Lịch sử các cuộc di cư đầu tiên của người Kinh đến Kon Tum
Ngược dòng lịch sử tìm hiểu về nguồn gốc di cư của người miền Trung đến với mảnh đất này lần đầu tiên, được biết: Cuối đời vua Thiệu Trị, rồi kế đến là vua Tự Đức lên ngôi (1847) nhà Nguyễn ra sắc chỉ "Bình Tây Sát Tả" bố ráp đạo Thiên Chúa. Các nhà truyền giáo phải chạy đến Bình Định ngày nay để trốn tránh sự kiểm soát gắt gao của triều Nguyễn, việc truyền giáo trở nên khó khăn. Đứng trước tình thế đó, Đức Giám mục địa phận Qui Nhơn là Stéphan Cue'not đã cử nhiều Thừa sai tìm đường lên Cao Nguyên (lúc đó còn là rừng núi hoang sơ rậm rạp có rất nhiều thú dữ và chưa có sự kiểm soát của nhà Nguyễn nơi này) để lánh nạn và đồng thời tiếp tục truyền đạo nhưng đa số là thất bại. Mãi đến khi, việc tìm đường lên Kon Tum được giao cho Thầy Sáu Do (Nguyễn Do) thì mới đạt được ý nguyện. Tháng 4 năm 1848, thầy Nguyễn Do đã tìm ra con đường đi qua trạm Gò ở phía Bắc An Khê để tránh con đường độc đạo qua An Sơn (An Khê) luôn bị quân của triều đình nhà Ngyễn canh giữ nghiêm ngặt. Trong vai một người lái buôn, sau đó ông xin làm người giúp việc cho một người lái buôn khác để tìm cách lên Kon Tum. Năm 1850 thầy Nguyễn Do đã dẫn một phái đoàn gồm có cha Hoàng (Fontaine), cha Phêrô (P.Combe) và bảy thầy cùng một số học trò người Kinh lên Kon Tum.
Đến Kon Tum các cha đạo đã bỏ tiền ra chuộc một số người Kinh (mà phần lớn là người Quảng Nam, Quảng Ngãi) là nạn nhân của các cuộc đánh cướp nô lệ đang sống trong các làng người Xê Đăng và họ đã chiêu mộ người Kinh đang theo đạo ở đồng bằng muốn tránh sự truy nã của triều đình nhà Nguyễn lên thành lập những làng mới.
Lớp người đầu tiên này thấy nơi xứ lạ, đất đai phì nhiêu dễ bề sinh nhai nên họ đã liên lạc với người thân ở đồng bằng (Bình định, Quảng Ngãi) đưa lên lập nghiệp làm ăn, và cứ thế lần hồi người lên đông đúc lập nên một làng người Kinh đầu tiên ra đời tại Gò Mít, lấy tên là làng Trại Lý vào năm 1874, sau đổi thành làng Tân Hương, buổi đầu chỉ có 15 hộ và 100 khẩu.
Cho đến năm 1883 ở Kon Tum có 4 làng họ đạo Thiên Chúa giáo và một cộng đồng khoảng 1.500 người Kinh sống cạnh người Ba Na và Rơ Ngao phần lớn họ là người quê ở Bình Định, Quảng Ngãi.
Cuộc chuyển cư đông nhất lần hai của người Kinh lên Kon Tum có lẽ gắn liền với việc mở mang khai thác kinh tế đồn điền cà phê, cao su, lâm thổ sản của người Pháp trong những năm đầu thế kỷ XX.
Đến năm 1933, khu vực xung quanh thành phố Kon Tum ngày nay đã có 10 làng người Kinh, trong đó có 8 làng theo đạo Thiên Chúa giáo: Làng Tân Hương (1874), làng Phương Nghĩa (1882), làng Phương Quý (1887), làng Phương Hòa (1892), làng Phụng Sơn (1924), làng Ngô Thạnh (1925), làng Ngô Trang (1925), và 2 làng không theo đạo: Làng Trung Lương (1914) và làng Lương Khế (1911).
Tác giả: Tường Lam / Kontum.gov.vn
LD: NPV
xin hân hạnh giới thiệu đến Quý độc giả một bài viết rất hay của Lê
Minh Sơn, một người con gốc Kon Tum "chính hiệu" bàn về một góc lịch sử
Kon Tum với sự am hiểu sâu sắc dựa trên những tư liệu chân thực, và tất
nhiên là có cả những tình cảm day dứt...
THÀNH PHỐ KON TUM CẦN CÓ MỘT CON ĐƯỜNG MANG TÊN “NGUYỄN DO”
Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Do (1823-1872)
Tượng đặt trước nhà thờ Tân Hương, Kon Tum
Kon Tum mừng kỷ niệm 100 năm thành lập tỉnh (1913 -
2013). 100 năm, ấy là tính từ thời điểm ngày 09/02/1913, ngày Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, dưới tên gọi “Tỉnh Mọi
Kon Tum” (Province moï de Kontum)1, trên cơ sở tái lập vùng lãnh
thổ thuộc tỉnh Pleiku Der cũ, bao gồm Đại lý Kon Tum (trung tâm hành chính Kon
Tum) tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên, và Đại lý
Đăk Lăk (giảm từ cấp tỉnh xuống thành cấp Đại lý). Thực ra, trước đó từ hơn nửa
thế kỷ, từ nửa đầu thế kỷ XIX (năm 1842-1848), nhiều lớp tiền nhân đã đặt chân
lên Cao Nguyên, đã cùng với đồng bào các dân tộc bản địa lo tạo dựng, tổ chức
hình thành nên Kon Tum, trước khi người Pháp đến, họ đến chỉ là tiếp tục công
việc đã khởi đầu.
