Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Di chỉ Khảo cổ học Lung Leng

Di chỉ Lung leng thuộc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, rộng trên 15.000km2, ở cao trình 503 – 509 m, thuộc vùng bán ngập của lòng hồ thuỷ điện Ya Ly. Di chỉ đã được khai quật 2 lần: lần I ( tháng 9 /1999) với diện tích 106 m2 và lần II (tháng 6 - 8/ 2001) với toàn bộ diện tích còn lại. Để thực hiện cuộc khai quật có quy mô to lớn này, Viện Khảo cổ học và Sở VHTT Kon Tum đã huy động trên 40 cán bộ chuyên môn, trên 600 nhân công tham gia. Đây là một trong những di chỉ khảo cổ có diện tích khai quật lớn nhất ở nước ta.
Tầng văn hóa có 2 mức: mức trên dầy trung bình 0,7- 0,8m, cấu tạo từ phù sa sông. Đây là lớp văn hóa chứa vết tích cư dân giai đoạn hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí niên đại Toàn tân (Holocene) chứa rìu, bôn mài toàn thân, bàn mài, hòn ghè, hòn nghiền, đồ gốm.... Mức dưới ở độ sâu 1,2m - 1,4 m trở xuống, đất khá cứng mầu vàng loang lổ, xen lẫn hạt sạn kết vón mầu đen do bị Lateríthóa. Trong lớp này phát hiện những viên cuội có dấu vết ghè đẽo, mang đặc trưng văn hóa giai đoạn hậu kỳ đá cũ, niên đại Cánh tân (Pleistocene).
Qua khai quật phát hiện hàng trăm mộ táng là các mộ chum, mộ nồi vò, mộ đất kè đá, kè gốm; dấu vết các bếp lò, các lò nung, bếp lửa. Có 18 lò nung, đây là những lò luyện sắt, luyện đồng bởi trong di tích đã tìm thấy xỉ sắt, quặng sắt, khuôn đúc rìu đồng.

