Phân định Vùng nước lịch sử giữaViệt Nam và Campuchia, 1988
_______________
Loạt bài trên báo Tuổi trẻ:
Thổ Chu - ký ức đau thương
07/01/2014 10:35 (GMT + 7)
Trong tay Khmer Đỏ
08/01/2014 09:05 (GMT + 7)
Những người đào thoát
09/01/2014 10:11 (GMT + 7)
Đây, chứng tích thảm sát Koh Tang
10/01/2014 10:35 (GMT + 7)
Loạt bài trên báo Tuổi trẻ:
Thổ Chu - ký ức đau thương
07/01/2014 10:35 (GMT + 7)
TT - Cuộc thảm sát đẫm máu lên tới hơn 500 người dân của ta ở Thổ Chu sao lại ít được nhắc tới trong sách sử quá? Hỏi ra mới hay hồi đó chúng lùa dân lên tàu chở đi giết sạch, nhân chứng không còn ai! Có thật là không còn ai? Lần theo những sợi chỉ thông tin mỏng manh, chúng tôi lên đường ra Thổ Chu, rồi từ Thổ Chu đến với một số điểm đảo trên vùng biển Tây Nam. May quá, vẫn còn đó những nhân chứng của cuộc thảm sát dã man ngày ấy sống và kể lại...
Trưa 7-1-1979, thủ đô Phnom Penh của Campuchia được giải phóng. Đêm đó, gia đình ngư dân Tư Sĩ ở hòn Mấu (xã đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, Kiên Giang) ngồi quanh chiếc radio nghe bản tin phát đi và vỡ òa niềm vui. Họ tin rằng sẽ được gặp lại những bà con xóm giềng cật ruột từng chung sống trên đảo Thổ Chu bị quân Pol Pot bắt dẫn đi biệt mù tăm tích từ năm 1975 sẽ được trở về. Nhưng không! Không một ai trong số 513 người dân đảo bị bắt đi từ gần bốn năm trước trở lại. Và mãi mãi họ không thể về quê quán nữa. Cuộc thảm sát bi thương hơn 500 sinh mạng cư dân Thổ Chu dường như lâu nay còn ít người biết đến.
Đi tìm nhân chứng
Đầu tháng 5-1975, khi VN vừa bước vào ngày hòa bình thống nhất đầu tiên, những chiếc tàu chở quân Khmer Đỏ ập lên đảo Thổ Chu, nơi có hơn 500 cư dân VN sinh sống bình an từ bao năm. Trước đó, quân đội Sài Gòn trấn giữ đảo đã theo tàu quân sự di tản, trên đảo chỉ còn lại dân. Thổ Chu lại cách xa đất liền hơn 200 cây số nên quân giải phóng chưa kịp ra tiếp quản thì quân đội Khmer Đỏ đã lợi dụng điều này đổ bộ chiếm đóng đảo.
Vài tuần sau, những người dân ở đây bị quân Khmer Đỏ lùa lên tàu đưa về một hòn đảo Campuchia giết chết không còn một ai. Câu chuyện này về sau mới biết được, khi quân đội cách mạng Campuchia và quân tình nguyện VN giải phóng những hòn đảo này. Các anh đã tìm thấy rất nhiều căn cước (chứng minh nhân dân) đề tên của dân Việt. Một cuộc thảm sát người Việt rất kinh hoàng đã xảy ra trên những hòn đảo này dưới tay quân Khmer Đỏ! Hơn 500 dân của đảo chỉ mỗi gia đình ông Tư Sĩ “cao số” may mắn thoát được.
Chuyến công tác của chúng tôi ra quần đảo Thổ Chu cùng với hải quân Vùng 5 gom góp những gì còn lại vào tháng trước để tái hiện phần nào dấu vết câu chuyện bi thương. Nhưng nhân chứng của Thổ Chu những ngày tháng 5-1975 không còn ai sống trên hòn đảo này. Gia đình ông Tư Sĩ lại đang sống tại hòn Mấu, cách Thổ Chu hơn trăm cây số, hải trình của đoàn công tác lại không ghé qua hòn Mấu. Thổ Chu hôm nay xinh đẹp và trù phú, chứng nhân của nỗi đau ngày ấy có chăng là những rặng dừa cao vút san sát vây quanh bãi Ngự. Kết thúc cuộc hành trình trên biển Tây Nam, chúng tôi quyết định sẽ tìm cách ra hòn Mấu để gặp ông Tư Sĩ...
...Chuyến tàu đò Rạch Giá ra Nam Du xuất bến lúc 10 giờ đêm, dông gió mịt mù suốt hải trình. Tàu cập xã đảo Nam Du lúc 4 giờ sáng. Tìm chỗ tá túc đợi mặt trời lên để tìm thuyền đi từ Nam Du qua hòn Mấu. Hòn Mấu chỉ là một đảo nhỏ, may cho chúng tôi, vừa đặt chân lên đảo đã gặp ngay con rể của ông Tư Sĩ. Dắt chúng tôi đến quán cà phê nhỏ trên hòn Mấu, một lão ngư với mái tóc bạc trắng đang ngồi trầm ngâm trước ly cà phê. Ông là Tư Sĩ. Câu chuyện về Thổ Chu dường như đã quá đầy ắp trong tâm trí ông, cứ thế tuôn ra như khơi chạm mạch nguồn.
