Tim thông tin blog này:

Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2018

"Hữu tướng vô tâm, Tướng tùng tâm diệt. Hữu tâm vô tướng, Tướng tự tâm sinh"

Thời trẻ, lão thích đọc sách tìm hiểu tướng số đông tây kim cổ, cho đến khi gặp câu trên, lão đâm nghi hoặc. Nói xà quầng dzậy quề tiền à, thầy coi tướng số để làm gì?.
Lớn hơn chút, suy nghĩ về cuộc đời, nghiệm ra: Nói chung, cùng trong một tích tắc thì thằng ra đời ở một nước châu Phi nghèo đói, không cần coi số đã biết chắc hậu vận nó đã khác với đứa sinh ở nước Âu Mỹ văn minh. Rồi cùng một thời điểm, hai anh chị em đẻ sinh đôi, chắc chắn là cuộc đời chúng sẽ không bao giờ giống nhau. Và "coi mặt mà bắt hình dong" có đúng có sai rất cảm tính, bé cái nhầm khối người. Thôi quên mịa nó đi!
Nhưng mờ thình thoảng lão về quê dịp Tết gặp ông anh kế nghiệp nghề thầy bói của bà Dì để nghe ảnh nịnh cái số của mình. Trước tiên, ảnh nói: chú cần đặt tiền lấy lộc, tỳ hỉ vài chục ngàn cũng được. Mình nghĩ bụng: anh em mà cũng lấy tiền à, tui cho ông mượn cuốn từ điển Hán - Viêt để ông khè bà con kiếm cơm, sao hổng biết?. Vậy chứ, đâu bi nhiêu, thành lệ rồi, đặt thì đặt!.
Ảnh thắp nhang vái tổ, thiện linh linh, địa linh linh chi đó. Xong ra ngồi xem lá số, chỉ tay, bòi bài cho mình... Rồi nhìn mặt lão, ảnh trầm ngâm phán: đời chú khổ, nhiều trắc trở... nhưng đã có sao chiếu mệnh, có quý nhơn phù hộ..., yên chí năm tới sẽ... Lão gật gật, biết tỏng là xạo nhưng cũng sướng cái bụng. Kết thúc, ảnh đem mồi rượu, anh em giao lưu hỉ hả vì lâu ngày không gặp. Rai rai ít thôi rồi về để ảnh còn đong xiền ba bữa Tết.
Âu cũng là mua lấy niềm vui nho nhỏ. Sau đó quên béng mất ông anh đã phán gì, trúng hay trật chỗ nào...
TC

Nhìn anh Phúc niểng đi lạc rất mắc cười!

Nhất là những hình ảnh ở nghi thức ngoại giao, được chụp trong khoảng khắc bằng máy ảnh tự động tốc độ nhanh. Ảnh hay niểng đầu cuối xuống đã đành mà có vẻ như còn lơ đểnh ít chú ý đến xung quanh và người bên cạnh nên cử chỉ thường là chậm một bước so với người khác. Thanh ra nhìn ông Thủ tướng như người "mất sổ gạo"!
Coi tấm hình dưới, TC tưởng là ghép photoshop để chế diễu, tìm hiểu ra thì là thật.
Xem clip có đoạn hai nguyên thủ ra duyệt đội ngũ danh dự. Thấy thủ tướng Lý Khắc Cường đứng bên phải gần tâm của tấm thảm có ý hai vị cùng đi vào khoảng giữa chiều dài tấm thảm đỏ. Sau khi hai nguyên thủ TQ-VN cuối đầu chào quốc kỳ, ông Cường ngước lên thì anh Phúc nhà mình còn cuối đầu. Xong ảnh cũng ngước lên để đi, nhưng bẻ lái ôm cua bước xéo ra mép gần ngoài thảm, buột ông Cường đành đi song hành theo kiểu chả giống ai trên thế giới. haha.
https://www.youtube.com/watch?v=Ax1chwGMc2g
TC

Chiện ông giáo sư trung hoc "ngông" ở Sè Gồng xưa

Khiet Nguyen
Hình chụp ngày 26 tháng Tám 1971. Người đang dằng co với cảnh sát là Trần Tuấn Nhậm, một người khá nổi tiếng vì có tinh thần chống Mỹ - Thiệu. Nhậm ra ứng cử vào Hạ Nghị Viện với chiêu bài này. Bích chương tranh cử của y ta có hình Tổng Thống Richard Nixon với bộ râu Hitler. Cảnh sát tháo gỡ những bích chương này vì nó mang nội dung khiêu khích và xúc phạm nên Nhậm dẫn một bầy đàn em ra đối đầu với cảnh sát. Sau 1975, không rõ tên này có được ban phát cho chức vụ nào hay là không.

Tám chơi chiện xử em cá bự của Tung Chảo bơi lạc.

Thời chiến tranh, VN tóm được vũ khí, phương tiện hiện đại nào của Mỹ thì giao cho đại ca LX nghiên cứu để sao chép hoặc tìm cách khắc chế. Nay bắt của TQ rồi sao chép thì VN chưa đủ trình độ, giao cho sen đầm Mẽo thì căng à nha, liệu có gan dám giỡn mặt với đại ca Tung Chảo?. Cho nên, biết đâu VN sẽ âm thầm trao trả bé bự bị lạc này lại cho Tung Chảo?
Theo En.wiki thì cũng ngẫu nhiên như vậy, năm 197+ ngư dân TQ vớt được một quả ngư lôi Mark 48 của Mỹ. Từ đó TQ mổ xẻ sao chép nhưng do trình khoa học còn yếu lẫn kinh nghiệm chưa chín nên đã nhiều lần thất bại mới thành công. Có thể TQ nghiên cứu tối ưu bằng cách cóp của Mỹ lẫn Nga. Về hình dáng của ngư lôi các nước khá tương tự nhau, quan trọng là thiết bị ở bên trong tự động tìm và diệt mục tiêu. TQ đã sản xuất và thử nghiệm từ đời từ Yu-1 đến các đời Yu... sau này.
Tuy TQ đã phát triển đến đời Yu-9 nhưng ngư lôi Yu-6 xếp loại hạng nặng - quả do ngư dân Phú Yên vớt xác được là vũ khí chủ lực hiện nay của Hải quân TQ, được phóng đi từ tàu ngầm là chính. Là loại không thuốc nổ dùng để diễn tập, khi bắn thử, ngư lôi có thiết bị định vị và thuốc phát quang nổi lên mặt nước để thu hồi lại. Do trục trặc nên chìm luôn, hải lưu kéo trôi dạt vào bờ biển VN. Nhưng cũng có thể nó là đòn gió, TQ giả vờ bị lạc để đánh lừa Mỹ hoặc dùng để nắn gân Hải quân VN "hãy cái thần hồn!".
TC

Về bài thơ "Vợ tôi dở dại dở khôn..."

Bùi Hoàng Tám
Khoảng năm 1990 khi đó báo Văn Nghệ tổ chức cuộc thi thơ rất hoành tráng. Nhà thơ tật nguyền Đỗ Trọng Khơi được giải nhì với chùm Ánh trăng. Do không đi nhận giải được báo Văn nghệ tổ chức về tận nhà trao giải. Đoàn gồm nhà văn Nguyễn Khắc Trường- Phó TBT trưởng ban thơ Bế Kiến Quốc...
Hôm ấy Hội Văn nghệ Thái Bình tiếp đoàn ở quán cạnh nhà tôi. Dạo đó tôi còn bán thịt chó ở Thái Bình (nhân dân Thái Bình có tặng tôi 2 câu thơ: Thái Bình có chú Bùi Hoàng - Tám bán quán thịt... chó làm thơ hay. Giời ạ tôi làm thơ ra cái... chó gì).
Nhòm qua khe cửa thấy nhà thơ Bế Kiến Quốc đeo kính ngồi quay lưng ra phía ngoài. Tôi bèn gấp mấy bài thơ đưa cho cô con gái khi đó mới 9 - 10 tuổii bảo: Con đem sang đưa cho cái bác đeo kính kia nhé. Nhìn qua khe cửa tôi mong ông giở ra lướt qua cho một cái. Nhưng không. Ông thản nhiên cuộn cuộn nhét vào cái túi như túi dết rồi tiếp tục câu chuyện. Thế là toi rồi. Tôi tự nhủ.
Cũng cần nói thêm ngày ấy được in thơ trên báo Văn Nghệ là niềm mơ ước không chỉ của loại văn sĩ tép riu như tôi. Nếu tôi nhớ không nhầm thì dạo đó lũ văn sĩ ở Thái Bình mới chỉ có khoảng 5 -6 người (nói như quê tôi là chưa đầy một cỗ) có thơ in trên Văn nghệ. Tôi nhớ có lần chúng tôi đang ba hoa thơ phú một nhà thơ đàn anh ngồi lặng lẽ nghe rồi phán nhẹ một câu: Năm một nghìn chín trăm mấy mấy mình có bài in trên Văn Nghệ". Thế là chao ôi cả bọn ngồii im như thóc giống. Vì vậy chuyện được in trên Văn nghệ như một chứng chỉ "bảo kê" cho tầm văn chương "vượt qua phà Tân Đệ". Do đó tuy thất vọng nãp nề nhưng tôi không buồn và cũng mau quên "niềm vinh quang" ảo tưởng đó đi.