Trong tất cả các tài liệu chính thống viết về việc
hình thành Kon Tum từ trước đến nay, đều trân trọng ghi nhận một người trẻ tuổi,
can đảm, thông minh, tháo vát…đã làm gạch nối góp phần quan trọng khai mở tấm
màn kín thượng du Kon Tum nối với đồng bằng, để Kon Tum từ đấy hoà nhập với cả
nước. Con người này mang sứ mệnh truyền đạo Công giáo lên Tây Nguyên, và suốt
trọn cuộc đời đã gắn bó với Kon Tum, góp phần tạo lập nên những làng mạc, nông
trại đầu tiên trên miền đất này giúp ổn định cuộc sống cho dân chúng, và từ
những cơ sở ban đầu đó, Kon Tum dần dần phát triển để có diện mạo như ngày nay.
Người đó chính là Nguyễn Do, tức thầy sáu Do hay linh mục Nguyễn Do, Cha Do;
hay Bok Lành như người dân tộc Thượng nơi đây thường gọi – rất cụ thể theo bản
tính hiền lành của ngài.
Công việc làm, đức hạnh, những đóng góp của Cha Do đối
với Kon Tum, chúng ta có thể đọc thấy trong rất nhiều tác phẩm đã xuất bản: từ
những chứng từ của các đồng sự trong cuộc, của những người đương thời, và cả
những ghi chép, tìm hiểu đối chứng của kẻ hậu sinh bao gồm các học giả
Tây-Việt, đồng bào Kinh-Thượng, Lương-Giáo, cùng hàng trăm bài báo, bài nghiên
cứu in trong các tạp chí, báo chí từ trước đến nay…Có thể kể một số tác phẩm có
giá trị lịch sử như: Les Sauvages Bahnars (P. Dourisboure, Paris 1929; bản dịch
“Dân Làng Hồ”, Saigon 1972; TGM Kon Tum tái bản, NXB Đà Nẵng 2008), Hạnh Đức
Cha Thể (R.P.Tardieu, nhà in Lang-song, Quinhon 1907), Hlabar Tơbang (ấn bản
tiếng Bahnar, nhà in Hnam trưng Cuénot, Kon Tum - từ 1911), Mở Đạo Kontum (P.
Ban và S. Thiệt, nhà in Quinhon, 5.1933), Kontum tỉnh chí (Võ Chuẩn, Nam Phong
Tạp Chí số 191-194, 10/1933-05/1934), Mọi Kontum (Nguyễn Đổng Chi và Nguyễn
Kinh Chi, nhà in Mirador - Huế 1937), Cao Nguyên Miền Thượng (Cửu Long Giang - Toan
Ánh, Sài gòn 1974).v.v.; các bài viết trong các tạp chí trước đây như Đô Thành
Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế), Phụ nữ ngày nay…; một số sách và tạp
chí sau 1975 như Tạp chí nghiên cứu tôn giáo (Viện nghiên cứu tôn giáo).v.v.
Tựu trung các tài liệu đều khẳng định vai trò tiên
phong của Cha Do, xét trên cả 2 bình diện: truyền đạo Công giáo đến với đồng
bào Thượng, và qui tụ lớp người Kinh đầu tiên hình thành nên làng Tân Hương - làng
người Kinh đầu tiên của tỉnh Kon Tum, tiền thân thành phố Kon Tum ngày nay 2. Đánh
giá bao trùm trong các tác phẩm này là Cha Do là một con người đạo đời hài hoà,
được mọi thành phần dân chúng Kon Tum thương mến, kính phục.
Vậy Cha Do là ai? Chúng ta có thể lược lại đôi dòng
tiểu sử, tuy chưa thật đầy đủ nhưng khá chân thực, được hai tác giả Nguyễn Kinh
Chi và Nguyễn Đổng Chi (giải thưởng Hồ Chí Minh 1996) ghi lại trong tác phẩm “Mọi
Kon Tum”, xuất bản năm 1937. Theo đó, trong lớp người Kinh đầu tiên lên Kon Tum
“có cha Do là người có công lao hơn cả,
lịch sử đáng kể lại để làm gương cho người sau”.
“Nguyên xưa cha Do là con một nhà mộ đạo
Thiên Chúa ở làng Đồng Hâu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Người có tính hiền
hậu, thông minh và nhẫn nại. Thuở nhỏ được chọn đi học trường cố ở đảo Pinang,
đậu đến chức thầy năm. Sau trở về tỉnh nhà được vào sở Gò Thị giúp việc cho các
cha cố.
Vào khoảng cuối niên hiệu Thiệu Trị và đầu niên hiệu
Tự Đức ở nước ta có lệnh bắt đạo một cách dữ dội. Người giáo phải trải qua một
thời kỳ khủng bố gớm ghê. Buổi ấy vị giám mục Cuénot ở Gò Thị muốn kiếm một chỗ
ở trên dãy Trường Sơn, trước để cha cố lên giảng đạo cho người thổ trước trên
ấy, sau để giáo dân có nơi tị nạn. Nhưng thời bây giờ, ngoài con đường An Sơn,
mà đã có lính phòng triệt nghiêm nhặt, thời không có nẻo nào lên Mọi được nữa.