Quần đảo Thổ Chu nằm ở phía tây nam đảo Phú Quốc và được xem là ở cực tây nam của VN, thuộc xã đảo Thổ Châu, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Nằm cách Rạch Giá 198km, Thổ Chu là đảo lớn nhất trong quần đảo này.
|
“Tui bất đắc dĩ thành người làm chứng của chuyện này. Chẳng ai muốn rơi vào cảnh sống chết tấc gang ấy cả. Giờ tuổi cũng lớn rồi, kể lại vầy cũng là để sau này con cháu mình biết - ông Tư Sĩ mở đầu câu chuyện - Năm 1971 đó, chế độ cũ bắt lính tơi bời, tui bàn với vợ chắc phải dong thuyền ra đảo Thổ Chu trốn quân dịch. Gửi lại hòn Mấu hai đứa con lớn cho cha mẹ nuôi dưỡng, rồi cùng vợ đưa ba đứa con nhỏ ra đi. Thằng lớn là Nguyễn Văn Toại khi đó 9 tuổi, và hai con gái mới một, hai tuổi chưa biết gì. Tài sản là chiếc ghe 1 tấn, trên ghe là gạo, đường, cuốc xẻng và vài chỉ vàng phòng thân. Lúc tàu nổ máy rời hòn Mấu, tôi không quay đầu nhìn lại, còn vợ tôi dằn lòng mà vẫn khóc nấc khi xa con”.
Lùa bàn tay xương xẩu lên mái tóc bạc phơ, ánh mắt ông Tư Sĩ dường như lấp lánh hơn khi nhớ về miền đất cưu mang vợ chồng ông ngày đó:
“Thuyền nhắm hướng Thổ Chu chạy miết, trưa hôm sau lên đảo, cập thuyền chỗ rặng dừa bãi Ngự đã thấy có năm hộ dân là người miền Trung sinh sống. Sống với nhau trên đảo nên ai cũng tốt bụng, đùm bọc nhau lắm! Họ chỉ dạy tui làm rẫy, khuyên nuôi đồi mồi để bán cho thương lái người Hà Tiên làm giàu. Hai vợ chồng tui khai hoang làm được 1 ha rẫy trồng xoài, trồng dừa, đu đủ... rồi đánh bắt cá và tập tành nghề nuôi đồi mồi. Đêm xuống tui soi đèn đào lỗ trên bãi biển tìm ổ trứng đồi mồi. Lúc đó đồi mồi ở Thổ Chu nhiều lắm. Một ổ đồi mồi nằm dưới cát cho khoảng 200 quả trứng, đem về ấp và xây bồn nuôi. Sau hai năm nuôi, đồi mồi to bằng cái đĩa ba tấc bán với giá mỗi con một chỉ vàng. Tui đã bán 30 con được ba cây vàng, gom tiền mua ximăng, tấm lợp, để chuẩn bị cất nhà gần ngay mốc chủ quyền trên đảo.
Đến năm 1974, chế độ cũ đưa thêm hàng trăm hộ dân ra đảo để khai hoang lập ấp, thành lập chính quyền xã Thổ Châu. Lúc đó trên đảo có một tiểu đội hải quân VN Cộng hòa và một hải đội neo đậu tàu dưới bãi Ngự. Cuộc sống trên đảo bình yên, hai vợ chồng cũng yên tâm làm lụng kiếm sống chờ khi cất được nhà sẽ đưa con từ hòn Mấu ra chung sống. Ngoài việc trồng rẫy, vợ tôi còn mở tiệm may vá và hay giúp người dân trên đảo lúc họ túng thiếu. Cư dân trên đảo sống gắn bó tối lửa tắt đèn có nhau. Mọi người hiểu rằng nơi đảo hoang xa đất liền hàng trăm cây số thì láng giềng sống chết phải có nhau.
LÊ ĐỨC DỤC - QUANG VINH
Đọc cuốn sách Đời chiến sĩ của đại tướng Phạm Văn Trà, chúng tôi cứ ám ảnh mãi bởi một câu chuyện bi thương nhắc lại trong hồi ký của ông:
“Với tâm trạng rất buồn, anh Ba Trung (phó tư lệnh Quân khu 9, chỉ huy trưởng chiến dịch giải phóng các đảo thuộc vùng biển Tây Nam) truyền đạt nhiệm vụ mà như tâm sự, như giãi bày một phẫn uất: “Tình hình xấu quá rồi. Quân Pol Pot đã chiếm một số đảo của ta hơn một tháng nay. Chúng tàn sát đồng bào ta rất dã man. Được Tư lệnh Quân khu phân công trực tiếp giải quyết tình hình các đảo, vừa rồi tôi đã sử dụng một lực lượng của quân khu, có hải quân tăng cường đổ bộ bí mật lên đảo Thổ Chu, bất ngờ tiêu diệt gọn một tiểu đoàn Pol Pot, bắt 300 tên. Nhưng điều đáng buồn là khi ta giải phóng đảo, quân Pol Pot đã sát hại trên 500 bà con ta sinh sống lâu đời ở đây”. (trang 250)
|
__________
Ký ức của những năm đầu sinh sống trên đảo bình yên bao nhiêu thì những gì diễn ra trong tháng 5-1975 đã ám ảnh ông Tư Sĩ đến tận bây giờ.