Mộ chum – vò có khá nhiều trong di chỉ, đó là mộ được chôn trong chum hay vò có kích thước lớn, thân hình cầu hoặc nửa quả trứng, đường kính miệng khá lớn. Trong chum hoặc vò mộ chôn theo đồ gốm, bôn hình răng trâu, đôi khi có đồ trang sức, hoặc những cục đá màu, có mộ đã tìm thấy xương người. Phần lớn chum mộ được trang trí hoa văn khắc vạch, văn in hình răng sói ở mặt ngoài chum và mặt trong phần miệng với các mô típ khác nhau, một số tô thổ hoàng bên trong. Mộ nồi vò úp nhau được chôn đứng (vò ở dưới, nồi úp lên trên) hoặc chôn nằm ngang. Kích thước nồi vò thường nhỏ hơn mộ chum. Đồ tùy táng là rìu, bôn và thường đặt ở trong hoặc ngoài nồi vò.
Hiện vật thu được ở Lung Leng gồm đồ đá, đồ gốm và kim loại. Đồ đá có trên 14.500 tiêu bản. Có cả đá cũ và đá mới.
Nhóm công cụ ghè đẽo ( đá cũ) không nhiều, chủ yếu phát hiện ở lớp laterite. Có một số ít là công cụ mũi nhọn, công cụ chặt rìu lưỡi dọc, công cụ nạo hình múi bưởi, hình phần tư viên cuội, kiểu rìu ngắn và hình bầu dục. Công cụ mài lưỡi ít nhất, chủ yếu tìm thấy ở lớp sâu nhất của lớp văn hóa I  hoặc trên bề mặt lớp laterite. Chúng có vết ghè nhỏ tạo công cụ gần hình rìu, vết mài ở rìa lưỡi.
Công cụ mài toàn thân có số lượng lớn ở Lung Leng, gồm các loại: cuốc, bôn hình răng trâu, rìu bôn có vai, rìu bôn tứ giác và dao đá. Trong đó, bôn hình răng trâu chiếm tuyệt đối, rìu bôn có vai chiếm tỷ lệ cao hơn so với loại không có vai.
Cuốc ở Lung Leng có thân gần chữ nhật, bản cuốc mỏng, thân hơi cong, vai gần vuông, chuôi nhỏ và ngắn, làm từ đá lửa hoặc phtanit. Loại cuốc hình răng trâu, bản cuốc dày, thân cong, vai xuôi, chuôi lớn và dài, được làm từ đá phtanit. Cả hai loại đã tìm thấy trong mộ chum và thường khá nguyên vẹn. Rìu có vai phong phú về loại hình: vai xuôi, vai vuông và vai nhọn, làm từ đá lửa hoặc badan. Rìu thường có mặt cắt ngang là hình chữ nhật hoặc thấu kính. Phần lớn có vết ghè lại lưỡi. Bôn hình răng trâu có số lượng nhiều nhất. Công cụ mũi nhọn, thân hình tam giác có một đầu nhọn và phần đốc như đốc bôn, chúng là sản phẩm ghè lại lưỡi bôn hình răng trâu mà vết ghè tập trung ở 2 rìa cạnh.
Bàn mài, hòn ghè, hòn nghiền, cưa, mũi khoan, cuội hình bánh xe có số lượng lớn. Bàn mài có nhiều loại vết mài khác nhau, chủ yếu là bàn mài từ đá macma vết mài trên 1 hoặc 2 mặt phẳng. Hòn ghè làm từ cuội, có kích thước lớn, trên thân còn vết mẻ do va đập khi sử dụng ở một hoặc hai đầu. Hòn nghiền có số lượng lớn, làm từ viên cuội nhỏ, vết nghiền nhẵn ở một hoặc hai đầu. Cuội hình bánh xe làm từ những viên cuội tròn dẹt, đục lỗ thủng ở giữa. Công cụ bàn nghiền và chày nghiền làm từ cuội. Đồ trang sức bằng đá có hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai. Mỗi loại lại có nhiều kiểu khác nhau. Một số được làm từ đá nesphrit, mã não hạt cứng, mịn, vân đẹp. Ngoài ra còn có rất nhiều mảnh tước, phiến tước có dấu tu chỉnh nhỏ.
Đồ gốm có một số gốm nguyên và khoảng một triệu mảnh gốm vỡ. Gồm có nồi, bình, vò, bát bồng, ấm, cốc, nắp đồ đựng, cây đèn, dọi xe sợi, bi gốm, mảnh gốm ghè tròn… Một số bình và bát bồng trang trí hoa văn khá đẹp. Về cơ bản đồ gốm ở đây là loại gốm thô dày, làm từ đất sét pha cát hạt thô, miệng hơi loe hoặc thẳng đứng, mép miệng bè ra, trên mép miệng đôi khi có rãnh. Thân cong dạng nồi hoặc gần thẳng dạng vại, đáy liền. Trên phần miệng trang trí văn in ấn hình răng sói, đôi khi kết hợp khắc vạch.
* Lung Leng là di chỉ khảo cổ nằm ở vị trí hết sức thuận lợi cho việc cư trú lâu dài của cư dân thời tiền sử. Đây không chỉ là di tích cư trú mà còn là nơi chế tác, gia công đồ đá, nơi sản xuất đồ gốm, nơi luyện kim loại và là một di chỉ mộ táng lớn. Vết tích chế tác công cụ và đồ trang sức tại nơi cư trú khá rõ, thể hiện ở số lượng lớn mảnh tước tách ra từ việc đẽo lại lưỡi rìu bôn, cùng hòn ghè, bàn mài, lõi vòng khoan dở... chứng tỏ đó là nơi chế tạo lại công cụ lao động bằng đá. Ở đây có nhiều loại hình mộ, các mộ có vị trí khác nhau, hình thức mai táng khác nhau phản ánh niên đại và thân phận chủ nhân không giống nhau.
- Lung leng là di chỉ có quy mô to lớn, có tầng văn hoá dày, có số lượng di vật phong phú, phản ánh các giai đoạn cơ bản của lịch sử: Từ thời đại đá cũ đến thời đại đá mới, qua thời đại kim khí, thậm chí cả vết tích khảo cổ học thời quân chủ. Sớm nhất là lớp cư dân hậu kỳ đá cũ, vết tích văn hoá của họ tìm thấy trong lớp đất bị  Laterite hoá. Họ chế tác và sử dụng công cụ cuội ghè đẽo, sống trong giai đoạn cuối cánh tân. Hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắt, hái lượm, chưa biết đến nông nghịêp, chưa biết kỹ thuật mài và chưa biết làm gốm. Tiếp đến là lớp cư dân hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí, những người chế tác và sử dụng rìu bôn mài toàn thân, sống định cư ngoài trời thành buôn bản, làm nông, săn bắt, hai lượm, đánh cá, chế tác đồ gốm và đã biết luyện kim loại màu.