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2018

Ngày 2/12/1978, thành lập Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia

tại huyện Snuol, tỉnh Kratie

K76 Chúng tôi viết về chúng tôi: 1969-1976

Từ năm 1965 chiến tranh đã lan rộng tại các vùng quê của tòan Tỉnh Phú yên. Dòng người tản cư về Thị xã Tuy hòa từ các quận trong tỉnh ngày càng nhiều, lứa chúng tôi đa phần về thị xã học tiểu học là theo dạng ấy…
Niên khóa 1968 – 1969 chúng tôi hầu hết đang theo học lớp nhất. Có một số ít các bạn có đủ điều kiện cần thiết thì được vào học ở ngôi trường tiểu học tốt nhất Tỉnh Phú Yên thời ấy là Trường nam tiểu học Tuy hòa . Còn phần nhiều học ở các trường nhỏ có tên gọi Trường tiểu học Bình nhạn, Bình An, Bình Kiến…hay khiêm tốn hơn thì học ở ngôi trường nhỏ bé mới thành lập như là Trường Ấp Tân sinh Bình hòa, Trường Ấp Tân sinh Bình tịnh …Một số đông các bạn học ở các trường nông thôn của các quận mà chiến tranh chưa lan tràn để chính quyền phải đóng cửa trường lớp…Còn một số rất ít thì đang học lớp tiếp liên tại Trường Bình Mỹ, ôn luyện 2 môn Toán và Quốc Văn chờ ngày thi để một lần nữa hy vọng được trúng tuyển vào lớp đệ thất của trường công duy nhất của Thị xã .
Thực trạng thời ấy trong lòng Thị xã có nhiều trường tư thục, việc dạy và học cũng rất tốt như Trường Trung học Đặng Đức Tuấn của nhà dòng Công giáo, Trường Trung học Bồ Đề của giáo hội Phật giáo, Trường Trung học Tân Dân, Trường Trung học Văn Minh… nhưng tất cả đều vướng cái khó cho phụ huynh học sinh là phải…đóng tiền !
Niềm ao ước của chúng tôi và gia đình là thi đậu vào Trường Trung học Nguyễn Huệ
Năm trước khi chúng tôi vào trường là niên khóa 1968 – 1969 ( K75) Trường Trung học Nguyễn Huệ tuyển lựa được rất ít học sinh vào học lớp đệ thất, đó là lớp đàn anh gần kề khóa chúng tôi, ước chừng khoảng 200 học sinh trong hàng ngàn thí sinh dự thi vào trường của toàn Tỉnh Phú Yên tạo một áp lực khủng khiếp cho lứa học trò chúng tôi và cho cả các bậc phụ huynh …Nam sinh chúng tôi mơ được mặc bộ đồng phục toàn trắng, nữ sinh mơ được mặc chiếc áo xanh màu xanh biển để dự lễ chào cờ và học trung học trong ngày thứ 2 hàng tuần…

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

Một mình sống 13 ngày trong vòng vây quân thù

Nguyễn Đình Thi 
(Ghi theo lời kể của Trung đội Trưởng Trần Văn Quý - C9/D6/E24 , quê Quyết Tiến - Xuân Viên - Yên Lập - Phú Thọ)
Bị thương ở mắt , tôi phải trở về hầm y tá băng bó vết thương , nhưng địch vẫn tiếp tục tấn công vào chốt của Đại đội , tôi lại bị tiếp một mảnh đạn ĐKZ xuyên qua hàm . 4 ngày qua đại đội tôi cùng Tiểu đoàn chốt giữ ở đây - bản Pờ Lon ( CPC ) bị địch bao vây vo tròn . Nhìn xung quanh chỗ nào cũng thấy lố nhố địch . Mấy lần Tiểu đoàn tổ chức giải vây cho Đại đội tôi nhưng vẫn không thành . Hôm vào đây đêm 29/2/1978 , quân số đại đội tôi là 86 người , đến hôm nay 4/3/1978 , mới có 4 ngày , Đại đội giờ chỉ còn 16 người . Sáng nay 4/3/1978 , trời chưa sáng , địch lại hò hét , nổ súng tấn công vào chốt chúng tôi . Đạn địch nổ tứ phía . Biết không thể cầm cự được nữa vì người còn ít , súng đạn còn lại không đáng là bao . Tôi bàn với anh Quyền đại đội trưởng :
- Không thể giữ được nữa đâu anh , ở lại đây sẽ chết hết ! Giờ em chạy ra hướng cửa mở , hút địch về hướng đó . Anh cùng anh em còn lại rút theo hướng khác !
Nói xong , tôi lao lên khỏi hầm chạy về hướng cửa mở nơi có Kỷ và Ngọc của Trung đội tôi đang chốt giữ ở đó , kêu lớn :
- Kỷ ơi ! Ngọc ơi ! rút thôi ! mọi người bắt đầu rút rồi ! Tôi cố kêu thật to để Kỷ và Ngọc biết vì trước đó không có cách nào báo cho Kỷ và Ngọc được .
Phát hiện tiếng tôi kêu và chạy , địch quay súng hướng về phía tôi , bắn như vãi đạn . May quá tôi không dính một viên đạn nào . Chạy thêm chừng 200m thì mệt quá không thể chạy được nữa , thấy một bụi le to bị đạn đổ rạp , tôi chui vội vào trong đó nằm , vơ vội ít lá ở ngoài nấp lỗ vừa chui vào và phủ một ít lá lên người để chúng không nhìn thấy . Nằm trong bụi le tôi nghe rõ tiếng chân bọn chúng đi lùng sục ở phía ngoài , tôi nghĩ phen này mình chắc chết , nhưng may làm sao chúng không phát hiện ra tôi nằm trong đó . Chiều hôm đó chúng lại đi lùng sục , tới bụi le chỗ tôi nằm chúng bắn một loạt đạn , do chúng bắn hơi cao tôi lại nằm sát đất nên may quá tôi không sao . Cả ngày hôm đó tôi vẫn nằm im trong bụi le . Tôi biết thế là mình đã nằm trong vòng vây quân thù rồi ! Bao nhiêu ý nghĩ , bao nhiêu câu hỏi cứ xoay quanh tôi . Làm thế nào để thoát được chúng trở về Việt Nam ? Làm thế nào để sống trong những ngày tới ? vì trong tôi lúc này không có một thứ gì ! Vũ khí không , lương thực không , nước không , trong khi vết thương của tôi vẫn rỉ máu , đau nhói . 3 ngày đầu tôi phải nằm im trong bụi le đổ , không dám ra ngoài vì địch liên tục đi lùng sục . Cái đói , cái khát lúc này cũng hành tôi thật dữ dội .

Nhận xét một chút về 3 nhân vật trong hình 12/1980 tại Hoàng Cung:

Ông mặc áo trắng đứng thứ hai từ trái qua, là Đại sứ Ngô Điền. Người nho nhã trí thức, làm đại sứ lâu nhất (10 năm), am hiểu nhất về dàn Lãnh đạo cấp cao của CPC. Ông là "thầy" kèm cặp Hun Sen từ bộ trưởng ngoại giao thành thủ tướng vang danh thiên hạ. Ngày ông về, ra đi không kèn không trống, Lãnh đạo bạn tránh mặt không tiễn ông.
Ông mặc áo trắng đứng giữa hai nữ bộ đội VN là Heng Somrin - Chủ tịch nước. Ông có tướng rất đặc trưng Khmer, ít nói... Lúc ấy, TC thấy mấy anh mặc thường phục đứng xớ rớ trong Hoàng Cung, tưởng là người CPC nên bắt chuyện chơi hóa ra là dân Thanh Hóa. TC hỏi sao vậy? Ảnh nói: do ổng chưa tin người CPC. Thời gian này, bảo vệ vòng trong vẫn còn là cảnh vệ VN, vòng ngoài là bộ đội VN kết hợp CPC.
Ông mặc áo trắng bìa phải, ấy là Bu Thong - người dân tộc thiểu số. Trong dàn lãnh đạo CPC, ổng là người ly khai với chế độ Khmer Đỏ qua VN sớm nhất, trung thành nhất với VN. Đã lãnh đạo dẫn quân dân huyện Ven Sai tỉnh Ratanakiri chạy sang Kon Tum từ năm 1975. Có điều ít cái chữ nên chỉ dừng lại ở vị trí ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bộ trưởng Quốc phòng.


TC - Có thiệt hông dzẫy mấy cha, rồi nó đi đường nào nhỉ?

Hèn nào lính lác xơ múi chỉ được ba cái đồ vớ vẩn!

"Trong quá trình truy kích địch, quân tình nguyện Việt Nam thu được chiến lợi phẩm đều giao ngay cho bạn. Ngày 26-10-1979, Phó Thủ tướng Đỗ Mười thay mặt Chính phủ Việt Nam bàn giao cho bạn số chiến lợi phẩm do Quân đoàn 3 thu được của Pol Pot ở biên giới Campuchia - Thái Lan gồm: hơn 7.000kg vàng, bạc, đá quý, nhiều hòm đồ trang sức, ngà voi, đồng hồ; hơn 30.000 khẩu súng, gần 6 triỉệu viên đạn và hàng nghìn xe các loại2"

Bài thơ: Cõng vợ

Cõng vợ
Đường xa lắm còn mấy con dốc đứng
Vợ ta say, nó chẳng chịu về
Thì ta cõng trên vai ta bước
Phía sau lưng vòng vọng tiếng khèn bè
Đường xa lắm, vợ ta còn say lắm
Uống rượu thì say thôi, ta cõng vợ về
Ta không cõng ta sợ thằng khác cõng
Ta cũng say ta cõng vợ ta say
Đường xa thế chân ta đang mỏi
Cái vợ trên vai nó cứ hát điệu then
Ừ thì kệ, nó say thì ta cõng
Nó đã cõng trên vai mấy mặt con rồi
Đường xa thế dốc cao mây cuốn
Nhà ta kia lưng lững giữa suối ngàn
Ta cõng vợ ngược dốc cao ngược núi
Ngược bóng đêm sấp ngửa giữa thế gian
Rồi đợi nhé, tuần trăng sau xuống núi
Tuần trăng sau phiên chợ lại có rồi
Đợi khi đó ta say thì vợ cõng
Chân của chồng thành chân vợ....thế thôi
Ảnh và thơ Nguyễn Quang Vinh

TC - "Cái giá sau mùi thuốc súng!"

Các Cựu chiến binh thân yêu cùng Các bạn trẻ!

Đa phần các bạn trẻ ngày nay hiểu đại khái từng có hai cuộc chiến gần đây: Một Chiến tranh Biên giới Tây Nam, sau đó quân Việt Nam vượt biên giới tiến công sang nước Campuchia và Chiến tranh Biên giới Phía Bắc. Vì lẽ đơn giản nhà trường chỉ dạy qua loa cho có lệ, gọi là lịch sử! Tôi không có ý định để lèo lái chính trị, không phân tích sâu cuộc chiến. Mà đơn giản tìm một sự đồng cảm trong tình người, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc mình. Và nói về trách nhiệm của Chính phủ là người thay mặt dân đối xử với những người đã cống hiến, kế thừa truyền thống giữ nước của cha ông.