08/01/2014 09:05 (GMT + 7)
TT - Sửng sốt, bàng hoàng là tâm trạng của người dân trên đảo Thổ Chu sau này, bởi ban đầu thấy quân Khmer Đỏ lên đảo họ vẫn nghĩ đấy là “bạn”.
Giả dạng anh em
Trong chuyến hải trình quanh vùng biển Tây Nam mới đây, trong một sáng vần vũ mây trời xám xịt, chúng tôi đã đứng trên nóc của hải đăng đảo Hòn Đốc thuộc quần đảo Hải Tặc khi xưa (nay gọi là quần đảo Hà Tiên) và ngóng vọng về phía đảo T. Đó chính là nơi 513 người dân Thổ Chu xấu số đã chết dưới tay Khmer Đỏ và mong sẽ có một ngày được đến đó thắp một nén nhang tưởng nhớ, dù giờ đây trên đảo Thổ Chu, một đền thờ tưởng niệm 513 người dân bị thảm sát ngày ấy đã được dựng lên khang trang và bề thế. |
Lúc quân đội Sài Gòn rút khỏi Thổ Chu khi biết Sài Gòn giải phóng, một viên trung úy hải quân tên Tuất nói với ông Tư Sĩ: “Nếu anh Tư muốn đi nước ngoài thì đi với tụi tui, ở đây không được nữa rồi, tàu còn chỗ”. Ông Tư Sĩ trả lời: “Tui còn hai đứa ở hòn Mấu, với lại ra nước ngoài tui không biết làm gì để sống”. Mấy hộ dân khác như Chín Hải, Hai Nông, Tư Tận... - hàng xóm của ông Tư Sĩ - cũng quen sống bằng nghề đánh bắt hải sản, nuôi đồi mồi, làm rẫy nên ai cũng từ chối ra nước ngoài.
“Tụi tui quyết tâm ở lại khó khổ cùng nhau chia sẻ và chờ bộ đội ra tiếp quản - ông Tư nói và kể tiếp - Ai dè mấy hôm sau, trong lúc tui đang gánh nước mặn lên bờ để rửa bồn nuôi đồi mồi thì thấy phía bãi Ngự có hai chiếc tàu hộ tống PCE và tàu chiến của quân Khmer Đỏ chạy vòng quanh đảo để gom bắt số người vượt biên trên biển lên tàu của chúng. Trên tàu tui thấy lính Khmer Đỏ cổ quấn khăn rằn, tay ôm AK. Khi lên bờ, ban đầu chúng đối xử cũng đàng hoàng với dân trên đảo nên không ai nghĩ chúng sẽ ra tay tàn độc như sau này”.
Danh Thương, khoảng 30 tuổi, là cư dân trên đảo sống bằng nghề đốt than, vốn nói sõi tiếng Khmer được tay chỉ huy kêu tới làm phiên dịch. Danh Thương dịch theo lời y, cho biết chúng ra đảo để tổ chức cho bà con sống, làm việc tập thể và yên ổn làm ăn. Chúng còn nói chúng là “đàn em” của Quân giải phóng Việt Nam đến để giữ đảo vì sợ quân Mỹ sẽ quay trở lại chiếm đảo. Chúng còn cho mỗi hộ dân 10kg gạo.
Trong những ngày chiếm đảo, quân Khmer Đỏ bắt dân đảo bốc vác vật liệu, nhặt nhạnh súng ống của quân đội Sài Gòn vứt lại để làm công sự dài hàng trăm mét ở bãi Ngự. Khi công sự làm xong, đến chiều 13-4 âm lịch (ông Tư Sĩ chỉ nhớ ngày âm lịch, sau này tra cứu chúng tôi được biết đó là ngày 23-5-1975), các toán quân Khmer Đỏ lùa dân xuống bãi Ngự. Lúc đó một số gia đình chấp hành, số khác giằng co không đi. Nhưng đến khoảng chập tối thì chúng gí súng lùa hết số dân còn lại ra bãi Ngự. Người nào đã bước ra khỏi nhà chúng không cho trở lại. Lúc đó mọi người đã biết số phận của mình như cá nằm trên thớt.
Dù rất lo sợ nhưng mọi người vẫn cố níu kéo với ý nghĩ nó sẽ đem mình về Campuchia là để mai này trao trả thông qua Đại sứ quán Việt Nam. Lúc đó không ai tính đến chuyện họp bàn để biết xem chúng sẽ đưa mình đi đâu, làm gì sau đó, cứ nhắm mắt đưa chân.
Lúc chúng lùa dân xuống bãi Ngự, dưới bãi đã có hai chiếc tàu, là loại tàu cá của ngư dân Thái Lan. Có lẽ quân Khmer Đỏ đã cướp của dân Thái để sử dụng. “Tui không mấy tin vào chuyến đi bất thường này và nỗi lo cứ lớn dần lên. Trước lúc bị lùa đi, tui may mắn làm quen được một anh tài công quê Châu Đốc, biết nói tiếng Khmer. Lúc đó anh tài công đã cho tôi biết tối nay chúng sẽ lùa hết dân lên hai chiếc tàu này và bảo tôi phải chuẩn bị máy móc, xăng dầu và xin chúng nó cho dòng ghe đi theo”.