Vị giám mục bèn uỷ thác cho thầy Do đi kiếm một con đường khác lên Mọi để khỏi
tiết lộ mưu cơ ra.
Thầy Do chẳng
quản khó nhọc và gian nan, khi trá hình làm đầy tớ, khi tự làm nhà lái buôn,
lên Mọi xem xét tình thế và kiếm ra một lối mới ở Trạm Gổ (phía bắc An Khê)3.
Kiếm ra được
đường lối rồi, thầy Do về trình cho kẻ bề trên và dẫn các cố cùng người tuỳ
tùng lên. Thầy cũng ở lại giúp việc.
Năm 1852,
thầy Do trở về Bình Định, học thêm và thi đậu chức thầy cả. Đường đường một vị
linh mục, cha Do mới trở lên Kontum, cùng các cố Tây, đem hết tài lực ra thi
thố: nào giảng đạo, nào lập làng, nào dạy vẽ cày bừa cho người Mọi.
Cha Do ở luôn
trên Kontum hơn 20 năm. Đến năm 1872, thụ bịnh nặng, phải trở xuống đồng bằng
và qua đời ở cố hương.
Cha Do chẳng
những là một vị linh mục lỗi lạc mà lại là một tay ngoại giao khôn khéo. Thì
như khi ra về Annam, là lúc đã bị thần chết nắm tánh mạng rồi, thế mà muốn lấy
cảm tình của dân Mọi đối với người Nam ta làm ăn trên đó, cha Do còn cho giết
voi khoản đãi họ. Người Mọi ngày nay vẫn còn nhắc đến luôn. Họ thường khen
rằng: “Bok Lanh rơgei jat manat kon nhôn bi tui” (Ông Lành có lòng rộng rãi
thương chúng ta khôn cùng).
Người Pháp
cũng khâm phục tài đức cha Do lắm. Chúng tôi xin thuật lời khen sau này của hai
vị truyền giáo để chứng thực việc ấy. Cố Dourisboure, là bạn thân của cha Do,
có nói rằng: “Đứng trước những cảnh ngộ khó khăn mà người khác chắc phải ngã
lòng nản chí, thời lòng phấn đấu của ông ấy tăng lên bội phần. Tôi đã từng thấy
người đó gặp nhiều điều nguy hiểm mà vẫn bình tĩnh như không có sự gì xảy đến”.
Ông giám mục Charbonnier thời nói rằng: “Cha Do là người đầu tiên trong bọn thợ
lên đắp nền xây móng cho Hội Thánh xứ mọi mường, vừa mới tạ thế năm nay. Thật
là một sự thiệt hại lớn cho chúng ta. Ông ấy là một vị linh mục siêng năng.,
làm việc không quản mệt nhọc, mà nhất là những lúc phải làm rạng danh Đức Chúa
Cha thời không có điều khó gì là ổng không làm được. Danh tiếng lừng lẫy khắp
nơi, chẳng những người bên giáo thương yêu mà người bên lương cũng kính
trọng…”.
Đến năm 1907,
bổn đạo Kon Tum cất hài cốt cha Do ở Đồng Hâu lên táng ở nghĩa địa Kon Tum, để
tỏ lòng thương nhớ ân nhân lớn của họ4.
Rút lại mà
nói thời cha Do chẳng những làm rạng danh cho mình mà lại làm vẻ vang cho tổ
quốc biết bao!”.
(x. Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, “Mọi Kontum”,
NXB Mirador Huế 1937, tr. 9-11).
NXB Mirador Huế 1937, tr. 9-11).
Có một điều rất trăn trở và cũng thật buồn đó là cho
đến hiện nay, thành phố Kon Tum chưa có con đường nào mang tên vị ân nhân này.
“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý từ ngàn đời của dân
tộc Việt. Thành phố Kon Tum ngày nay có hàng trăm con đường mới được mở ra,
nhiều con đường mang tên những nhân vật lịch sử địa phương, mà nhiều cái tên
hẳn còn xa lạ với đa số quần chúng. Nhân vật lịch sử thì không nhất thiết phải
là danh nhân, nhưng mỗi người đều có vai trò riêng trong một bối cảnh lịch sử
nhất định. Trong bối cảnh của Kon Tum thời kỳ sơ khai, Cha Do – với 24 năm
(1848-1872) sống và làm việc ngay tại trung tâm Kon Tum, đã đóng góp một vai
trò khá quan trọng.