Thế hệ chúng tôi những người cầm súng trực tiếp chiến đấu trong hai cuộc chiến đó khắc cốt ghi tâm hai ngày cùng trong năm 1979: ngày 07 tháng 1 giải phóng Campuchia thoát họa diệt chủng và ngày 17 tháng 2 chống Trung Quốc xâm lược vào phía Bắc lãnh thổ nước ta. Thời gian thật không chỉ là cột mốc hai ngày này mà kéo dài mười mấy năm từ 1975 đến 1989. Viết đến đây thôi, tôi đã xúc động đến rươm rướm nước mắt, nhớ lại đồng đội của mình đã ngã xuống và những bạn bè cùng chung ngọt xẻ bùi với mình. Những đồng đội trở về, giờ đây họ sống chết ra sao?.
Thiết nghĩ cuộc chiến đã đi qua, trở thành một phần lịch sử. Trong xử lý tình huống và lựa chọn đối sách để giải quyết vấn đề "trong lúc dầu sôi lửa bỏng", có đúng có sai là chuyện thường tình. Chính trị đương nhiên là âm mưu thủ đoạn, nhưng không cần phủ màn huyền bí như đạo giáo. Trung ương Đảng chắc đã mổ xẻ phân tích mổ xẻ trong nội bộ nhưng ở mức độ nào đó, Nhà nước cần công khai cho người dân biết - đó mới là Chính quyên chuyên nghiệp và hiện đại! Để thiên hạ không nghĩ rằng có gì đó khuất lấp, để cho Thế hệ trẻ hiểu cuộc chiến mà ta phải tự vệ, qua đó sẽ ý thức hơn về an ninh Tổ quốc và làm chủ tình thế trong tương lai.

Người đương cuộc "sau MÁU không có HOA HỒNG" như những thế hệ từng tham gia chống Pháp, chống Mỹ. Vì sao?. Các bạn biết đến đâu? - chính là câu trả lời về sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến đó. Nói quên thì không hoàn toàn nhưng cố tình lờ đi. Quan hệ ngoại giao tế nhị, nhạy cảm đến độ ấy sao? Liệu ai sẽ tiếp tục cầm súng và bảo vệ cho cái gì? Nếu cha chú của họ mới đây thôi, sau cuộc chiến đã không còn ai nhớ, vinh quang nào cho cái quá khứ hào hùng kia, so với chiều dài lịch sử Dân tộc là còn nóng hổi, mà người ta đã vội quên!.

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2018

Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc

trung quoc.jpg
Dương Danh Hy
1. Người Hà Nam
Tỉnh Hà Nam là cái nôi của dân tộc Trung Hoa, trong sáu cố đô của Trung Quốc có ba cái ở Hà Nam. Thế nhưng thanh danh hiện nay rất xấu, các công ty lớn tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng châu, Thâm Quyến đều không muốn thuê dùng người Hà Nam. Đã có câu nói: “phòng lửa, phòng trộm,(đề) phòng người Hà Nam”, thậm chí tại Thâm Quyến đã từng có biểu ngữ “nghiêm khắc đả kích bọn tội phạm Hà Nam”

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2018

Hà Bá đỡ mấy thằng tui khi sắp rơi vào miệng nước tử thần.

Mùa mưa năm 1979, Đại đội 4 chúng tôi đóng quân ở bản Tà Đẹt, ven sông Sê Kông. Đơn vị có một chiến sĩ liên lạc tên Trúc bị bênh sốt xuất huyết. Do Vũ y tá non nghề không biết được - đây là bênh có nguy cơ tử vong cao. Để lính nằm đơn vị một tuần, sau thấy nặng dần, đái ra máu, mới đề nghị Ban chỉ huy đưa đi bệnh viện. Tôi lúc ấy là trung đội phó, mới tập tành biết võ vẽ chèo thuyền nên xung phong một tay chèo, phụ trách viêc đưa bệnh nhân đi viện. Đi gồm có: Tôi, Y tá, Bệnh nhân và một chiến sĩ dân nghề biển giỏi. Chúng tôi mượn thuyền dân về, tổ chức chèo đi, Vũ y tá không biết bơi ngồi giữa, Bệnh nhân nằm trên sàn thuyền, Tôi đứng trước chèo mũi, Chiến sĩ đứng sau giỏi chèo lái.
Mùa nước lớn, nước đục ngầu phù sa, chảy cuồn cuộn. Thuyền chúng tôi xuôi dòng dọc bờ, đến quãng ngả ba sông hợp lưu giữa con sông Sê Kông có nguồn từ Lào và con sông Sre Pốc từ Việt Nam sang. Chỗ nhập chung phía trên, cách thị xã Stungtreng 4 km, rồi chảy vào sông cả Mê Kông. Đến ngả ba, chúng tôi bẻ lái thuyền, cắt ngang sông để qua bờ phía bên kia là Thị xã Stung Treng, nơi có bệnh viện 21 của Mặt trận 579. Tính là nước chảy mạnh, qua đoạn này thuyền trôi xéo dần về phía cuối là vừa…
Ai dè, đến giữa sông, chúng tôi cảm thấy tay chèo càng lúc càng nặng, mũi thuyền chúi thấp dần, nghe tiếng nước sôi rào rạt ngày càng lớn. Chúng tôi ngó dáo dát, nhìn xem đó là hiện tượng gì?. Thì mẹ ơi! trước mắt phía trên gần đó là một lòng chảo nước to gần bằng cái sân bóng mini ngày nay. Không ai nói với ai, rụng rời hồn vía lên mây!. Tôi khản giọng hét với chiến sĩ lái: chèo mạnh tay vào, cố lên, cố lên... Chúng tôi đem hết sức bình sinh chèo thuyền, với tôi đúng hơn là đập mái chèo xuống nước để nâng thuyền lên, rướn tới. Còn chú cầm lái nạy dầm chèo, ráng bẻ hướng thuyền chệch ra khỏi guồng nước. Tai tôi nghe nước ào ào. ù ù, có lúc như lặng thinh, nhìn vào dòng chảo thấy nó xoáy hình trôn ốc, cuộn vào tâm. Khi thuyền bị kéo vào cách mép lòng chảo đâu chừng dăm mét, nghe nước êm ả lạ thường, kinh hoàng không thể tả!.

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

Đồ tể Hitler gặp lang băm Morell

Đơn cả nhơn vật lịnh sử Hitler, vừa hít vừa le, quá tài khỏi nói!.
Nhưng xui, Hitler tin tuyệt đối tên bác xỹ Morell lang băm, không ai dám cản. Bác xỹ chi mà ở dơ, người hôi như cú, người ta xì xầm thì Hitler bảo vệ: “Tôi không thuê ông ta để ông ta xức nước hoa, mà để chăm sóc sức khỏe cho tôi”. Còn hắn đáp trả trắng trợn: “Tôi tiêm cho ông ấy thứ ông ấy cần”. Hắn tiêm cho Hitler, trên dưới 10 mũi một ngày, đến mức mà trùm mật vụ Goering cũng giật mình và gọi ông Morell là “thần tiêm đế chế Đức”.
Hắn chuyên độ chế thuốc hầm bà lằng, thử nghiệm ngay trên tính mạng Quốc trưởng. Hắn cho Hitler uống trên dưới 100 loại thuốc mỗi tuần. Cho ống cả "biệt dược" được điều chế bằng phân người nên Hitler ngày càng run rẩy, lú lẫn điên khùng. Chính sự mù quáng của Hitler, góp phần làm cho Đế chế Đức cuốc xã sớm tiêu vong.
TC tóm tét từ Hồ sơ bệnh án của trùm phát xít Hitler

ThS Cạo tự cấp mề đay chữ giun và làm tiền đạo trên mặt trận ngoại giao.

Chấp hết! Ai có cái mề đay chữ giun sớm nhất như đồng chí Cạo?
Hồi đó, ông Cục Chính trị hỏi: đồng chí họ tên, đơn vị gì... để phiên dịch ghi vào giấy chứng nhận.
Thượng sĩ Cạo nói: khỏi đi anh để em tự ghi cũng được. Đúng là tên Cạo, tự tin ghê thiệt, thay mẹc chính phủ CPC tự cấp cho mình luôn. há há.

Giờ giàu rồi, có dịp qua CPC lão đòi đồng chí Hun phát cái treo lủng lẳng mạ vàng thiệt mới chịu, không thì kiện lên LHQ.

Chiện hậu chiến trường K

Có ông nhận quyết định ra quân, từ rừng về ở Siêm Riệp nằm chờ xe, nơi có đền Angkor nổi tiếng thế giới. Không dám đi tham quan, cố giữ cái gáo tuyệt đối an toàn để về đất mẹ...
Có ông về rồi nhưng lạc lõng, mặc cảm vì không nghề ngỗng, xin nhập lại hộ khẩu ở quê cũng khó. Phải cuốc đất cực quá, quay trở lại K đánh Pốt kiếm cơm ké với anh em !.....
.....
TC

Bài học đau lòng, nhiều người mất mạng chỉ vì thùng lương khô

Theo người bạn thuộc sư 968 kể:
Trong lúc, quân VN đang đánh nhau ở CPC thì đơn vị ông bạn làm nhiệm vụ chốt chặn ở một tỉnh Hạ Lào. Một ngày nọ, Quản lý (người lo hậu cần cho đơn vị) phát hiện trong kho bị mất lương khô nên bí mật theo dõi... Mới phát hiện ai đó đã lén lấy, chôn dấu ở mé rừng gần đơn vị. Tay quản lý chơi ác, bí mật gài kíp nổ dưới thùng lương khô. Vài ngày sau, người lấy cắp ra moi lên để ăn lén một mình thì nổ, bị thương đơn vị đưa đi bệnh xá cấp cứu.
Vết thương tạm ổn, bệnh xá trả người về lại. Đơn vị họp hội đồng quân nhân kiểm điểm "lên bờ xuống ruồng" và bình xét kỷ luật đương sự. Phần thì bị thương, phần thì bị sỉ nhục, quân nhân đó quá oán hận nên trốn chạy ra rừng, gia nhập nhóm phỉ Lào. Một thời gian, hắn lên làm trùm phỉ, lấy hai con vợ Lào. Hắn tuyên bố với dân: Chỉ trừ ông bác sĩ ân nhân, còn lại bắn tuốt, bất kể là ai.
Xe chở đồ tiếp tế cho đơn vị thường bị phục kích cướp đồ, bộ đội đi lẻ tẻ thì bị bắn tỉa. Vì hắn là người cùng nội bộ, rất rành quy luật hoạt động của bộ đội ta nên nhiều đồng đội đã bị chết oan Đơn vị truy quét nhiều lần, không tiêu diệt được do bọn phỉ ẩn tránh trong núi rừng xa xôi hiểm trở... Sau đó, đoàn Chinh trị cấp trên về đơn vị, tổ chức họp kiểm điểm, xử lý kỷ luật về chuyện này...