Dòng ký ức đầy ám ảnh nặng nề dường như khiến ông Tư Sĩ cảm thấy mệt. Quay qua chúng tôi, ông bảo: “Đi về nhà tui, vợ tui còn nhớ được nhiều chuyện của cái buổi chiều chúng lùa dân chuẩn bị đưa lên tàu lắm!”.
Chuyến đi định mệnh
Căn nhà của ông Tư Sĩ có vẻ to nhất ở ấp Hòn Mấu. Và một điều đặc biệt nữa là nếu như những căn nhà ở đây được dựng chỗ khá kín gió thì nhà ông Tư Sĩ “hiên ngang” rộng cửa hướng về phía nam, hướng nhìn về đảo Thổ Chu. Dường như ký ức của cả gia đình ông luôn dõi về phía hòn đảo đó, sau ngàn trùng sóng biển.
Vợ ông Tư Sĩ, bà Cái Thị Viện, kể tiếp cho chúng tôi nghe nối vào hồi ức của ông chồng: “Tụi nó sau khi lùa đủ dân tập trung trên bãi cát liền bảo “Ai đi theo thì ngồi yên, còn ai từ chối không đi thì giơ tay đứng lên”. Tui là người giơ tay trước hết thảy. Khi đứng lên tui nói nếu đưa tui về Kiên Giang thăm con thì tui đi, còn về Campuchia thì không. Khi tui giơ tay đứng lên cũng có nhiều người khác cùng giơ tay đòi yêu sách không đi qua Campuchia. Tên chỉ huy trả lời: “Nếu đưa về Kiên Giang thì sau này Đại sứ quán Việt Nam đòi biết lấy dân ở đâu để trả lại cho phía Việt Nam?”. Nó còn trấn an: “Dân là cha mẹ sẽ không giết dân đâu, bà con cứ ngồi xuống đi!”. Thấy tui cương quyết quá, nó đành cho hai vợ chồng tui về nhà nấu cơm.
Về đến nhà, lúc Danh Thương là người phiên dịch và tên chỉ huy tiểu đoàn trưởng đi ngang qua nhà, nhớ lại lời khuyên của anh tài công hồi chiều, ông Tư Sĩ bèn hỏi xin được buộc chiếc thuyền của gia đình vào đuôi tàu của chúng để cùng đi. Tên chỉ huy hỏi: Đem ghe theo để làm gì? Tui trả lời: Để qua bên đó làm ăn. Nó nói bên đó có gì mà làm ăn, khi đó chồng tui liền giải thích: “Nếu mấy ông không cho mang ghe đi thì vợ con tui cương quyết không chịu đi”. Thấy tui làm dữ quá và sợ ảnh hưởng đến nhiều gia đình khác nên tên chỉ huy rốt cuộc phải đồng ý. Tên chỉ huy vừa đi, vợ chồng tui đã khuân dầu lửa, một ít thực phẩm xuống thuyền rồi nhờ người tài công lấy sợi dây thừng buộc vào đuôi một trong hai con tàu của Khmer Đỏ”.
Toại, đứa con trai lớn của ông, khi nghe nhắc lại chuyện này đã góp thêm: “Lúc mới xuống ghe, nghe má cầu khẩn ông bà phù độ cho gặp may mắn, cho ba giật máy là nổ liền. Nhưng ba tui giật đến lần thứ bảy, thứ tám máy mới nổ, càng làm cho má lo sợ thêm”. Dù bội phần lo sợ nhưng không còn đường thoát, đến lúc ấy chỉ cần trái ý là chúng sẵn sàng hạ sát ngay.
Đêm 23-5 ấy nhằm vào đêm 13-4 âm lịch, sắp đến Phật Đản nhưng bầu trời không sáng rỡ bởi ánh trăng. Trong ánh sáng nhờ nhờ, những người dân Thổ Chu im lặng nhẫn nhục lục tục bước lên tàu.
Tàu nhỏ, người đông, chúng không cho dân mang theo đồ đạc sinh hoạt gì thêm. Hai chiếc tàu Thái Lan trọng tải khoảng 100 tấn đã chật ních người. Và vì tàu quá chật, ngoài chiếc thuyền của gia đình ông Tư Sĩ, chúng cho hai gia đình khác, trong đó có gia đình ông Hai Nông, cũng được dòng dây kéo thuyền theo. Tám giờ tối, hai chiếc tàu nổ máy hướng về phía Campuchia, hai tàu lớn chở người và ba chiếc ghe nhỏ được dòng dây kéo theo dập dềnh sau ngọn sóng đuôi tàu. Không một ai hay biết số phận của họ sẽ được định đoạt bởi bàn tay của những tên Khmer Đỏ khát máu.
Chuyến đi định mệnh ấy tất cả những người dân vô tội, từ trẻ em đến cụ già, bị đưa về một hòn đảo cách bờ biển Campuchia không xa. Và tất cả đã bị giết chết dã man!
LÊ ĐỨC DỤC - QUANG VINH
______________________
Gia đình ông Tư Sĩ đã thoát khỏi chuyến đi đến địa ngục của Khmer Đỏ vào đêm 23-5-1975 ấy như một phép mầu. Và giờ đây họ trở thành nhân chứng cho một nỗi đau chưa bao giờ nguôi ngoai giữa biển trời Thổ Châu.