Một điều
không bình thường, là khi đề cập đến vấn đề
này thì từ các cấp các nghành đến các vị lãnh đạo chính quyền thường có
tâm lý
“né tránh”. Có lẽ đây là sự lúng túng xuất phát do định kiến có sẵn,
cho rằng các giáo sĩ và giáo dân truyền đạo lên Kon Tum đã đóng vai
trò “khai phá
đường đi” cho chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm nhập lên Kon Tum. Đây là
một
đánh giá sai lạc của một số người nào đó hoặc một số vị trong chính
quyền, chứ
không phải của giới sử học.Trên thực tế, thực dân Pháp chiếm Việt Nam
vào nửa
sau thế kỷ XIX, khi chế độ phong kiến Việt Nam đã trở nên suy yếu, và
sau khi
đánh chiếm được Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862), thì việc
Pháp dòm
ngó và tiến lên Tây Nguyên là một diễn biến tất yếu khách quan. Trong
bối cảnh
lịch sử ấy, song song với quá trình xâm nhập của thực dân Pháp, cũng
đúng vào
thời điểm các giáo sĩ và giáo dân trong lúc chạy trốn sự bắt đạo của
triều đình
nhà Nguyễn, đã mở đường lên Kon Tum tìm nơi định cư và thực thi lý tưởng
truyền
giáo của họ. Lý tưởng truyền giáo này đã được Đức Giám Mục Cuénot Thể ấp
ủ từ
rất lâu (1838-1839) , từ trước khi quân Pháp đặt chân lên đất Việt Nam. Trên
bình diện rộng hơn, theo các nhà sử học : “Cũng
như vậy, cho rằng giáo sĩ Đắc Lộ
(Alexandre de Rhodes) hay giám mục Bá Đa Lộc (Pigneax de Béhaine) làm môi giới
giữa Pháp và triều Nguyễn là những tên thực dân phản động lại càng sai lầm hơn
về mặt quan điểm lịch sử. Bằng cớ là sang thời Minh Mạng (từ năm 1820), Thiệu
Trị, các vị vua con, vua cháu này chẳng những không hợp tác với Tây mà còn thực
hiện chính sách giết đạo tàn khốc (chứng tỏ không thân Pháp) để giải quyết cái
di sản trớ trêu của lịch sử, và cũng chỉ trong khoảng thời gian đó các nhà vua mới
có thể dám làm như vậy (dù không phải là việc làm đúng, tốt), do mối ân tình
giữa vua cha (Nguyễn Ánh) với Bá Đa Lộc cùng một số tướng tá người Pháp coi như
đã “sạch nợ giang hồ” (x. Gs Trần Văn Chánh, Tản mạn về quan điểm, phương
pháp và thái độ nghiên cứu sử học, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển 2011).
Cũng chẳng cần nghiên cứu sâu xa như các nhà sử học,
chỉ cần phán đoán theo lương tri thông thường, cha Do đã sống giữa trung tâm
Kon Tum suốt 24 năm, ai ai cũng biết ngài, di sản tinh thần và vật chất ngài để
lại cho đồng bào Kinh-Thượng, đến ngày nay vẫn còn cảm nhận rất rõ. Thật mâu thuẫn khi người ta ca ngợi các công
trình tôn giáo đặc sắc hàng trăm năm tuổi như Nhà thờ Gỗ, Chủng viện Kon Tum,
Nhà thờ Tân Hương.v.v. nhưng lại chưa kính trọng đủ con người đã đặt nền móng
đầu tiên và vững chắc để những công trình ấy ra đời và tồn tại qua thời gian.
Thật ra, trước 1975, ở Kon Tum đã từng có một con
đường được đặt tên “Bok Do”, nhưng từ sau Ngày Giải Phóng, con đường Bok Do
không hiểu vì sao đã được đổi thành một tên khác5. Chúng ta đã từng
nghe nhiều nhà sử học, và những người dân yêu mến Kon Tum đau xót lên tiếng về
việc tên của những địa danh, làng mạc, đường phố tại Kon Tum từ sau Giải phóng
đến nay đã bị làm cho “tan nát”. Những tên làng xưa hàng trăm năm như Tân
Hương, Phương Nghĩa, Phương Quý, Phương Hòa.v.v. gắn với những làng quê yên
bình từ bao đời, gởi gắm ước vọng thương yêu, no ấm, hạnh phúc ; hay những
đường phố như Bok Do, Bok Kiểm (tức Bok Kiơm), Câu Tài.v.v. gợi nhắc các bậc
tiền hiền thuở lập làng, dựng phố ; hay tên gọi các làng của người dân tộc… đã
bị xóa bỏ một cách vô tội vạ, mặc dầu những tên gọi hay nhân vật lịch sử ấy
chẳng có gì làm phương hại đến “chính nghĩa cách mạng”6. Thật là bất
công và không trung thực với lịch sử, nếu chỉ vì những sự kiện ấy có liên quan
đến đạo Công giáo!
Trên thực tế, nhiều nhân vật lịch sử Công giáo khác đã
được đặt tên đường tại nhiều tỉnh thành trong nước Việt Nam. Chỉ riêng tại TP.HCM chẳng hạn,
ngoài vị thừa sai nước ngoài A. de Rhodes (quận 1, Thủ Đức), còn có đường (Đức Hồng
Y) Trịnh Như Khuê (Bình Chánh), các đường (Đức Giám Mục) Nguyễn Bá Tòng (Tân
Bình), Hồ Ngọc Cẩn (Tân Bình), Nguyễn Văn Bình (quận 1), các danh nhân công
giáo Nguyễn Trường Tộ (quận 4, 9, Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức), Trương Vĩnh Ký
(Tân Bình), Mai Lão Bạng (Tân Bình), Hàn Mặc Tử (Tân Bình).v.v. Hay gần đây
(năm 2011), linh mục Đặng Đức Tuấn (quê quán huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định,
mất 1874), người đồng hương cùng thời với Cha Do (mất 1872) và có mối quan hệ
thân tình với cha Do, đã được đặt tên cho một con đường tại Huế, cùng một lượt
với các tên tuổi khác như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, hoà thượng Thích Tịnh Khiết,
sư bà Tôn Nữ Diệu Không…(x. Báo Tuổi Trẻ 18.3.2011, tr.13). Tất cả họ, không
phân biệt sắc tộc, tôn giáo, khi có những đóng góp nhất định đều được xã hội
công nhận.