TC

Hồ sơ bệnh án của trùm phát xít Hitler (I)

Điều gì khiến trùm phát xít Đức Adolf Hitler suy sụp sức khỏe tinh thần và thể chất trong những ngày cuối cùng của Chiến tranh Thế giới thứ hai? Ngoài lý do Hitler đang bại trận, các sử gia cho rằng còn có nguyên nhân khác là vấn đề sức khỏe.

Nhà độc tài ốm yếu
Ngày 21/4/1945, một bác sĩ tên là Ernst-Günther Schenck được triệu tới boongke của Hitler ở Berlin và được lệnh mang thực phẩm đến để tích trữ. Lúc đó, cuộc chiến của Đức đã thất bại, phần lớn đất nước đã nằm trong tay quân đồng minh. Binh sĩ Liên Xô đã gần như bao vây hoàn toàn Berlin và đang tiến vào trung tâm thành phố. Thay vì chạy trốn, Hitler đã quyết định cố thủ lần cuối trong boongke tại trung tâm Berlin.
Giống như mọi người Đức, bác sĩ Schenck đã quá quen thuộc với các bức ảnh, phim và áp phích tuyên truyền về Hitler kể từ khi hắn cầm quyền năm 1933. Tuy nhiên, người đàn ông mà ông nhìn thấy trong boongke không giống với người trong các bức ảnh đó. Ông Schenck nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn năm 1985: “Hitler 56 tuổi là một cái xác sống, một linh hồn đã chết. Xương sống ông ta còng xuống, xương vai nhô ra từ lưng, ông ta rụt vai như một con rùa… Tôi đang nhìn vào mắt của cái chết”.

Hồ sơ bệnh án của trùm phát xít Hitler (II)

Sau khi xem xét các loại thuốc mà bác sĩ Morell kê cho Hitler, một câu hỏi được đặt ra là tại sao mấy viên thuốc chống đầy hơi của bác sĩ Koester lại khiến các bác sĩ nghi ngờ?


Uống thuốc độc
Nguyên nhân có thể là do các viên thuốc của bác sĩ Koester có hộp đựng, có tên thuốc và thành phần (gồm cây long đờm, cây cà dược và chiết xuất cây nhục đậu khấu). Trong khi đó, các loại thuốc và mũi tiêm của bác sĩ Morell thì không tên tuổi và có phần bí ẩn.
Cây long đờm thì vô hại. Tuy nhiên, hai thành phần còn lại đều khiến người ta giật mình, đặc biệt là khi biết ngoài các viên thuốc khác, Hitler uống tới 20 viên thuốc chống đầy hơi mỗi ngày. Thậm chí, nếu bác sĩ Morell có đọc nhãn trên hộp thuốc thì ông cũng có thể không biết rằng nhục đậu khấu là một loại hạt chứa nhiều lượng strychnine - thường được sử dụng làm thành phần hoạt tính trong thuốc diệt chuột. Còn cây cà độc dược chứa chất atropine - một chất độc có thể gây kích động, rối loạn, ảo giác, hôn mê và tử vong nếu dùng liều lượng cao.

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

Chuyện lính K: Ngả ba Con voi (VIII - hết)

H3 Hùng

Giữa mùa mưa năm 1982, chúng tôi có một đợt bổ sung quân lớn. Đợt bổ sung quân này lấy lính từ miền Tây, quân khu 9. Đất miền Tây dễ sống nên lính miền Tây hay trốn... Lính miền Tây trốn rất dữ, qua Campuchia 10 em, cuối cùng chắc chỉ còn lại 7 em, còn 3 em chém vè về nước đủ cách: trốn trên đường  chuyển quân, trên đường hành quân ra mặt trận, thậm chí vào tới tuyến đầu rồi... vẫn trốn.

Tiểu đoàn tôi phân công người đi đón tân binh tới cấp trung đội, tức là mỗi trung đội có một anh tham gia đi nhận quân. Chúng tôi đi Sisophon đón quân cẩn thận như vậy, đưa vào tới tận Tà-cuông Krao an toàn rồi, cho các em ngũ đêm tại đó, vậy mà sáng hôm sau lại có thêm một số em tự động rời bỏ chúng tôi... không một lời từ giả.

Tôi có một chuyện ở Tà-cuông xin nói luôn ra đây cho đủ bộ: Chúng tôi đi nhận quân, cấp trên trực tiếp của chúng tôi thì có anh Nông Tiến Dũng (trung đội trưởng lúc tôi mới vào đơn vị, nay anh quyền đại đội trưởng). Đêm đó tại Tà-cuông, anh rủ tôi nằm võng nói chuyện, tôi căng võng nằm bên cạnh anh... anh không dông dài gì cả, anh kêu tôi ở lại để chi bộ kết nạp Đảng cho tôi. Tôi thành thật trả lời anh là tôi cám ơn anh, nhưng thôi, tôi muốn ra quân, tôi muốn trở về Việt Nam.

Là người dân tộc chân chất, anh không nói gì thêm và tôi cũng vậy! Về Việt Nam là niềm mong muốn tột cùng cháy bỏng trong tâm khảm mỗi người lính chúng tôi, thực lòng anh cũng như tôi, ai cũng muốn về Việt Nam cả! Anh thông cảm với tôi và không muốn lôi kéo tôi chi thêm vướng bận ở cái đất nước... không phải của mình này. 

Chuyện lính K: Ngả ba Con voi (VII)

H3 Hùng

VÀO TỌA ĐỘ CHẾT 

Rồi một đêm nọ, vào khoảng nửa đêm về sáng, từ cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng đó, chúng tôi xuất kích đánh một căn cứ của địch. Cái cứ điểm này được chấm trên bản đồ hành quân chứ thực sự chưa ai bước chân vào.

Nghe lính tráng nói với nhau, sở dĩ chúng tôi có chiến dịch này là do vệ tinh trinh sát của  Liên Xô phát hiện, họ thấy có căn cứ địch trên dãy Nam Cao Mê-lai nên cung cấp thông tin cho ta, trinh sát ta phải luồn rừng cả tháng trời để nắm địch... Đó là tin của lính, chúng tôi viết chuyện đời lính nên nghe sao nói vậy! Sau này, tôi đọc quyển hồi ký viết về cuộc chiến tranh bắt buộc của đại tá Nguyễn Văn Hồng (đăng trên quansuvn.net) thì biết rằng ông đã phát hiện ra khu căn cứ này khi ngồi trên máy bay trực thăng. Thế mới biết, thông tin của lính sáng tạo ra phong phú thật.

Kế hoạch tác chiến được vạch ra cho trận đánh này là chúng tôi sẽ dùng mìn định hướng để thổi bay mìn của địch làm cửa mở xung phong. Đơn giản như... đang giởn!

Tôi trung đội phó, phụ trách trung đội 4 người của mình, hỏa lực bao  gồm 1 B40, một trung liên RPD và hai cây AK, đi đầu đội hình hành quân của tiểu đoàn. Riêng tôi, tôi đeo thêm một  quả mìn ĐH 10 (chiến lợi phẩm thu được của Pôn Pốt) chúng tôi đi theo trinh sát tiểu đoàn tiến quân vào trận địa.

Chúng tôi hành quân từ lúc nửa đêm dưới ánh trăng trung tuần tháng giêng. Dù đi trong địa hình rừng núi, nhưng ánh trăng vàng rực ấm áp hôm đó vẫn đủ sức chiếu sáng đường chúng tôi đi.

Chuyện lính K: Ngả ba Con voi (VI)

H3 Hùng

MỘT TRẬN ĐÔI CÔNG
Mưa không đủ giải nhiệt nên trời hầm hập nóng, vận động nhiều khát khô cả cổ! Chúng tôi đang chiếm lĩnh một khu rừng chuối, khát quá, chúng tôi chặt những cây chuối non, ăn cái lõi của nó cho đã cơn khát, bất chấp cái vị chát của nó. Thực ra nước trong bi đông còn chút đỉnh, nhưng chúng tôi không dám uống hết phần nước trong ngày của mình, sợ hết nước sẽ chết khát. Cơn mưa hồi nảy chẳng ra gì, chỉ làm ướt chút đỉnh những thân cây chuối non bằng bắp chân mà chúng tôi đang ngã ra làm thịt.

Lại tiếp tục hành tiến, đến tối cả tiểu đoàn dừng lại bên một con đường đất đỏ, ăn cơm vắt nghỉ qua đêm. Cầm nửa nắm cơm vắt khô cứng trên tay, tôi thực sự không muốn ăn tí nào, bẻ bỏ cái vỏ cứng của nó, tôi nhắm nháp cái ruột còn mềm mềm nhai cho qua bửa, rồi xung phong đi lấy nước cho trung đội.

Đeo một xâu bi đông lủng lẳng bên hông, tay xách súng, tôi và nhiều đồng chí nửa cùng kéo nhau đi lấy nước. Theo con đường đất đỏ đi về phía sau, đi lâu lắm, mấy tiếng đồng hồ mới tới được một cái bàu nước. 

Chúng tôi đi ra giữa bàu, ngâm mình dưới nước, vừa nhận bình toong xuống lấy nước, vừa hụp mặt xuống uống nước, vừa ngâm mình vào nước mà nghe da thịt mình nở ra thấm từng giọt, từng giọt nước mát. Bù lại mấy ngày hành quân mất nước thì nhiều mà chỉ được tiếp tế một ngày một bình toong nước, chẳng đủ đâu vào đâu!

Đong đầy các bình toong và uống nước đã đời rồi chúng tôi hăm hở trở về. Về đến nơi thì trời mờ sáng, chúng tôi lại chuẩn bị lên đường đi đánh cái phum không tên.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

Chuyện lính K: Ngả ba Con voi (V)

H3 Hùng

Đang là cao điểm mùa mưa năm 1980, nên lúc này tiểu đoàn 3 ít khi phải đi đánh trận, chỉ ở nhà cũng cố hầm hào, luyện tập kỹ chiến thuật... Chúng tôi được huấn luyện kỹ thuật đặc công, học cách di chuyển trong đêm, thu gọn thân mình, chân bước ngang, đầu không nhấp nhô... để thằng địch ngồi gác không phát hiện được. Chúng tôi còn được tập cách di chuyển trong kinh, rạch, đồng lầy: Hai ngón chân của anh đi sau kẹp nhượng chân của anh đi trước không cho bùn rớt xuống gây tiếng động. Chúng tôi còn được dạy cách mặc quần đùi, cởi trần bôi than, hóa trang cho phù hợp với địa hình, bò trên trận địa gở mìn, đột nhập căn cứ địch, đánh bộc phá mở cửa mở .v.v. Những kỹ thuật đặc công này nó làm cho những người lính chúng tôi thấy mình trưởng thành lên rất nhiều và thấy càng khâm phục hơn những anh lính đặc công tinh thông kỹ thuật đột nhập, ra vào trận địa địch như chổ không người.