Những người đào thoát
09/01/2014 10:11 (GMT + 7)
TT - Ngồi tâm tình với chúng tôi, cả hai vợ chồng ông Tư Sĩ đều chung một nỗi niềm: “Rõ ràng cả nhà tui đã chết đi sống lại.
Kể lại chuyện này, mấy chú đưa lên báo, biết đâu nhờ ơn trên mà có khi gặp lại vị ân nhân năm ấy, người tài công quê Châu Đốc. Nếu không giờ cả nhà tui, năm người này cũng thành ma trên hoang đảo...”.
Sợi dây thừng cứu mạng
Ông Tư Sĩ kể rằng thuyền ông được tàu kéo nên tắt máy. Đêm đó biển lặng sóng, thuyền dập dềnh chạy sau đuôi lái, không biết lính Khmer Đỏ sẽ đưa mình đi đâu về đâu. Ba đứa con nhỏ của ông cũng không buồn khóc. Chúng còn nhỏ quá, chưa hình dung được chuyến đi mịt mù này. Tàu chạy suốt từ tầm lưng lửng tối đó ở bãi Ngự cho đến ba bốn giờ sáng, mặt biển tối sầm, chắc cũng gần đến đảo của Campuchia bỗng vợ chồng ông nghe một tiếng “phựt”. Chiếc thuyền bị hẫng ra, chao đảo, thì ra sợi dây kéo đã bị đứt. Định thần lại, chiếc tàu của quân Khmer Đỏ kéo thuyền chạy trước mắt cũng mất hút, không để lại một ánh đèn hay tiếng còi hụ nào. “Vợ chồng tui như đứng tim không biết chuyện gì đang xảy ra. Khi trên biển chỉ còn lại mình chiếc ghe nhỏ, tụi tui mới biết mình có thể thoát được”.
“Nhưng lúc đó vợ chồng tui quýnh quáng quá, không nghĩ gì chuyện kiểm tra xem sợi dây thừng bị đứt là do bị chặt hay là tự đứt. Mãi sau này khi về được hòn Mấu, vợ chồng tui mới nhớ lại anh tài công người Châu Đốc và chỉ có thể là anh đã chặt đứt dây, bởi dây thừng bện bằng sợi nilông của Thái to hơn ngón chân cái, còn rất mới nên rất khó đứt. “Tui nghĩ đó là người tài công, bởi trước đó anh này không chỉ khuyên vợ chồng tui nên xin tên chỉ huy Khmer Đỏ cho được buộc dây vào tàu Thái để kéo ghe đi, mà còn dặn vợ chồng tui không được nói với ai và biểu phải chuẩn bị đủ nhiên liệu dầu và máy nổ để dự phòng. Chắc anh ấy đã biết trước mọi chuyện và có ý cứu gia đình tui từ chiều hôm đó”.
Khi sợi dây vừa đứt, ông Tư vội giật máy nổ, và không như buổi chiều khi khiêng máy xuống thuyền giật tới bảy tám lần mới nổ. Lần này ông Tư chỉ giật một lần là máy nổ giòn giã. Bà Tư lo lắng: “Biết đường về hòn Mấu không ông?”. Ông Tư móc trong túi quần ra cái la bàn trả lời: “Biết sao không!”. Chiếc ghe với đầy đủ nhiên liệu được đem theo dự phòng trước đó đã bẻ hướng chạy thẳng về hòn Mấu.
Cuối buổi chiều 24-5, thuyền của cả nhà ông Tư Sĩ đã trông thấy rặng dừa trên hòn Mấu. Lúc đó cũng chỉ nghĩ đã về được với cha mẹ, được gặp lại hai đứa con gửi nhờ ông bà nuôi là mừng chứ đâu có nghĩ mình đã thoát khỏi cuộc thảm sát trong gang tấc! Ông Tư Sĩ vẫn hồ nghi những xóm giềng của mình ở bãi Ngự trên hai chiếc tàu đó rồi sẽ được đưa về Campuchia, có giam giữ một thời gian rồi cũng sẽ được trao trả, nào ngờ...
Về đến Hòn Mấu, ông Tư Sĩ mới biết rằng mấy hôm trước khi cả nhà ông thoát khỏi chuyến tàu áp tải về địa ngục đó, một người bạn của ông là Ba Ảnh (Lê Văn Ảnh) đã tìm cách trốn khỏi Thổ Chu về báo tin quân Khmer Đỏ chiếm đảo. Thật may mắn khi tìm gặp ông Tư Sĩ, chúng tôi đã gặp luôn người bạn già Ba Ảnh của ông.
Cuộc đào thoát của Ba Ảnh
“Khi quân Khmer Đỏ lên chiếm đảo là tui đã thấy không an tâm rồi - ông Ba Ảnh bộc bạch - đảo Thổ Chu là đảo của người VN, khi thất trận quân Sài Gòn có rút đi thì trước sau gì bộ đội ta cũng tiếp quản đảo này. Việc quân Khmer Đỏ nói rằng giải phóng giúp bộ đội VN trên hòn đảo đang có hàng trăm hộ dân là chuyện khó tin. Lại thấy chúng bắt dân đi xây hầm hào công sự càng khiến tui nung nấu ý đồ trốn thoát càng sớm càng tốt để về báo cho nhà chức trách. Hỏi “nhà chức trách” là ai, ông Ba Ảnh cười: “Thì “nhà chức trách” là bộ đội chớ ai nữa!”.