100 năm thành lập tỉnh (1913-2013), cũng vừa tròn 165
năm Nguyễn Do đặt chân lên Kon Tum (1848) lập nên làng Rơhai (Kinh+Dân tộc) -
đơn vị hành chính theo chế độ định cư đầu tiên, để sau này cùng với nhiều làng
khác được thành lập qua thời gian, Kon Tum tiến dần đến hình thức hành chính
cấp tỉnh (9/2/1913) . Kỷ niệm mốc lịch sử này, ước mong các cấp các ngành quan
tâm đưa vấn đề lên bàn hội nghị, để Kon Tum sớm có một con đường mang tên
Nguyễn Do. Một con đường trong thành phố Kon Tum, dù chỉ nhỏ và ngắn, nhưng khá
trang trọng, càng gần dòng sông Đăk Bla càng có ý nghĩa. Bởi lúc sinh thời,
bước chân của con người ấy không chỉ rong ruổi trên những nẻo đường trên bộ, mà
còn từng chèo sõng ngược xuôi dòng Krong Blah (Đăk Bla) để khám phá ra vùng
đồng bằng rộng lớn, đẹp đẽ, nơi đã trở thành thị xã, rồi thành phố trung tâm
tỉnh lỵ Kon Tum ngày nay7.
Một điều nữa được sử sách ghi lại, mà khi nghĩ đến
không khỏi chạnh lòng, đó là “Cha Do đã
làm một con đường rất đẹp nối liền hai làng Rơ Hai và Đak Kấm” (x. P. Dourisboure,
Dân Làng Hồ, NXB Đà Nẵng 2008, trang 141). Cứ xét theo vị trí địa lý và bối
cảnh lịch sử qua dòng thời gian, thì có lẽ không con đường nào khác hơn chính
là con đường Trần Phú trung tâm thành phố Kon Tum ngày nay. Con đường Trần Phú
ngày nay vẫn giữ nguyên vị trí là một trong những con đường đẹp và tiện lợi
nhất, không chỉ nối liền trung tâm thành phố (làng Rơ Hai xưa - nhà thờ Tân
Hương nay) với xã Đăk Kấm ở hướng Bắc, mà còn mở ra các hướng Đông - Tây. Và
trong tương lai, nếu dự án mở rộng khu vực phía Nam đường Nguyễn Huệ được triển
khai, con đường Trần Phú nối dài chạy dọc theo bờ sông Đăk Bla, cho đến tận cầu
treo Kon Klo, sẽ làm cho diện mạo thành phố Kon Tum thay đổi đáng kể, rộng lớn
hơn, đẹp đẽ hơn …Con người ấy đã có công khai mở những con đường “rất đẹp” cho
Kon Tum, chẳng lẽ lại không xứng đáng được đặt tên cho một con đường nào đó để
mà kỷ niệm, để mà tưởng nhớ ??!
Con đường Trần Phú chụp năm 1966/1967
Ảnh: Will Miller
Xét cho cùng, nghĩa cử này nếu trở thành hiện thực thì
cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với người đã khuất, nhưng lại thật có ý nghĩa đối
với người sống. Chúng ta và thế hệ tương lai con cháu chúng ta cần phải biết ơn
tiền nhân đã từng chịu bao nhiêu hy sinh gian khổ, lập làng dựng phố, để hôm
nay ta có phố nhỏ Kon Tum, và có tỉnh Kon Tum biết bao yêu quý tự hào! Biết ơn
và kính trọng tổ tiên ông bà cha mẹ, biết trân quý, gìn giữ phát huy những
thành quả tinh thần và vật chất mà cha ông truyền lại, đó là bài học đạo lý đầu
tiên và căn bản nhất của mọi cá nhân, mọi gia đình, mọi thiết chế xã hội.
Cho tới chừng nào thành phố Kon Tum chưa có con đường
mang tên “Nguyễn Do”, thì dù có kỷ niệm 100 năm hay hơn nữa, lịch sử phát triển
của Kon Tum vẫn sẽ còn nhắc nhớ mãi, và chúng ta là kẻ hậu sinh vẫn sẽ còn “mắc
nợ” - món nợ “ân tình” đối với người đã khó nhọc góp công vào buổi đầu cho sự phát
triển của dòng lịch sử ấy.
Chính vì vậy, thành phố Kon Tum cần, và rất cần có một
con đường mang tên “Nguyễn Do”.
Minh
Sơn 15.11.2012 (krongblah.blogspot.com)
( Còn 86 ngày
nữa đến ngày kỷ niệm 100 năm thành lập
tỉnh Kon Tum... )
___________________________________________
CHÚ
THÍCH:
1. “…sous le nom de province moï de Kontum”, x. Nguyệt San “Thuộc Địa”, Paris 1913, trang 293.
2. x. P. Ban và S. Thiệt, “Mở đạo Kon Tum”, tr. 91-92; và 233.
Tên gọi làng “Tân Hương” là tên gọi về sau. Vào năm 1874 khi mới thành lập, làng Tân Hương được gọi là Trại Lý, sau là Gò Mít.
3. Trạm Gò (phía Bắc An Khê).
4. Hiện nay tro cốt của cha Do được đặt trong Nhà Nguyện của Chủng Viện Kon Tum, đường Trần Hưng Đạo, Tp. Kon Tum.
5. Đường Nguyễn Văn Trỗi trước Tòa Giám Mục ngày nay.