Có những ngày mưa nghỉ, hoặc sau thời gian tập luyện... mát trời đi chơi, chúng tôi lũ lượt kéo nhau ra dân. Gia đình ruột của tôi tất nhiên là nhà ba má em Thêng, ông Thư già thì chúng tôi đã gán cho bà tiếng Việt, chú Lợi trố thì kết nhà mê-mai Phương, anh Sau thì có mê-mai Phon, chú Thái liên lạc có me Liên, chú Cử thì chị nuôi là boòng Mit .v.v.

Dân rất thương yêu bộ đội, cánh đàn ông mà tiếp bộ đội thì cái quí nhất của họ là rượu, thì họ đem rượu ra cho uống. Những khi đi thăm nhà cô Thêng, ngang qua nhà anh cô, có rượu mới cất thì anh cô Thêng lấy cái cà-toong ra (cà-toong về hình thức thì hơi giống như cái ngăn gò-mên cơm bên mình) múc từ trong khạp ra nửa cà-toong rượu, mời tôi uống samaki, không uống là không samaki. 

Chuyện lính K: Ngả Ba con voi (IV)

H3 Hùng

12. CĂN CỨ CÔNG-XI-LỐPChúng tôi ở Sophi được khoảng 3 tháng yên lành thì có lệnh rút về trở về đại đội. Đang cao điểm mùa mưa 1980, trước hôm rời Sophi tôi lên nhà me Lênh từ biệt mẹ. Trời về khuya, tôi xôm-lia me (tạm biệt mẹ) rồi bước xuống cầu thang. Trời xui đất khiến thế nào, một con bò cạp chúa nó trốn trời mưa lạnh lẽo, nó chui vào giày tôi nằm cho ấm cúng, tôi thọt chân vào, nó giật mình chích tôi cái bụp. 
Buốt ơi là buốt, nhức ơi là nhức! Cái nhức buốt này đau hơn hẳn cái trái cối 60 ly của thằng Pôn Pốt đầu năm 1979. Tôi kêu lên đau đớn, bà mẹ nuôi của tôi, anh con trai của bà, chị con dâu của bà đở tôi lên sàn nhà nằm đó để bà chạy thuốc chữa trị cho tôi theo phương pháp y học dân gian. Bà nhai lá thuốc rịt cho tôi, bà lấy trứng gà luộc lăn lên vết cắn cho tôi, lấy khăn chườm mát cho tôi, lấy thuốc cho tôi uống... 
Nọc con bò cạp chúa làm tôi sốt mê man, chân sưng phù, to húp. Bà mẹ cứ lăn trứng, thay khăn chườm mát cho tôi, những lúc tôi tỉnh dậy hé mắt ra nhìn thì thấy mẹ chong đèn ngồi đấy, suốt đêm lâm râm đọc kinh cầu an cho tôi mau lành bệnh. 
Tôi thực sự cảm động với tấm lòng thương yêu tôi như con đẻ của bà, để rồi sang năm 1982, tôi lại trở về Sophi lần thứ nhì để tìm tới nhà bà.

Trung đội rút quân về trước, để tôi nằm lại nhà me Lênh điều trị, chờ lành mạnh thì về sau với mấy anh chuyên gia Việt Nam đang ở lại trong phum tham gia xây dựng chính quyền xã. 
Bệnh tình tôi thuyên giãm rất nhanh, sáng ra thì tôi ngồi ăn cháo uống nước được, rồi tiêu tiểu, đi đứng bình thường, chỉ có mu bàn chân phải chổ con bò cạp chích thì còn sưng. Được vài ngày, dân Sophi đánh xe bò đưa chúng tôi rời phum ra lộ 5 để trở về đơn vị, đại đội 13 nay đã lại chuyển về Sophia.

Chuyện lính K: Ngả Ba con voi (III)

H3 Hùng

9.   DON THOMO
Thượng tuần tháng 12/79 tôi trở về Nimith, đêm đó tại bãi tập kết quân giữa phum Sophia trăng sáng vằng vặt, tôi viết thư về nhà mà không cần dùng tới ánh đèn. Lính tráng đốt lửa để sinh hoạt, còn tôi thì tận dụng ánh lửa đó để viết thư. Tôi đang nằm chờ tại đây để hội quân với đơn vị của mình đang trở về từ Cao Mê-lai. 
Đại đội chúng tôi trở về Sophia cũng trong đêm đó, đợt xuất kích này không có tử sỉ, nhưng quân binh tàn tạ vì sơn lam chướng khí, hầu hết quân số đều mang bệnh sốt rét mãn tính. Chỉ còn tôi và một số đồng chí đi học về là mạnh khỏe, là nòng cốt của đơn vị lúc này
Đội quân bệnh hoạn này không tự hành quân được, xe GMC của trung đoàn đưa chúng tôi tiến vào Don Thomo từ hướng Bắc phum Diêng..
Don Thonmo, nghĩa tiếng Việt có nghĩa là Giếng Đá (don là giếng, thomo là đá). Đây là địa điểm mà thời trước, người ta đã cho khai thác đá để làm quốc lộ số 5 và đường sắt đi Poipet.
Đơn vị bạn để lại căn cứ Don Thomo cho chúng tôi cũng đầy đủ nhà ở, công sự, giao thông hào nên chúng tôi cũng không vất vả lắm về việc cũng cố doanh trại... Đại đội ngày càng thưa thớt, các bệnh binh lần lượt được chuyển lên tuyến trên điều trị, có người vào trạm xá trung đoàn, những người nặng hơn thì chuyển về bệnh xá sư đoàn ở Sisophon, nặng hơn nửa thì đi bệnh viện 7E ở Xiêm Riệp.
Cả tiểu đoàn vào đợt cũng cố, ban ngày đào hào cũng cố công sự, tối đến thắp đèn tập bài bắn  ban đêm với mục tiêu là bia mẹ bồng con, tượng trưng cho hai thằng xạ thủ đang bắn đại liên. 
Đêm đêm chúng tôi ngồi canh gát trước đội hình, nhìn về phía Tây thấy sáng rực một góc trời, đó là ánh sáng đô thành... của một thị trấn Thái Lan yên bình, chúng tôi đang ở rất gần cửa khẩu Poipet và cái thị trấn đó, không tới 10km đường chim bay.
Chúng tôi sinh hoạt ở Don Thomo vào mùa khô khá thoải mái nhờ vào các giếng đá tích trữ đầy nước mùa mưa, vào mùa khô mọc đầy bông súng, chúng tôi bứt bông súng làm nộm ăn cải thiện trong những tháng mùa khô hiếm hoi rau cỏ này.

Chuyện lính K: Ngả Ba con voi (II)

5.   NGÃ BA ĐÔNG DƯƠNG
Sau hơn hai tuần điều trị tại trạm xá trung đoàn, khi vết thương chưa lành hẳn, vẫn còn mang băng, tôi được trả về đơn vị với lời dặn có gì thì xin thêm thuốc y tá đại đội uống. Có một cán bộ về trung đoàn họp và tôi được gởi theo đồng chí đó về đơn vị. 
Về đến nhà thì trời tối mịt, anh em kêu tôi lên gặp anh Vịnh, trung đội trưởng mới của tôi, người Quảng Ninh. Đồng chí Vịnh nói với tôi là anh em thấy tôi bị trúng cối, tưởng tôi chết rồi, bị thương như vậy là may lắm đó. Rồi giở ba lô ra, lấy cho tôi mấy trái xoài xanh dú gần chín, anh bảo tôi qua đồng chí Thạch xin lại cái vỏ chăn mà khi đi viện anh ấy giữ dùm cho tôi. 
Tôi qua chổ đồng chí Thạch, anh vui vẽ trả lại cho tôi cái vỏ chăn mà anh đã mang dùm tôi trong khoảng thời gian tôi mang khẩu B41 và 6 trái đạn, cũng như suốt thời gian tôi nằm viện. 

Sáng hôm sau chúng tôi hành quân bộ ra bờ sông Tôn-lê-sáp, tôi còn nhớ hình như hai bên bờ sông đạn pháo các loại cắm vào tua tủa như lông nhím... Tại đây tôi gặp lại anh Lê Hùng Dũng, lính nhập ngũ cùng đợt 03/12/78 với tôi, anh này là bạn làm việc chung cơ quan thành đoàn Thanh niên cộng sản thành phố Hồ Chí Minh với chị tôi. Anh em gặp nhau tay bắt mặt mừng, biết tôi không có võng nằm, anh cho tôi một xấp vải katê xanh thu được của Pôn Pốt để làm võng, tôi cám ơn anh và nhớ mãi tấm lòng tốt này. Anh là lính C12, cùng tiểu đoàn với tôi, rồi chúng tôi sẽ còn gặp nhau nhiều. 

Tối đó, chúng tôi ngũ lại ven sông, trời nóng nực, không có gió, mũi vo ve. Cái tấm vải anh Dũng cho, tôi dùng dây võng cột chặt hai đầu, treo vào thân cây rồi tôi nằm xuống, được một chút thì tôi rớt phịch, đập đít xuống đất. Đứng lên, cột lại, rồi nằm, rồi té mấy lần như vậy... Quả thật không ổn! 
Trong cái khó ló cái khôn, tôi lấy cái vỏ chăn ra, lấy dây võng cột chặt hai đầu làm võng thì lại ổn. Thì ra do vỏ chăn hai lớp, thịt nhiều, dầy cơm nên dây võng níu chắc được, lại thêm cái võ chăn còn được may gấp nếp nên khi túm lại cái nếp gấp này làm thành cái khất. Dây võng mắc vào cái khấc đó khá là chắc chắn. Làm được cái võng này rồi, tôi mới ổn định mà nhắm mắt ngũ được qua đêm. 