Ông Ba Ảnh đã kể lại với chúng tôi mưu kế để trốn thoát khỏi hàng rào kiểm soát vây quanh Thổ Chu của Khmer Đỏ. Buổi trưa hôm trước khi đi làm rẫy, ông Ảnh đến làm quen với tên chỉ huy phó tiểu đoàn trưởng Khmer Đỏ và xin được đi nhặt trứng nhàn (loại chim to như bồ câu sống nhiều trên đảo Thổ Chu). Tên chỉ huy phó đồng ý.
Đến buổi tối cùng ngày, ông Ảnh cùng người em rể lái chiếc ghe của mình ra chiếc tàu chiến của Khmer Đỏ đang neo đậu ở bãi Ngự để gặp lại và cho viên chỉ huy phó một rổ trứng nhàn cùng nhiều món hải sản quý hiếm khác. Ông Ảnh nài nỉ tên chỉ huy cho ông lái chiếc ghe về bãi sau nghỉ đêm để sáng mai đi chặt cây nhum và lượm trứng nhàn tiếp tục. Tên chỉ huy thấy ông Ảnh thật thà và biết điều nên gật đầu. Lợi dụng lúc chúng mất cảnh giác, hai anh em ông Ảnh đã tắt đèn lái ghe chạy thẳng về hòn Mấu ngay trong đêm đó.
Về đến hòn Mấu, ông Ảnh lập tức báo cho mọi người biết rằng hàng trăm người dân trên đảo Thổ Chu, trong đó có gia đình ông Tư Sĩ đang bị quân Khmer Đỏ quản thúc, có thể sẽ bị chúng đưa đi mất. Lời cảnh báo của ông Ảnh đã được ghi nhận nhưng ngày đó phương tiện thông tin liên lạc chỉ là nhắn nhe qua những chuyến thuyền, từ đất liền ra Thổ Chu phải hàng trăm cây số. Nhưng nhờ tin đó bộ đội VN đã có những hành động kịp thời.
Mười ngày sau khi nghe tin bộ đội đánh tan quân Khmer Đỏ, ông Tư Sĩ và ông Ba Ảnh đã lên thuyền trở lại Thổ Chu. Lúc đó trên bãi Ngự, ông Tư nhìn thấy chiếc ghe của gia đình Hai Nông và ghe của một gia đình khác bị chúng dòng dây kéo đi theo tàu cùng với thuyền của ông vào đêm 23-5. Xác chiếc ghe còn đó nhưng chủ của chúng đã không còn. Không biết còn sống hay đã chết. Bộ đội hải quân trên đảo kể lại khi đuổi đánh Khmer Đỏ đã tìm thấy và kéo được hai chiếc ghe về lại đảo Thổ Chu. Phải vài năm sau ông Tư Sĩ mới biết được sự thật về những bè bạn láng giềng của ông đã bị giết chết rất man rợ, không một ai trong số họ sống sót trở về.
Ở hòn Mấu chúng tôi còn gặp lại Nguyễn Văn Toại, con trai của ông Tư Sĩ. Khi chính quyền cũ lập xã Thổ Châu năm 1974, trên đảo có hàng trăm hộ dân với hàng chục đứa trẻ cùng trang lứa sáng chiều nô đùa trên bãi biển với Toại. Anh cứ nhớ mãi những ngày đảo Thổ Chu bị Khmer Đỏ xâm chiếm, ai ở nhà nấy, bạn bè của Toại không thấy ai ra bãi biển nữa. “Buổi tối khi bị Khmer Đỏ lùa mọi người xuống tàu, tui cố nhìn để tìm bạn bè người quen nhưng tất cả đã bị nhốt kín trong chiếc tàu cá”.
Gần mười năm sau (năm 1984), Nguyễn Văn Toại đã tình nguyện nhập ngũ vào đơn vị C3, tiểu đoàn 561 hải quân đóng tại đảo Thổ Chu. Ngày ra đảo, Toại vui mừng khi thấy bia chủ quyền quốc gia ở gần trường học vẫn còn nguyên vẹn. Cảnh vật vẫn hoang sơ không khác trước, nhưng bạn bè tuổi thơ của anh không còn một ai. Hàng đêm khi tới ca trực đi tuần tra canh gác, Toại lại đi dọc bãi biển hòn Mun, bãi Giông, xóm Nẫu. Anh bảo rất nhớ ngôi trường làng mái lá ở bãi Ngự có thầy giáo rất hiền và những đứa bạn học. Sau chuyến tàu đêm 23-5-1975 đó, mãi mãi Toại không thấy được những người bạn thơ ấu lên chín lên mười của mình nữa.
|
LÊ ĐỨC DỤC - QUANG VINH
________________
513 người dân VN bị quân Khmer Đỏ đưa sang một hòn đảo Campuchia và không ai trở về nữa. Đó là đảo nào? Chuyện gì xảy ra? Kỳ sau là tường thuật của một nhân chứng đã đặt chân đến đó hơn 30 năm trước...
Đây, chứng tích thảm sát Koh Tang
10/01/2014 10:35 (GMT + 7)
TT - Trong chuyến đi năm 1982 trên con tàu HQ-1348, tôi đã đến một số hòn đảo thuộc quần đảo Hải Tặc, đã đến An Thới, Phú Quốc nhưng chưa có hòn đảo nào để lại trong tôi suy tưởng và những sâu lắng như ở đây - đảo “Thương Tang”.