BTKT
 Hình ảnh khai quật và một số sưu tập hiện vật Lung Leng trưng bày tại Bảo tàng tỉnh.  

Toàn cảnh công trường khai quật di chỉ khảo cổ học Lung Leng năm 2001.    
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng (người chống gậy): “ Đây là cuộc khai quật khảo cổ lớn
nhất trong lịch sử nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “ ( đến năm 2001) 

    Hộp hình: Cảnh sinh hoạt của người tiền sử Lung Leng    
Địa tầng và mộ chum tại di chỉ Lung Leng  
Công cụ đá cũ( Công cụ ghè đẽo)    
Dọi xe sợi và mảnh gốm ghè tròn    
Công cụ mũi nhọn      
Công cụ mài toàn thân, công cụ mũi nhọn và mảnh tước.  



 
Sưu tập đồ trang sức  
Nguồn: Baotangkontum


Lung linh Lung Leng ...

Những cổ vật độc đáo của di chỉ Lung Leng là nét son chấm vào vùng trắng khảo cổ học khu vực phía Nam.
Số lượng: khổng lồ; Chất lượng: độc đáo
Tây Nguyên lâu nay vẫn được xem là vùng đất bí ẩn. Đối với giới khảo cổ học, đây là một khu vực còn rất nhiều điều cần khám phá. Nhưng những đánh giá về Tây Nguyên đã bắt đầu thay đổi từ khi di chỉ khảo cổ học Lung Leng được khai quật.
Lung linh Lung Leng ...
Toàn cảnh di chỉ khảo cổ Lung Leng bên dòng sông Pô Cô
Nằm ở hữu ngạn sông Pô Cô trong vùng bán ngập của lòng hồ thủy điện Yaly, thuộc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy, Kon Tum, Lung Leng vốn là một bãi khai thác vàng sa khoáng bị dân đào vàng đào bới nham nhở. Phần diện tích còn lại rộng 11.500m2 được khai quật hai lần vào năm 1999 và 2001 và trở thành một trong những cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất nước.
Đặc biệt trong cuộc khai quật lần hai, các nhà khoa học đã phát hiện và xử lý 20 di tích là các bếp lò, lò nung; 120 mộ táng gồm mộ chum, mộ nồi vò úp nhau, mộ kè gốm v.v.. Hiện vật thu được cho tới nay tại di chỉ này lên đến 14.552 món, trong đó có công cụ sản xuất bằng đá, đồ trang sức, các loại vật dụng sinh hoạt bằng gốm, kim loại v.v..
Lung linh Lung Leng ...
Mộ vò cách đây 2.500 năm
Một phần hiện vật điển hình trong số lượng hiện vật khổng lồ của Lung Leng đã được đưa về TP.HCM trưng bày, kéo dài đến tháng 11 năm nay. Trong đó có những món độc như chiếc khuyên tai bằng đá trắng vân nâu, đường kính đến 50cm, không dùng để đeo mà là một dạng biểu tượng quyền lực của thủ lĩnh. Hiện vật này chưa từng được tìm thấy ở bất kỳ di chỉ khảo cổ nào trên thế giới.
Bộ sưu tập công cụ đồ đá mới như rìu mài lưỡi của văn hóa Lung Leng mang đặc điểm chung của rìu mài lưỡi Hòa Bình - Bắc Sơn, còn bôn và cuốc răng trâu là công cụ chủ lực của nền nông nghiệp nương rẫy ở Bắc Tây Nguyên. Trong khi đó những công cụ ghè đẽo đặc trưng cho văn hóa Sơn Vi, niên đại hậu kỳ đồ đá cũ thì lần đầu tiên được tìm thấy ở Tây Nguyên.
Lung linh Lung Leng ...
Rìu đá
Lung linh Lung Leng ...
Bàn mài cách nay 3.000 - 5.000 năm
Lung linh Lung Leng ...
Khuyên tai đường kính 50cm
Lung linh Lung Leng ...
Các loại rìu
Lung linh Lung Leng ...
Bát đồng
Lung linh Lung Leng ...
Công cụ mũi nhọn