6. Xem thêm: Tạ Văn Sỹ, “Ngồi nhớ tên xưa”, Tạp ký Kon Tum, NXB Văn Học 2012, tr. 86).
7. x. Dourisboure, Dân Làng Hồ, NXB Đà Nẵng 2008.
Theo: Nhuygialai
Giới thiệu về tỉnh KONTUM |
Từ một làng nhỏ của người Bana cạnh dòng sông Đăkbla,
đồng bào các dân tộc Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ
Măm,... đến tụ cư, sinh sống, cho đến vị thế quan trọng về
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của mảnh đất Tây Nguyên
bao la, hùng vĩ,... mảnh đất Kon Tum đã trải qua biết bao biến
động và thăng trầm với nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới
hành chính. Ngược dòng thời gian, tìm hiểu về những giai đoạn
lịch sử mà Kon Tum đã đi qua, càng thấy trân trọng hơn ý chí,
nghị lực, lòng quả cảm và sức mạnh nội lực của đất và
người nơi đây trong hành trình vươn lên cùng đất nước.
Tên gọi Kon Tum
Theo
truyền thuyết của dân tộc Bana, Kon Tum ban đầu chỉ là một
làng của người Bana. Thuở ấy, vùng đồng bào dân tộc Bana (nay
thuộc thành phố Kon Tum) có
làng người địa phương ở gần bên dòng sông Đăkbla với tên gọi Kon
Trang - OR. Lúc ấy, làng Kon Trang - OR rất thịnh vượng với
dân số khá đông. Bấy giờ, giữa các làng luôn gây chiến với
nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ. Hai
con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng đầu làng
Kon Trang - OR tên là Jơ Rông và Uông không thích cảnh chiến
tranh đã làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng
Đăkbla. Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định
cư, nên dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát
triển thêm đông, lập thành làng mới có tên gọi là Kon Tum. Từ
đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới
lập của người Bana, cạnh dòng Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước
trũng. Theo tiếng Kinh, Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ (Kon là
làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,...).
Một góc TP Kon Tum
|
Do
vị trí đặc biệt, Kon Tum là vùng đất bằng, được dòng Đăkbla
uốn quanh bồi đắp phù sa màu mỡ. Trải qua những biến động,
thăng trầm của lịch sử, vùng đất này có nhiều biến đổi,
đồng bào các dân tộc tụ hội về đây ngày một đông. Người Kinh
khi đến Tây Nguyên cũng chọn vùng đất Kon Tum làm nơi định cư.
Từ đó, Kon Tum trở thành vùng đất cộng cư của nhiều dân
tộc.
Phát
huy những thuận lợi về điều kiện tự nhiên với sự cần cù
lao động của con người, vùng đất Kon Tum ngày càng phát triển
thịnh vượng, không chỉ một làng mà nhiều làng, bao quát cả
vùng đất đai rộng lớn. Vùng đất này khi thành lập thị xã
cũng mang tên gọi chính thức là Kon Tum. Khi đơn vị hành chính
cấp tỉnh được thành lập, Kon Tum vẫn chính thức được dùng
làm tên gọi của tỉnh. Đây là vùng địa lý hành chính được
hình thành sớm nhất ở Tây Nguyên.
Địa giới Kon Tum qua các thời kỳ lịch sử
Kon
Tum thuở xưa còn rất hoang vắng, người thưa, đất rộng. Các
dân tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ
Măm. Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau. Nét đặc
biệt trong thiết chế xã hội cổ truyền của các dân tộc ở
tỉnh Kon Tum là tổ chức xã hội duy nhất chỉ có làng. Làng
được xem như đơn vị hành chính mang tính bao quát và cụ thể,
chi phối mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Mỗi làng mang
tính độc lập riêng biệt, do một chủ làng là người có uy tín
nhất trong làng đứng đầu.
Trong
giai đoạn khởi nghĩa Tây Sơn (1771 - 1786), ba anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã xây dựng mối quan hệ đoàn kết
với các dân tộc vùng này.
Năm
1840, dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình Huế lập Bok Seam -
một người Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng
thời cho phép người Kinh và người các dân tộc được phép tự do
quan hệ mua bán, trao đổi. Từ đây, những lái buôn người Kinh
bắt đầu đến với Tây Nguyên để mua bán, trao đổi hàng hóa.
Trong
thời gian này, người Pháp cũng tìm đường đến Kon Tum để
truyền đạo. Trong giai đoạn 1841 - 1850, thực dân Pháp đã đặt
được cơ sở Thiên chúa giáo đầu tiên ở Kon Tum.
Năm
1867, thực dân Pháp bắt đầu tấn công xâm lược Kon Tum - Tây
Nguyên. Bằng những thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ các dân tộc
trong vùng, thực dân Pháp đã thôn tính Kon Tum và Tây Nguyên.
Năm
1892, thực dân Pháp đặt tại Kon Tum một tòa đại lý hành
chính đầu tiên do một cố đạo người Pháp là Vialleton, còn gọi
là cha Truyền cai quản.
Ngày
4-7-1904, thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, bao gồm hai
tòa đại lý hành chính: một tòa ở Kon Tum (trước đó thuộc
tỉnh Bình Định) và một tòa ở Cheo Reo (trước đó thuộc tỉnh
Phú Yên).
Ngày
25-4-1907, thực dân Pháp chính thức bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der.
Toàn bộ đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành
chính Kon Tum và Cheo Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình
Định và Phú Yên như trước đó.