Hòn đảo này có tên trên bản đồ là Koh Tang (koh tiếng Campuchia nghĩa là đảo). Nhưng các chiến sĩ trên đảo vẫn gọi là đảo “Thương Tang” để khắc sâu một ký ức đau thương. Nơi đây gần 1.000 người dân Việt Nam và người dân Campuchia đã chết dưới bàn tay tội ác của bọn diệt chủng Pol Pot.
Xác người dưới những gốc dừa
Tôi đến hòn đảo này muốn tận mắt chứng kiến nơi mà những người dân vô tội đã bị chết oan uổng giữa bốn bề biển cả. Tôi đến hòn đảo này còn vì một lý do nữa, nơi đây các chiến sĩ hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế cùng quân đội Campuchia anh em.
“Quân đội cách mạng Campuchia mới thành lập. Chúng tôi chưa đủ sức để bảo vệ các hòn đảo tiền tiêu, các bạn Việt Nam giúp đỡ thì chúng tôi vững tin lắm“. Hôm gặp tôi ở cảng Kampong Som, đồng chí Phong Dót, chỉ huy trường quân sự thành phố, đã nói như vậy.
Koh Tang là một hòn đảo đẹp, nằm phía tây bắc đảo Phú Quốc. Đảo dài 7km, nơi rộng nhất 3km, nơi hẹp nhất chỉ có 100m. Đứng ở nơi này thấy hai bên là biển xanh rì rầm sóng vỗ. Xung quanh đảo có đá ngầm, san hô, có nơi vách đá dựng đứng, núi nhoài ra biển.
Có nơi bãi cát trắng mịn màng, bình độ thoai thoải, tàu lớn có thể vào sát chân đảo. Cây cối trên đảo xanh tươi với các loại gỗ quý như lim, sến, táu, những lâm sản quý như trầm hương, tốc hương, sa nhân, đỗ trọng và rất nhiều tắc kè...
Một buổi sáng sau khi lên đảo một ngày, khi tôi đang đứng ngắm những hàng dừa xanh tươi ven bãi cát, đảo trưởng Nguyễn Đức đến bên tôi hỏi:
- Anh nhìn gì mà chăm chú thế?
- Ở đây có những vườn dừa thật đẹp - tôi nói.
Anh Đức lặng im một lúc. Rồi hàng mi anh chớp chớp, giọng trầm xuống như nghẹn lại:
- Xương máu của đồng bào mình và bà con Khmer đấy!
Tôi sửng sốt:
- Anh bảo sao? Xương máu đồng bào mình?
Trước khi ra đảo, tôi nghe nói là quân Pol Pot đã tàn sát dã man đồng bào ta ở đó. Nhưng tôi không ngờ rằng chúng mang xác đồng bào ta để bón cho những gốc dừa. Tôi gặng hỏi, đảo trưởng Đức xúc động kể tiếp:
- Khắp đảo này có tới trên 2.000 hốc dừa mới trồng từ năm 1976, 1977. Vậy mà hầu như gốc dừa nào cũng có xương người. Có chỗ một gốc dừa đến hai, ba xác chết. Cái chỗ anh đang đứng, khi chúng tôi lên đảo thấy có mấy xác người bị chúng trói tay chân và đập vỡ sọ. Chúng chưa kịp vùi xuống cát. Sau đó các chiến sĩ VN đã mai táng cho họ. Những ngôi mộ đó ở đằng kia...
Nhìn xuống đất, tôi sởn gai ốc. Một cảm giác lành lạnh nơi hai bàn chân. Bây giờ có thấy gì nữa đâu, cát trắng mịn và cỏ xanh. Thế mà cách đây mấy năm, những tiếng kêu rên xé lòng. Và cát thấm máu, đất và cây cỏ thấm máu. Nơi đảo xa này không một ai biết được cái chết sớm đến với họ thê thảm như thế nào.
Những năm thảm khốc ấy không có ai ở đây để trực tiếp chứng kiến. Đầu năm 1979, các chiến sĩ hải quân VN cùng các chiến sĩ quân đội cách mạng Campuchia tấn công lên hòn đảo này. Bọn sát nhân đã xuống tàu và chạy trốn, chỉ còn dấu tích là những bằng chứng sống. Hồ sơ, thẻ căn cước, màu áo, vật kỷ niệm...
Từ những hồ sơ dấu tích ấy mà ghép lại, đối chiếu, so sánh, các chiến sĩ đã có thể kết luận những gì đã xảy ra trên hòn đảo này, những gì minh chứng tội ác bọn diệt chủng.
...Tháng 4-1975, quân Pol Pot đổ quân lên đánh chiếm đảo Thổ Chu của VN. Chúng bắt đi hơn 500 dân đang sống yên bình trên hòn đảo VN. Tưởng chúng đưa hơn 500 đồng bào trên vào Kampong Som, Battambang hay Pursat.
Nào ngờ chúng đã dồn họ lên đảo Koh Tang này. Chúng bắt họ lao động khổ sai và giết dần giết mòn cho đến khi không còn một người.
