nghỉ ốm do bị cảm lạnh khi đi dự Quốc khánh ở CHDC Đức tháng
l0/1989) đã bàn về sáng kiến của Australia và nhất trí ngoài 3 phương án
BCT cho ý kiến ngày 11/11/1989, thêm phương án sử dụng vai trò Liên hợp
quốc thành 4 phương án. Ngày 9/12/1989, đ/c Lê Mai vừa kết thúc nhiệm
kỳ Đại sứ ở Thái Lan về được uỷ nhiệm sang Phnom Penh trao đổi với BCT
CPC và BCT CPC hoàn toàn đồng ý với ý kiến BCT ta. BCT CPC đã triệu tập
kỳ họp Trung ương lần thứ 10 từ ngày 10-15/1/1990 để bàn đi vào giải
pháp chính trị và ngày 18/1/1990, Quốc hội CPC đã họp thông qua việc để
Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và uỷ quyền cho Hun Sen đàm phán về
vấn đề này.
- Với TQ: Bằng nghị quyết 13 BCT, với những động
tác quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ Việt-Trung (sửa lời
nói đầu của Điều lệ Đảng (12/1986), sửa Hiến pháp (6/12/1988) không còn
coi TQ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, giảm tuyên truyền chống TQ, mở
cửa biên giới, VN đơn phương rồi cả 2 bên chấm dứt hoạt động quân sự
trên biên giới, tuyên bố nới lỏng trong việc sử dụng cảng Cam Ranh… trên
thực tế ta đã đơn phương giải quyết hết những điều mà TQ cho ta là dùng
để chống TQ. Có thể nói đến tháng 12/1988, TQ không còn lý do gì để nói
VN có những chính sách và hành động chống TQ, một trong hai vấn đề TQ
coi là VN chống TQ từ 10 năm qua không tồn tại nữa. Tồn tại là vấn đề
CPC. Việc VN tuyên bố rút 5 vạn quân bằng 1/2 số quân còn lại ở CPC và
rút Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC (tháng 5/1988) đã làm tác động
mạnh mẽ xu hướng thúc đẩy một giải pháp cho vấn đề CPC, các nước lớn do
lợi ích của mình không muốn VN rút quân mà không có giải pháp, duy trì
nguyên trạng ở CPC, chính vì vậy phương Tây có thái độ mềm dẻo hơn, đáp
ứng phần nào yêu cầu của phía ta trên vấn đề diệt chủng. Tuyên bố của
Ngoại trưởng Mỹ ở Hội nghị PMC ASEAN 9/7/1988 ở Bangkok đã đưa đến kết
quả cuộc gặp không chính thức về CPC ở Jakarta 25/7/1988 (JIM-1) khẳng
định có 2 vấn đề trong giải pháp cho vấn đề CPC là rút quân VN đi đôi
với việc ngăn chặn việc phục hồi chế độ diệt chủng Pol Pot.
Chuyển
biến của thế giới đối với vấn đề CPC, sự thay đổi trong quan hệ Xô-Mỹ
trong quan hệ quốc tế và trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế đã đưa
đến việc TQ điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình thể hiện ở Hội
nghị BCT ở Bắc Đới Hà tháng 9/1988. Với VN, TQ đã từng bước hoà dịu
trong quan hệ trên thực tế (giảm căng thẳng trên biên giới, trao đổi
hàng hoá và đi lại thăm hỏi, làm ăn ở biên giới theo đề nghị của lãnh
đạo ta qua tiếp xúc giữa Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ TQ ngày
15/7/1988) và chấp nhận đi vào đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao với ta
để trao đổi về vấn đề CPC và quan hệ hai nước. Tuy nhiên TQ vẫn coi vấn
đề CPC là điều kiện tiên quyết để cải thiện quan hệ Việt-Trung. Một mặt
TQ duy trì “3 trở ngại” để mặc cả trong cải thiện quan hệ với Liên Xô
mặt khác TQ đặt thêm điều kiện về vấn đề CPC trong cải thiện quan hệ với
VN. Cần nhắc lại rằng tháng 10/1982 trong đàm phán Xô- Trung và trong
tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại giao TQ ngày 1/3/1983, TQ chỉ đặt điều
kiện VN rút quân, thậm chí chỉ cần có lịch rút quân rõ ràng thì TQ sẽ
tiến hành đàm phán để đi đến bình thường hóa quan hệ Việt- Trung. Từ
6/1988 khi VN rút 1/2 số quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC,
đặc biệt sau tuyên bố 5/4/1989 của VN, CPC đơn phương rút quân tình
nguyện VN về nước vào tháng 9/1989, TQ lại đặt thêm điều kiện là VN
“phải giải quyết hậu quả của VN đưa quân xâm lược CPC” không phải VN rút
hết quân là xong trách nhiệm, đòi VN phải lập Chính phủ liên hiệp lâm
thời 4 bên do Sihanouk làm Chủ tịch và phải chấp nhận bộ máy giám sát
của Liên Hợp quốc (trong khi Liên hợp quốc ủng hộ Khmer Đỏ giữ ghế ở
Liên Hợp quốc và ra nhiều nghị quyết bất lợi cho VN) kiểm chứng VN rút
“hết mọi loại lực lượng VN” ở CPC làm điều kiện để nối lại đàm phán đề
bình thường hóa quan hệ với VN. Trong khi đàm phán TQ một mực đòi VN
phải giải quyết vấn đề nội bộ CPC “hậu quả của VN xâm lược CPC” thì TQ
mới bàn việc cải thiện quan hệ 2 nước. (Tuyên bố của Bộ Ngoại giao TQ
ngày 1/7/1988 sau khi VN rút 5 vạn quân). Trong khi đó, cách xử sự của
TQ với Liên Xô thì khác hơn. Tháng 5/1989, trong khi “3 trở ngại” trong
quan hệ Trung-Xô chưa được giải quyết TQ vẫn đón TBT Gorbachov thăm
chính thức TQ, cải thiện quan hệ cả về mặt Đảng và Nhà nước với Liên Xô.
Tháng 10/1989, khi TBT Lào Kaysone Phomvihan thăm TQ, Đặng Tiểu Bình
chuyển message oral cho TBT Nguyễn Văn Linh chỉ nêu yêu cầu VN rút quân
nhưng ngày 6/11/1989 khi TBT Nguyễn Văn Linh gửi message oral bày tỏ
mong muốn bình thường hóa quan hệ với TQ, đề nghị tiếp xúc cấp cao với
TQ thì ngày 12/12/1989 trả lời message oral đó TQ lại đặt thêm điều kiện
VN ép Phnom Penh lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk
đứng đầu và chấp nhận Liên Hợp quốc giám sát thi hành Hiệp định thì TQ
mới “suy xét” việc đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao với VN.
Nguồn: Vnmilitaryhistory