Ngày
9-2-1913, thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao
gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý
hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, đại lý hành chính
Buôn Ma Thuột (Buôn Ma Thuột trước đó là một tỉnh riêng, nhưng
đến năm 1913 giảm từ tỉnh xuống thành đại lý hành chính,
sáp nhập vào tỉnh Kon Tum).
Năm
1917, thực dân Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê,
gồm huyện Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới
quyền cai trị của công sứ tỉnh Kon Tum.
Ngày 2-7-1923, đại lý Buôn Ma Thuột được tách khỏi tỉnh Kon Tum để thành lập tỉnh Đắk Lắk.
Ngày
3-12-1929, thành lập thành phố Kon Tum (thực tế lúc đó chỉ là
thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu
số phụ cận).
Ngày
25-5-1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum, thành lập
tỉnh Pleiku (nay thuộc tỉnh Gia Lai). Đến ngày 9-8-1943, đại lý
hành chính An Khê được tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào
tỉnh Pleiku. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ chỉ còn lại tổng Tân
Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tổng
Tân Hương là tên gọi tiền thân của thành phố Kon Tum hiện nay.
Tổng Tân Hương là nơi hội tụ của các làng người Kinh lên lập
nghiệp tại Kon Tum. Theo thứ tự, các làng của tổng Tân Hương
được thành lập theo thời gian và tên gọi như sau: Tân Hương (năm
1874); Phương Nghĩa (năm 1882); Phương Quý (năm 1887); Phương Hòa
(năm 1892); Trung Lương (năm 1914); Phụng Sơn (năm 1924); Ngô Thạnh
(năm 1925); Ngô Trang (năm 1925); Phước Cần (năm 1927); Lương Khế
(năm1927).
Ngày
3-2-1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương
được lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở
thành trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum.
Theo thời gian, mảnh đất nơi đây không ngừng được mở rộng và
phát triển. Ngoài các làng của người Kinh lập nên, về sau có
thêm nhiều làng của người dân tộc thiểu số vùng ven như các
làng Kon Rbàng, KonM'nai, ChưHreng, cũng nằm trong phạm vi quản
lý hành chính của thị trấn Kon Tum.
Tháng
8-1945, cùng với cả nước, ngày 25-8-1945, nhân dân Kon Tum đã
nổi dậy giành chính quyền. Chính quyền cách mạng tổ chức
lại tỉnh Kon Tum thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk
Glei, Đăk Tô, Konplong và thành phố Kon Tum. Chính quyền cách
mạng lâm thời tỉnh Kon Tum được thành lập đóng trụ sở tại
thành phố Kon Tum để lãnh đạo nhân dân bắt tay vào xây dựng
cuộc sống mới.
Ngày
26-6-1946, thực dân Pháp tấn công và chiếm lại Kon Tum, thiết
lập trở lại bộ máy cai trị vùng này. So với trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, bộ máy thống trị và chính sách cai
trị của Pháp từ tỉnh tới làng không mấy thay đổi. Đứng đầu
bộ máy hành chính cấp tỉnh là một công sứ người Pháp, bên
dưới có các huyện thường do tên đồn trưởng người Pháp nắm
giữ rồi đến làng. Thực dân Pháp đã tập hợp bọn tay sai
người địa phương, đặc biệt là dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo các
chủ làng để nắm giữ bộ máy quyền lực ở cơ sở.
Về
phía cách mạng, sau khi thực dân Pháp tái chiếm Kon Tum,
chính quyền cách mạng lâm thời tan rã, tổ chức Đảng bị phân
tán, thất lạc. Trong thời gian này, tỉnh Kon Tum chịu sự quản
lý chỉ đạo về hành chính của xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban
vận động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ.
Tháng
1-1947, thành lập Phân khu 15, trong đó nòng cốt là tỉnh Kon
Tum và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng
Ngãi. Trên thực tế, tổ chức hành chính của Kon Tum vẫn giữ
nguyên, nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về
hoạt động quân sự. Tháng 8-1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành
lập, tỉnh Kon Tum là một trong những đơn vị hành chính trực
thuộc Khu 15. Tháng 3-1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V,
tỉnh Kon Tum và tỉnh Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia -
Kon. Ban cán sự Gia - Kon ra quyết định thành lập 7 khu (huyện).
Địa bàn tỉnh Kon Tum tổ chức thành 3 khu: khu 1 (Đăk Glei); khu
2 (Đăk Tô); khu 3 (Konplong).
Tháng
10-1951, theo quyết định của Liên Khu uỷ V, tỉnh Kon Tum và
các huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền
Tây.
Tháng
2-1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên được
hoàn toàn giải phóng. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây
cũng được giải thể. Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ ký ngày
20-7-1954, tỉnh Kon Tum bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Về
phía địch, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - ngụy
tiếp quản Kon Tum. Năm 1958, chúng chia bộ máy hành chính tỉnh
Kon Tum thành tòa hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp
tỉnh, bên dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk
Sút.
Năm
1958, nguỵ quyền thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, nguỵ
quyền thành lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong
bị xóa bỏ. Như vậy, thực tế quận Toumơrông và quận Chương
Nghĩa chiếm gần trọn diện tích của quận Konplong trước đó.
Một phần đất còn lại của quận Konplong không thuộc phạm vi
của hai quận mới này được sáp nhập về quận Kon Tum.