Chúng bắt họ xây lôcốt, hầm ngầm, làm trận địa pháo, đào công sự, trồng cây ăn quả, khai thác hải sản, lâm sản... Khi các chiến sĩ lên đảo còn thấy những vườn rau, ao cá và đàn bò, đàn heo hàng trăm con, gà vịt chạy khắp rừng. Mấy trăm con người làm cật lực, làm cho đến chết chỉ để nuôi một bọn quỷ đảo.
Những tấm căn cước trên đảo Koh Tang
- Anh đi với tôi! - đột nhiên đảo trưởng Đức quay lại và nói, giọng gấp gáp.
- Đi đâu anh?
- Cứ đi. Rồi anh sẽ thấy thêm nhiều chứng tích...
Anh chỉ một ngôi mộ nhỏ:
- Đây là mộ của hai mẹ con xấu số. Khi ra đảo, anh em đào công sự phát hiện ra. Chúng chỉ vùi cát sơ sài. Chúng trói chặt đứa trẻ vào mẹ. Người mẹ và đứa trẻ bị đập vỡ sọ. Có lẽ chúng giết hồi cuối năm 1978 cho nên tháng 1-1979, anh em bới lên thấy xác họ thịt chưa rữa hết. Trong túi áo người mẹ còn tấm thẻ căn cước đề: Nguyễn Thị Tua, 29 tuổi, ở đảo Thổ Chu, do chính quyền Sài Gòn cấp ngày 20-2-1968...
Chúng tôi đi qua khỏi vườn dừa, vòng ra bãi biển. Ven bờ cát có một cây dương cao vút đứng chơ vơ. Xung quanh cỏ cây mọc rậm rạp.
- Anh nhìn lên cây dương, có thấy gì không? - anh Đức hỏi.
- Một đoạn dây!
Rồi tôi thấy gai người, thốt lên:
- Một đoạn dây thòng lọng.
Anh Đức giải thích:
- Đúng vậy. Đây là nơi chúng hành hình đồng bào ta. Khi mới lên đảo, dưới gốc cây nhẵn thín, hàng trăm dấu chân đè lên nhau. Xung quanh gốc cây chúng còn vứt rải rác gậy, dây trói, búa, dao quắm. Khi ấy anh em còn thấy máu đọng khô lại.
Chúng tôi qua bãi lau rậm, đi trên chiếc cầu gỗ bắc qua hồ nước rồi vòng ra chân đồi. Ở đây có những căn nhà lợp ngói. Một kiểu nhà sàn bốn mái, xung quanh lát gỗ, cầu thang bằng ximăng. Kiểu nhà này là nguyên dạng cấu trúc nhà ở mà người ta thường thấy ở Trung Quốc.
- Đây là nhà của các cố vấn Trung Quốc.
- Sao anh biết?
- Biết chứ! Giấy tờ, tư trang và cả thư của họ để lại mà.
Phía trước căn nhà sàn bốn mái ấy là một dãy hầm bêtông nửa mái nổi. Dãy hầm này mới xây xong khoảng năm 1978, rêu phủ một lớp xanh sẫm ở bậc lên xuống.
Chui vào hầm còn thoảng mùi vôi vữa. Dãy hầm có bốn ngăn. Mỗi ngăn chứa gần 10 người. Ngăn nào cũng có lỗ châu mai hướng ra biển.
Trong số giấy căn cước đã nhàu nát, mối xông, thấm nước, vứt rải rác quanh khu nhà bốn mái này, tôi còn đọc được những địa danh, phần lớn là Thổ Chu, những căn cước khác có ghi rõ quê quán nạn nhân ở Chợ Lớn, Biên Hòa, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Vinh...
Khi sáng, ở ven chân đảo phía đông, tôi còn thấy những chiếc tàu đánh cá loại vừa và nhỏ đã bị hỏng. Có con tàu gối lên bờ cát, cái thì nằm chềnh ềnh giữa lối đi, có cái nửa chìm nửa nổi. Một mảnh ván bị sóng đánh tung lên bờ từ khi nào khô cong, mốc thếch, nứt nẻ.
Một chiếc tàu có mấy chữ số kẻ sơn còn đọc được: KG13..., mấy chữ số tiếp theo bị bong hết sơn. À, bọn diệt chủng Pol Pot chẳng những bắt hơn 500 người dân đảo Thổ Chu về đây, mà chúng còn bắt cóc tàu thuyền đánh cá của ngư dân VN đang làm nghề trên biển.
Bao nhiêu người già, đàn bà, trẻ em? Bao nhiêu người bị đánh đập tàn nhẫn rồi bị chết vùi thân dưới những gốc dừa kia? Chẳng ai trả lời được những câu hỏi ấy.
Đại tá, nhà báo BÙI VĂN BỒNG
Nguồn Tuoitre.vn
Thổ Châu - Hòn đảo bị bắt cóc:Kỳ 4: Đảo xương người
TTO - Khi giúp quân đội Campuchia canh giữ quần đảo Koh Tang, bộ đội Việt Nam mới phát hiện một sự thật đau lòng: mỗi gốc cây trên đảo đều có xương người. Từ đây, những bí ẩn về hòn đảo xương người này dần được phơi bày.
TTO - Khi giúp quân đội Campuchia canh giữ quần đảo Koh Tang, bộ đội Việt Nam mới phát hiện một sự thật đau lòng: mỗi gốc cây trên đảo đều có xương người. Từ đây, những bí ẩn về hòn đảo xương người này dần được phơi bày.