Gốm Lung Leng chủ yếu là loại gốm thô, dày làm từ đất sét pha cát. Tuy nhiên chúng được chế tác với kỹ thuật cao bằng bàn xoay và nặn tay khá tinh xảo, trang trí hoa văn hình răng sói, thỉnh thoảng kết hợp với các đường cong song song. Một số vật dụng gốm khác được tô màu thổ hoàng hoặc đen ánh chì.
Đặc biệt, bộ sưu tập đồ trang sức có nhiều hiện vật bằng thạch anh, loại chất liệu được người Tây Nguyên xem là thiêng liêng. Các nhà chuyên môn cũng cho rằng do người Tây Nguyên thích dùng đồ trang sức bằng các loại vật liệu dễ hư hỏng theo thời gian, nên hiện vật trang sức còn lại của họ phần lớn làm bằng đá.
Điểm son giữa vùng trắng khảo cổ học phía Nam
Việt Nam đã được công nhận là một trong những địa điểm có con người sinh sống sớm nhất trên trái đất, nhờ phát hiện xương răng người vượn có niên đại cách nay hơn 500.000 năm tại hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai tỉnh Lạng Sơn.
Lung linh Lung Leng ...
Thạch anh
Nhưng điều đó cũng không khẳng định được rằng người cổ có sinh sống liên tục, truyền đời từ đó đến những thời kỳ kế tiếp trên lãnh thổ Việt Nam hay không. Bản đồ khảo cổ học thời tiền sử, đặc biệt là giai đoạn đồ đá cũ ở Việt Nam vẫn bị bỏ trắng vùng phía Nam.
Việc phát hiện di chỉ khảo cổ học Lung Leng chính là nét son điểm vào một trong những vùng trắng của phía Nam thời đồ đá cũ. Lung Leng đánh dấu bước mở đầu đầy hứa hẹn của khảo cổ học các tỉnh phía Nam.
Theo TS. Phạm Hữu Công, PGĐ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP.HCM, điểm lý thú của các tầng văn hóa Lung Leng là đã phản ánh các giai đoạn phát triển cơ bản của thời tiền sử, với các hiện vật của thời đại đồng thau, sắt sớm cách nay 4.000 - 2.000 năm, ngược lên thời đại đá mới và đi xa hơn nữa là thời kỳ đá cũ các nay 18.000 đến 30.000 năm.
Lung linh Lung Leng ...
Quan tài hình chum
Lung linh Lung Leng ...
Đĩa
Lung linh Lung Leng ...
Công cụ nghiền bằng đá
Lung linh Lung Leng ...
Hiện vật đất nung, 3.500 năm
Lung linh Lung Leng ...
Răng voi hóa thạch
Lung linh Lung Leng ...
Nồi
Thực tế trên cho thấy, Lung Leng đã được người cổ Kon Tum sử dụng vào nhiều mục đích cư trú, sản xuất, chôn táng v.v. trong những khoảng thời gian rất dài. Đặc điểm này rất hiếm gặp trong các phát hiện khảo cổ thời kỳ tiền sử trên thế giới lẫn ở Việt Nam.
Với những đặc thù của mình, Lung Leng đã làm thay đổi cách nhìn nhận của giới khảo cổ học Việt Nam về Kon Tum và Tây Nguyên thời tiền sử. Lung Leng không chỉ là một cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất đầu thế kỷ XXI mà còn là phát hiện lớn, là minh chứng khoa học về sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thuở ban sơ.
Thời đồ đá chúng ta đã phát hiện văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn dài khoảng 5.000 năm, thời kim khí có văn hóa Đông Sơn dài 2.000 năm, văn hóa Chăm Pa hơn 1.000 năm, văn hóa Óc Eo - Phù Nam 800 năm và văn minh Thăng Long - Đại Việt hơn 1.000 năm. Nay lại có Lung Leng - Tây Nguyên kéo dài nhất, đến hàng vạn năm. Trong việc phục dựng thời tiền sử ở Việt Nam, Lung Leng sẽ đóng một vai trò quan trọng.
  • Bài, ảnh: V.Tiến
Việt Báo (Theo_VietNamNet)

Tìm kiếm Blog này