Năm
1961, quận Chương Nghĩa bao gồm phần đất phía đông sông Đăk
Nghé, giáp với Ba Tơ (Quảng Ngãi) được cắt về tỉnh Quảng
Ngãi. Tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành chính cấp quận: Kon
Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông.
Sau
năm 1965, phân cấp hành chính của Nguỵ quyền Sài Gòn tại Kon
Tum có sự thay đổi. Đối với khu vực thị xã, thị trấn đông
dân, chúng vẫn giữ nguyên cấp quận; những nơi xa xôi, ít dân cư
hơn, chúng giảm quận đặt thành phái viên hành chính.
Năm
1970, bộ máy hành chính của địch ngoài tòa hành chính và
các ty, sở ở tỉnh, bên dưới có các cấp sau: quận Kon Tum,
quận Đăk Tô, phái viên hành chính Đăk Sút, phái viên hành
chính Măng Buk, phái viên hành chính Chương Nghĩa (quận Chương
Nghĩa chuyển về Quảng Ngãi một thời gian sau đó được nhập
trở lại tỉnh Kon Tum).
Năm 1972, nguỵ quyền cải danh chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở rộng chức năng về hành chính.
Sau
chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân cách mạng giải phóng Đăk
Tô - Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn, vùng kiểm
soát của địch bị thu hẹp đáng kể; quận lỵ Đăk Tô của địch
phải lưu vong về đèo Sao Mai (đông nam thành phố Kon Tum); các chi
khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập giữa vùng giải phóng
của ta. Địch chỉ còn co cụm phần lớn tại khu vực thành
phố Kon Tum.
Năm
1974, quân ta tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu Đăk Pét,
Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma
Thuột, ngày 17-3-1975, quân và dân trong tỉnh đã nổi dậy tấn
công vào đầu não của địch ở nội thị, giải phóng
thành phố và toàn tỉnh Kon Tum.
Về phía ta, đầu năm 1955, toàn tỉnh đuợc chia thành 6 khu nông thôn (tương đương huyện) và một thành phố.
Khu
1: lúc đầu là vùng đông và bắc thành phố Kon Tum, từ bờ sông
Pô Kô (phía tây) đến bờ sông Đăk Nghé (phía đông).
Khu 2: bao gồm toàn huyện Konplong ngày nay.
Khu
3: gồm một số vùng thuộc huyện Đăk Glei và một số vùng của
Đăk Tô (nay thuộc huyện Đăk Hà) giáp với khu 6 và giáp với
huyện Konplong ngày nay.
Khu 4: vùng tây huyện Đăk Glei từ giáp Quảng Nam đến Đăk Nây Pui, phía tây giáp biên giới Lào.
Khu
5: được hình thành và giải thể trước khi có hiệp định
Giơnevơ nên không còn. Một phần khu 5 nhập vào khu 4, phần còn
lại nhập vào khu 6.
Khu
6: từ Vơmơna, phía đông giáp Măng Buk đến vùng Kayong giáp biên
giới Lào, phía bắc giáp vùng Đăk Hà, phía nam đến Konplong.
Khu 7: thuộc huyện Sa Thầy ngày nay.
Cuối
năm 1956, đầu năm 1957, các khu vực được sắp xếp lại và
chuyển đổi thành huyện: cắt một phần khu 3 giáp khu 6 thành
khu 8; cắt một phần nam khu 2 thành khu 9; giải thể khu 6. Hình
thành nên các huyện: khu 1 và một phần khu 6 sáp nhập thành
huyện H16; khu 2 và khu 9 sáp nhập thành huyện H29; khu 3 chuyển
thành huyện H30; khu 8 và một phần khu 6 sáp nhập thành
huyện H80; khu 4 thành huyện H40; khu 7 và một phần khu 6 sáp
nhập thành huyện H67.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các huyện trong tỉnh
Kon Tum đều được gọi theo tên mật danh như: H16, H29, H30, H40,
H67, H80. Riêng thành phố Kon Tum lúc đó mang mật danh là H5. Vùng
KonHring (nay thuộc huyện Đăk Hà) mang mật danh H9.
ứng
với mỗi mật danh có tên gọi cụ thể là: H16 (Konpraih); H29
(Konplong); H80 (Đăk Tô); H5 (thành phố Kon Tum); H30 (phía đông Đăk
Glei); H40 (phía tây Đăk Glei); H67 (Sa Thầy); H9 (Kon Hring).
Sau
khi tỉnh Kon Tum được giải phóng (17-3-1975), toàn tỉnh có
thành phố Kon Tum và 6 huyện là H30, H40, H16, H29, H80, H67.
Tháng
10-1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia
Lai - Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có các huyện: huyện Konplong
(H16 + H29), huyện Đăk Glei (H30 + H40), thành phố Kon Tum (H5 + H9),
huyện Đăk Tô (H80). Năm 1979, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ
sở phần đất của H67 cũ.
Tháng
10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh
Gia Lai - Kon Tum. Theo đó, một số huyện mới được thành lập như
Ngọc Hồi (năm 1992); Đăk Hà (năm 1994), huyện Kon Rẫy (năm 2002),
huyện Tu Mơ Rông (năm 2005).
Đến
năm 2005, tỉnh Kon Tum có 01 thành phố và 8 huyện. Trong đó,
thành phố Kon Tum là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội của tỉnh.
(Theo tài liệu Kon Tum trên đường phát triển)/ Kkt-kontum
Kon Tum (Wikipedia)