Chuyện lính K: Ngả Ba con voi (I)

H3 Hùng
Chào các bạn, tôi tham gia chiến trường biên giới Tây Nam được 3 mùa khô và 4 mùa mưa, trong đội hình tiểu đoàn 3, trung đoàn 4, sư đoàn 5, quân khu 7 (sau 4/79 trực thuộc mặt trận 479) đã từng trãi qua những trận đánh ở Âm-leng tháng 3/79, công-xi-lốp tháng 6/80 và thường xuyên đi đánh Phnom Melai trong các năm 80-81-82, tôi thường hành quân vào Cao Mê-lai từ hướng đít của con voi, nên tôi đặt tên tập hồi ký của mình là NGÃ BA CON VOI. 
Đối với lính trung đoàn 4 thì ngã ba con voi (Nimith) và Cao Mê-lai là những địa danh cháy bỏng lòng người... tôi quyết định sẽ kể ra đây cho các bạn nghe và tôi hy vọng rằng sau này sẽ có những quyển hồi ký hay hơn nửa về MỘT THỜI MÁU ĐỔ THÌ NHIỀU MÀ HOA THÌ KHÔNG CÓ ĐÂU!
Những chuyện tôi sẽ kể ra đây thì sẽ tốn nhiều thời gian của các bạn đấy, tôi xin lập chủ đề mới là NGÃ BA CON VOI

1.   RA CHIẾN TRƯỜNG

Chúng tôi đến Kompong Thom vào một buổi trưa trung tuần tháng 2/1979. Đêm qua chúng tôi ngũ tại Sa Mát trong nhà một bà mẹ đang để tang ai đó, chúng tôi ngũ trong tiếng mõ và tiếng kinh cầu siêu trầm buồn ray rức... Sáng nay, sau khi qua biên giới Campuchia, xuyên qua những con đường đất đỏ bụi mù, đứng trong thùng xe GMC chúng tôi đón nhận những rừng cánh tay của phụ nữ và trẻ em Campuchia vẫy chào đoàn quân tình nguyện Việt Nam qua đánh đuổi bọn diệt chủng Pôn Pốt. 
Thỉnh thoảng ngược chiều với hướng di chuyển của chúng tôi, một vài chiếc GMC chở xác tử sĩ căng phồng trong những bọc nylon, phía trên là những cành lá ngụy trang che nắng. Đường đất đỏ gập ghềnh làm những bọc xác tử sĩ nẩy phập phồng... 
Tôi là một tân binh nghĩa vụ mới bước qua tuổi 19 được 2 tháng đang háo hức bước vào cuộc chiến tranh bắt buộc với hành trang là 80 ngày huấn luyện quân sự và chưa có bất kỳ một khái niệm nào về chiến thuật tấn công hoặc phòng ngự trận địa...

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

Chiện lính K: Động thực vật ở Cao Mê Lai

CHUYỆN Ở RỪNG_Động thực vật ở Cao mê lai.
Loài muỗi độc mang mầm bệnh sốt rét ác tính truyền khẩu gần trăm năm mà người Pháp phải làm tượng voi quay đầu minh chứng thì đã nói rồi. Nhưng ở nơi nầy còn rất nhiều sinh vật và thực vật nếu cộng lại cũng không thua gì dịch sốt rét ở Cao mê lai.
Có hai loài mang nọc thường khu trú ở chốn rừng già là rết và bò cạp, hai loài vật mà ở Cao mê lai đang đi bất chợt gặp bạn phải giật lùi. Những con rết rất to, có con bằng cở ngón chân cái người lớn.Bọc trên mình lớp vỏ giáp cứng sáng óng ánh với những cặp chân chi chít bắng cọng tăm xỉa răng. Đáng sợ nhất là hai cái càng nó luôn nhô ra hai bên, cảm giác bình thường nó chỉ cần kẹp không thôi đã sứt thịt chảy máu. Cái giống nầy hình như chẳng biết sợ con người. Chúng cứ tự nhiên lao qua trục đường dù đang có hàng chục đôi chân hành quân rầm rập. Chúng lại chạy rất nhanh chứ không phải chậm chạp lò dò như rết ở đồng bằng. Đôi lúc nó nhằm thẳng hướng người mà bò nhanh tới khiến anh em phải tháo chạy tránh xa. Mùa đông giá lạnh chúng hay tìm những nơi có hơi ấm để trú ngụ. Ác thay nơi lý tưởng nhất của chúng là ở những chiếc vớ của lính ta. Anh em nào cẩu thả không nhớ lời dặn dò của lính đàn anh, hấp tấp mang khi chưa giũ giầy vớ thì cầm chắc có lúc sẻ bị chúng quặp cho một phát nhớ đời. Tôi đã từng nhìn thấy một anh em bị như vậy. Chỉ nghe một tiếng thét lớn nhìn lại đã thấy anh chàng bị nó chích mặt mày tái xanh, mồ hôi rịn ra ngay trên trán. Sau đó thì tay chân run lẩy bẩy, mắt trợn trừng nằm vật ra mà rên ra. Mà đâu chỉ một nhát đâu, kẹt trong giầy vớ có khi nó quặp cho mấy phát. Những phát sau chỉ thấy người giật giật như động kinh chứ không la. La gì nổi khi phát đầu đã đau đến điếng hồn rồi.Lên cơn sốt mê man, miệng thì không ngừng rên ư ử, bỏ cả ăn. Nhẹ thì một hai ngày gượng dậy được, nặng thì có khi phải chuyễn lên quân y. Cái giống bò cạp thì bị cũng tương tự như vậy. Chích ngay tay thì đau lan tới nách. Chích ngay chân thì lan giật giật tới háng là bình tường. Nhiều anh em bị trong khi đang trên đường ra ca gác đêm, tiếng thét đau vang xa chắc phải cả gần cây số. Nhưng dầu sao cả hai loài nầy rất to nên còn dể phát hiện. Và cẩn thận nhất là trước khi xỏ giầy vớ, mặc quần áo thì nên giũ mạnh mấy cái để lở chúng có bám sẻ bị rớt ra, tránh được nguy cơ bị chúng chích, một thói quen đến bây giờ tôi vẫn còn giữ.

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

Nghiệm về sự học hành và cái hậu canh bạc cuộc đời XHCN.

Xem cái tút (link dưới) làm TC nhớ chiện mình thi môn văn thời bao cấp. Số là tới 1975, lão đang học hành dang dở thì đi bộ đội, rồi từ K trở về tỉnh đội. Công việc nhàn nhã nên có điều kiên ghi tên học 12 BTVH để lấy bằng cho nó xong món nợ phổ thông. Học tà tà cho có thôi, đến ngày thi môn Văn, đề ra yêu cầu bình luận về cuốn "Bất khuất" của Nguyễn Đức Thuận. Lão như mở cờ trong bụng, đảng viên rành 6 câu vọng cổ quá mà, biết tẩy ngay, họ cần cái gì? Thế là cắm đầu viết một mạch, trong khi đó mấy em công nhân viên ngồi cạnh cắn bút nghĩ suy. Lão ca khí tiết người CS lên giời, ngược lại chửi chế độ cũ và đế cuốc Mỹ tan nát, kiểm tra chính tả xong nộp bài trước quy định, dĩ nhiên là điểm cao. haha.
TC từng trải qua hai chế độ ở hai Miền và cũng là người sau này tham gia vào bộ máy mới, có điều kiện hiểu biết so sánh nên không đến nỗi cuồng lý thuyết. Phải công nhận "lý tưởng Cộng sản" là điều có thật, không ít người đã hy sinh vì ý thức hệ mà họ tin, tuy nhiên không nhiều trong cái số đông mang nhãn mác. Thế hệ kế thừa ngày nay, nhìn chung hầu như có vỏ mà không có ruột, một phần cũng do giáo dục kiểu "vừa hồng vừa chuyên" không coi trọng sự thật và danh dự của con người nên nó sinh ra tầng lớp "hạt giống đỏ ăn theo nói leo". Đến khi thất thế mới lộ bộ mặt hèn hạ trước thiên hạ.
Đơn cử như Đinh La Thăng, xin lỗi Đảng Nhà nước, nghe trái tai vì tổ chức là cơ quan được ủy nhiệm. Lẽ ra chỉ xin lỗi Nhân dân thôi vì anh đem tiền dân vào canh bạc cuộc đời mình. Tại tòa, anh là ủy viên BCT mà cầu cứu TBT (thay vì cơ quan xét xử) - là sai về nguyên tắc tổ chức Nhà nước. Xin người ngồi cùng mâm là sai nguyên tắc Đảng. Lại lôi ông cha già lão thành cách mang, già yếu sắp "quy tiên" vào đỡ án là trái đạo lý làm người. Hay như Trịnh Xuân Thanh, còn ở Đức thì coi Tổng Trọng không ra gì, bị bắt về VN ra tòa thì xưng cháu xin lỗi bác Tổng Bí thư... nghe hài hước lắm, làm trò cười cho dân chúng. Điều đó làm cho dân khinh thường...

TC - Tâm thần phân văn liệt,

Lão nói với mụ vợ: Tâm thần phân liệt khó nhận ra lắm nha bà. Có người tỉnh như sáo, nói chiện mạch lạc trên trời dưới đất, hổng ai ngờ đâu. Đối với thế giới, tâm thần là chiện phình phường, như tui đây sốt rét bị chập dây mấy lần, đâu có sao!.
Mụ bảo: Giờ ông cũng vậy, chứ gì nữa, lắm lúc... Lão chống chế: Bà thấy có thằng nào bảo tui khùng chưa?. Miệng nói cứng dzậy nhưng bụng cũng hoang mang, đâm ra nghi ngờ chính mình.
Hổng phải ngẫu nhiên mà TC chơi ảnh tường với avatar như dưới. Tâm thần phân liệt chứ chẳng đùa, nhớ thời oánh nhau loạn xạ trên mạng:
Nguyentandung đòi cấp bằng động phản cho TC thì Quanlambao (kẻ thù của ông Nghìn cân) lại tố TC là gián điệp của tướng Hưởng, đệ của Tintuchangngay tận bên Đế cuốc. TC thọt vịt kiều nhựt Hà Minh Thành phưởn động để bảo vệ quy tín nhà nác thì Thánh Đào (bị NN bỏ tù) lại cho rằng TC là tình páo Hoa Nam.
Chưa kể hai em Lý Nhã kỳ cơm gà và Hằng Canada giang hồ đều rượt anh Cạo chạy dài. haha
Người ngoài mới biết, thấy tui sao hả pà con? nói thiệt tình đi.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2018

TC đi bảo vệ đường - "mình cứu chúng nó mà nó nã cả mình!"

Chiện trời ơi đất hỡi trong lúc làm nhiệm vụ ở K.
Giữa năm 1979, đơn vị phân công trung sĩ Cạo dẫn lính đi tuần tra bảo vệ một đoạn của QL 13 - tuyến TX Sung Treng đi huyện Siem Pang, qua Lào... Quân ta men theo mé rừng dọc ven đường, đang lò mò quan sát thì phát hiện mấy thằng Pol Pot lố nhố cách xa, lản vản như muốn phục kích xe. TC chỉ mục tiêu, anh em định tiếp cận đánh... Thì bỗng nghe tiếng xe từ hướng Siêm Pang chạy đổ về, nên cả bọn bắn vội về hướng địch để phá thế phục kích đồng thời báo cho cho xe đơn vị bạn nghe tiếng súng biết.
Ai dè, xe không dừng, chạy ào ào đến, lính trên xe nổ súng bắn dọn đường, nghe toang tác trên đầu. Báo hại, tụi minh phi nhanh vào ụ mối nấp, né đạn. Chiếc xe chay vù vù qua... Hết hồn, trung sĩ Cạo chửi: "Đu me như cái con kẹt! mình cứu chúng nó mà nó nã cả mình, may mà không đứng vẫy tay chào, chắc có thằng tác gáo!".
Ngày kế tiếp hên, Bọn mình phát hiện một bầy heo rừng vài chục con đang từ rừng đi cắt ngang qua lộ. Đứng quan sát nhìn thấy rõ con đầu đàn rất to đứng vệ đường bảo vệ cho đám heo qua, nên cũng ngán. TC nói lính canh me tốp cuối có mấy con nhỏ mới bắn, chết 2 được con. Làm thịt, nấu nướng ăn luôn tại chỗ. Êm răng! gỡ gạc xả xui nên mấy anh mới hết hậm hực. hehe. Hôm sau cả bọn rút quân về đơn vị để tốp khác thay ...

TC

Tám chơi, chiện "Đội quân viễn chinh Đại Nam cuốc".

Trêm một diễn đàn CCB chiến trường K, có ông còm nói cần phân biệt: "lính" là ngụy... còn "bộ đội" là phe ta. Lão mới bình: Lính nào chả lính, đều là thân phận con người cầm súng, đâu phải gọi "bộ đội" là danh giá hơn "lính". Cái quan trọng là anh đã làm gì?. 
"Lính" là từ bình dân cho mọi quân đội. Với QĐND, chỉ huy thường quở la "lính tráng" do thằng nào cũng như thằng nấy hay "lính lác" do hay bị bệnh hắc lào, ghẻ lở ngoài da. Lính với nhau cũng vậy.
Quả thật, cái ông trên nói có phần đúng! Ngẫm thêm, thế nào là "bộ đội"?.
- Nội cái tên, đã là đội đi bộ. TC gọi đùa là "đội quân viễn chinh Đại Nam cuốc". Cũng cặp giò ỏng eo ấy, khi cần thì vượt biên giới qua nước khác, đánh rồi rút, rút rồi sang đánh tiếp...
Có những khi, TC cùng đồng đội đi truy quét lùng sục tìm quân Pol Pot, ở đâu cũng thấy dấu vết của lính ta (có thể cả quân VN thời đánh Mỹ nữa). Dù đến những nơi xa xôi rừng rậm đến mấy, thậm chí bắn bò tót bị trật, nghe tiếng súng mà chúng ngơ nhác không chạy vì chúng chưa từng biết.
Có lần mình chứng kiến đoàn quân đơn vị của chủ lực hành quân băng rừng từ hướng tỉnh Kro Che lên. Anh nào anh nấy ốm o, nước da mai mái của bệnh sốt rét rừng, đi như theo quán tính. Nhìn thật nhếch nhác, thảm não làm sao!. Bộ đội có thói quen vác súng trên vai do nó dài và nặng so với chiều cao, trọng lương của người lính Việt. Trên vai thì mang cái ba lô lép xẹp, có anh mang túi dết (dùng túi mìn clay more đựng đồ thay ba lô) cho ra vẻ "cán bộ' (để hành trang gọn nhẹ hơn). Đạn các loại mang theo lèo tèo 2-3 băng, vài quả B40.41.., TC nghĩ bụng: chắc mấy cha lén vứt bớt hay nhân cơ hội có giao lưu với địch dọc đường, bắn xả bớt cho mang đỡ nặng. Thử nghĩ mỗi người 40-50 kg, nếu trang bị như quân độ "Đế cuốc phương Tây" thì làm sao đi bộ đường dài, vận động đánh địch, chạy sao nổi !.
Mà chưa chắc đi xe đã là ngon!. Lính ta mấy khi được ngồi xe, có chăng là hành quân cỡ 50 km trở lên. Mà đâu sướng gì, gặp xe Zin Khơ LX thì nó dồng cho khỏi nói, mông ê ẩm, ruột gan lộn tùng phèo!. Xe bị phục kích trúng mìn thì có khi phăng teo cuộc đời. Chính vì vậy, nên lính trên xe thấy chỗ nào nghi có địch ẩn nấp ở hai bên đường là nã đạn thí xác.
Đi máy bay thì cực hiếm, do nhu cầu chiến trường cấp tốc nên lính mới có dịp đi mây về gió. Ai tính cẩn thận, không sợ mới lạ... TC thấy máy bay LX chi mà trống huê trống hoác, nội thất giản đơn không như của Mỹ đã mình từng biết... Kiểu gì cũng ngán....
TC

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

Xử án thời xưa - Từ gô cổ đến nọc ra đánh

Lính đóng cùm phạm nhân, dẫn đến tòa
Hình 1: Phạm nhân nghe quan phụ luận tội
Hình 2: Quan chánh tra hỏi và PN nhận tội
Hình 3: Cấm cãi, PN đành thú tội
Hình 4: Nọc PN ra đánh, bao nhiêu gậy theo phán quyết của quan
Có cái chày đồ đùng để đóng cọc, cố định phạm nhân phải nằm để bị đòn đâu không thể bỏ chạy.



Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

Kỷ vật của TC - Ấn tượng về cái khăn rằn đa dụng của người Khmer

Rời Campuchia, TC mang theo 4 món: Chiếc áo quân Pol Pot, chiếc đèn pin, chiếc khăn kro-ma và hộp cạo râu... Trong đó, chiếc khăn Kro-ma là cái mà lão giữ được đến bây giờ.
Chiếc khăn làm bằng tơ, Thái sản xuất, do ông già đi buôn bán từ Phnom Pênh đem về cho. Không rõ nể nang hay hối lộ ông cố vấn xã vì ổng không có thiện cảm với bộ đội VN. Ổng có con trai là đầu sỏ địch ngầm đã chạy vào rừng, bị thượng sĩ Cạo đưa vào đầu bảng lưu ý theo dõi nên cho để lấy lòng chăng?... Hồi đó, có được cái khăn Thái là hảnh diện lắm vì dân thường dùng loại vải đệt, sọc đen trắng là chính. 
Cái khăn Kro-ma gắn gó với mọi người Khmer trong mọi sinh hoạt đời sống. Lúc nào cũng mang theo nó, từ ở nhà, đi ruộng, đi làm, cho đến đi chơi, đi lễ hội... Họ dùng nó bọc đồ ăn, bọc đồ ạc vật dụng linh tinh.... Để đội đầu, quấn cổ, quấn khăn tắm, chùi mặt lau người. Đàn ông còn buột ngang eo  cho nam tính, dùng quấn như váy (trong mặc quần đùi) cho mát. Dù người Thái, Lào... cũng dùng nhưng bằng người Khmer.  Hình như dưới thời Khmer Đỏ, nó được coi như biểu trưng của dân tộc, nên bất kỳ ảnh nào, từ cán bộ cấp cao dân quèn đều thấy khăn rằn quấn cổ.
.....
38 năm rồi, nó vẫn mềm mại tươi màu

Chuyện ít người biết: Bộ đội chiến trường K có những lính mất chất, bất mãn bỏ đơn vị đi làm phỉ.

CCB sư 315 Khai Tuan kể:
Cuối năm 1984, đơn vị tui rút về Sì Si Phon, nơi sư đoàn 5 đóng quân, đại đội 13 của tui đang hành quân, cặp dưới chân một ngọn núi, thì có một chiếc xe zíp, chở ông đại tá sư đoàn 5 chạy tới dừng lại, anhThanh đại đội trưởng tập hợp anh em lại, báo cáo với ổng xong. Ổng quán triệt anh em chúng tôi, nếu bắt được một bộ đội bụi, tính công bằng ba thằng pôn pốt, hoặc bắn chết tính cũng vậy .?
Chắc các bạn thắc mắc, sao bội đội bụi là sao.? Mà một mình nó bằng ba thằng vậy.? Đó là một số bội đội bất mãn hay vi phạm kỷ luật nặng, bỏ đơn vị xách súng đạn đi, tập trung lại thành nhiều nhóm, với quân số tương đối đông, rồi đi cướp bóc, trấn lột, khắp mọi nơi làm ảnh hưởng rất nặng đến qui tính quân đội, nên mấy ông lớn này rất cay cú còn hơn bò đá,mấy ổng, cần phải tiêu diệt ngay nên gặp đơn vị tui đang hành quân cặp dưới chân núi lại quán triệt liền.!
Nguồn trích đẫn:
https://www.facebook.com/khai.tuan.900/posts/235192280686104

CCB sư 5 Đức Thảo Nguyễn kể
Có một lực lượng là một trong số đối tượng tác chiến của Sư đoàn trong thời kỳ nầy mà ĐT ít được nghe nhắc tới là " lính bụi...". Đó là những quân nhân Việt nam do lý do cá nhân gì đó bỏ đơn vị tập hợp tổ chức thành một lực lượng hoạt động mạnh nhất là tại địa bàn Si sô phon và các vùng phụ cận. Mới đầu lực lượng nầy chủ yếu dựa vào đường buôn với các tổ chức, móc nối đưa đón dân buôn từ các nơi đổ về thị trấn Si so phon rồi theo các ngã sang các khu chợ trời đường biên trên đất Thái lan mua hàng hóa. Sau đó lại dẩn dắt dân buôn chẻ về nội địa cung cấp hàng hóa cho các nơi, sang cả Việt nam. Vì khu vực Si so phon mà trọng điểm là khu vực Đăng cum, nơi có 4 con đường buôn lớn là nơi điểm tập hợp nên càng ngày mức độ đi buôn của dân chúng Cam pu chia càng có tổ chức và tinh vi hơn nên lực lượng nầy ngày càng lớn mạnh lên nhiều, lôi kéo được nhiều quân nhân bất mãn đơn vị bỏ ngũ tham gia. Cao điểm lực lượng nầy có số lượng tập trung tương đương đến cấp trung đoàn, có cả hỏa lực cối 82mm và cả bác sĩ điều trị nếu bị thương.

Vài vụ đơn cử: Bộ đội K vi phạm kỷ luật chiến trường bị tử hình ...

"Đầu năm 1979, tiểu đoàn 14 Tây Ninh, đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang, nổi tiếng gan lì, một chọi 100 thời đánh Mỹ đã dính 1 trận đau khiến toàn quân thời đó rơi nước mắt.
Bọn Polpot trà trộn vào phum khống chế dân để lập trận địa mai phục, dùng dân CPC làm lá chắn sống cho chúng. D14 có phần chủ quan (vì đã khá quen thuộc địa bàn) nên vào phum mà không triển khai đội hình tác chiến nên bị tập kích dồn dập. Đạn B40, B41 xé gió dội lửa vào đội hình chính, lựu đạn thủ pháo từ nhà sàn ném xuống như mưa, đạn nhọn bắn như vãi trấu.. Ngay những phút đầu tiên, D14 bị tổn thất nặng nề, mất quyền chủ động nên buộc bắn trả cầm chừng để rút ra ngoài.
Sau khi tập hợp được lực lượng, D14 tấn công vào phum. Diệt được hơn 30 tên Polpot, bắt sống khoảng 20. Nóng máu vì bộ đội bị hy sinh quá nhiều mà đám tù binh thì luôn miệng chửi “Kh’măng Duôn’ (Giặc VN) nên BCH D14 ra lệnh xử bắn tất cả.
Ngay ngày hôm sau, quân pháp mặt trận 719 về bắt toàn bộ sĩ quan của D14 đưa về biệt giam ở Đồng Pan (Tân Châu, Tây Ninh). Tòa án quân sự mặt trận kết án tử hình 5 người gồm: Tiểu đoàn trưởng (đại úy Hạnh), 2 tiểu đoàn phó, 2 đại đội trưởng. 14 người nhận án tù từ 15 năm đến chung thân..."
(Trích từ Lê Vũ)
.....

"Tháng 2/1979, ... Hoàn thành nhiệm vụ truy quét phía Bắc thủ đô Pnom Pênh bên bờ Bắc sông MêKông thì trung đoàn được lệnh trở về tỉnh Công Pông Spư . P.A.S sử dụng 3 chiến sĩ trinh sát cùng anh đi khảo sát địa hình chuẩn bị vị trí đứng chân của trung đoàn. Khi qua một cánh đồng không rộng, có mấy ngôi nhà ở dọc bờ suối, mùa khô không có nước, không một bóng người. Riêng anh có thấy một cô gái CamPuChia khoảng 20 tuổi mang gùi đang làm gì dưới suối. Nhóm trinh sát vẫn tiếp tục đi khảo sát địa hình nhưng không phát hiện được gì. Đi được khoảng năm trăm mét thì P.A.S bảo các trinh sát ngồi nghỉ, anh quay trở lại chỗ vừa thấy người con gái. Đến nơi cũng là lúc cô gái từ dưới suối đi lên. Không kiềm chế được mình, như một định mệnh, anh rút súng ngắn cầm ở tay, buộc cô gái kéo váy xuống, anh ôm lấy cô gái. Sợ quá cô gái CamPuChia không giám chống cự, buông lỏng mình cho P.A.S hành động. Hành động xong P.A.S trở lại với các chiến sỹ trinh sát trở về trung đoàn như không có chuyện gì xẩy ra. Nơi cô gái CamPuChia vừa bị hiếp, sau đó vài giờ có 2 chiến sỹ bộ đội Bạn đi qua. Cô ấy sợ hãi kể hết với họ những chuyện vừa xẩy ra và cùng họ đến tại Trung đoàn bộ nhận mặt P.A.S. Một ngày sau đó P.A.S bị Viện Kiểm Sát quân sự Quân Đoàn 4 ra lệnh bắt giam. P.A.S đứng dậy nghe xong lệnh bắt, anh giơ hai tay run rẩy tra vào vòng thép trắng số 8. Mặt anh thuổn ra, da tái nhợt, chân khuỵu xuống, người nhũn như lá chuối héo. Hai đồng chí vệ binh quân đoàn cầm tay, xốc nách, kéo lê P.A.S lên xe đóng sầm cửa lại. Người đồng đội mới vừa nãy đây thôi, bổng chốc bị quẳng lên xe như một con vật vô tri. Những người được chứng kiến sự việc này thật ngỡ ngàng, bất ngờ, mông lung khó tả… Tòa án quân sự Quân đoàn 4 tuyên án tử hình P.A.S"..."
(CCB tham gia Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân sự Quân đoàn 4, kể)
....

"Ngay khi mới giải phóng Campuchia, vào khoảng tháng 1-2.1979, TC nghe tin: Có một hạ sĩ tên NQA quê huyện Tuy Hòa PY, là lính thông tin của một đơn vị thuộc Mặt trận 579, can tội hiếp dâm. A dụ cô gái Khmer đi theo để A chỉ kho lương thực... Lợi dụng chố vắng bên suối, A cưỡng hiếp nhưng không thành, sau đó cô gái tố cáo. A bị bắt đem ra Tòa án quân sự xét xử, có sự tham gia các nhân chứng. án là tử hình. Nơi xử bắn ở cây số 3 thị xã Stung Treng.
Lúc đó tôi đang đóng quân gần đó nhưng không đi xem tử hình. Sau này, TC nghe phong phanh, có người bảo tử hình giả, có anh lớn tuổi hơn thì bảo thời đánh Mỹ ở Lào cũng xử kiểu đó. Có lẽ cách này lại hay, vẹn đôi đường. Lúc ấy tôi tin, không thể có chiện đánh lừa chính quyền, nhân dân bạn nên không hỏi vặn chuyện này.
5-7 năm sau tôi gặp thằng bạn cùng lính K cùng quê hỏi, nó nói: Mình cũng nghe có người bảo A không bị bắn, cũng bán tín bán nghi nên đi tìm đến tận nhà và gặp A. A kể bị bịt mặt đưa lên xe thùng đến pháp trường (có lẽ là chở cùng xe với tù binh quân Pol Pot). A không biết ai bị bắn (thì có thể đoán ta bắn tù binh thế mạng). A được đưa về nước ra Bắc cải tạo, ra tù về quê làm ăn."
(Thợ cạo)
.....

"Trong số cán bộ F320 có anh Quách Q. là D phó trắng trẻo trán hơi hói hay nói chuyện với tôi . Một năm sau ,năm 1980 tôi được cử đi dự buổi xử án của Tòa án quân sự Quân đoàn 3 tổ chức ở rạp hát thành phố Thái nguyên .Sau phần xử 1 vụ tự thương bất ngờ thấy quân cảnh dẫn Quách Q ra trước vành móng ngựa .
Bất ngờ và ngạc nhiên hơn là nội dung vụ án mà anh là bị can . Khi sư 320 tiến xuống Tà Keo trong một trận đánh D của anh bắt được mấy tên địch cả nam và nữ , có lệnh rút tiểu đoàn đã hành quân chỉ còn anh, liên lạc và vài trinh sát đi sau với tù binh . Bọn tù binh ngoan cố không chịu đi ,nếu dùng dằng sẽ bị bọn Miên quay lại tấn công nguy hiểm nên anh đã cho xử và lột lấy đồng hồ ở một tên nữ
Ra tòa làm chứng có 1 trinh sát và liên lạc , cả 2 người cùng xác nhận diễn biến , tay trinh sát khốn nạn còn nhấn mạnh chuyện khi bắn xong anh còn hỏi hắn có muốn xem thân thể phụ nữ không làm hắn ngượng và đó là tình tiết tăng nặng ? Quách Q. vừa khóc vừa thừa nhận những gì tòa nêu . Cuối cùng tòa tuyên án Quách Q .18 năm tù vì phạm tội giết người cướp . Cả hội trường rộng lớn lặng ngắt , rất nhiều sỹ quan từng vào sinh ra tử đã rơi nướ mắt thương anh...."
(Tiích từ Tai Le)
.............

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Ngẫm chiện vài chức danh và tên đơn vị QĐNDVN

TC thấy còn lủng củng và trái khoáy ở vài tên gọi.
Một thời VN theo TQ, rồi ngã sang LX. Trước kia, ví dụ nói: Tỉnh đội, Huyện đội, Đại đội... chức danh cũng vậy: Tỉnh đội trưởng, Huyện đội phó - nghe đơn giản ngắn gọn. Sau này, thì hình như các bố nghĩ theo Tàu nên cải danh thành ra dài ngoằng: Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh... Phó Chỉ huy trưởng Cơ quan quân sự huyện... - nhưng cái đuôi Tàu vẫn còn đó!. Tuy nhiên, Bộ đôi vẫn quen gọi vắn tắt như xưa như: Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội... Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn phó, Đại đội trưởng...
Đến đơn vị cấp Quân khu và Bộ Tư lệnh quân khu... - có sự phân biệt giữa tên đơn vị và cơ quan đầu não. Nhưng cấp tỉnh/thành thì gọi tên đơn vị và cơ quan đầu não chỉ huy nhập chung một cái tên là Bộ Tư lệnh, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh/ thành... - mà rõ ràng chúng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Đến cấp quận/huyện thì gọi là Cơ quan Quân sự quận/huyện... và Ban Chỉ huy quân sự... - thì cái tên được tách ra không như cấp tỉnh/thành, có vẻ như tên "Cơ quan" phía trước nghe hơi bị thừa.
Chức danh, nếu kính thưa kính gửi cho nó đầy đủ và trang trọng thì dài lê thê ví dụ: Kính thưa đồng chí Đại tá Nguyễn Văn A - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, Chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu Trưởng, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh ...
Bên dân chính đảng thì "Phòng" là cấp đơn vị nhỏ hơn "Ban" thì bên quân đội ngược lại, cấp "Phòng" là lớn "Ban".
Trong Điều lệnh quân đội có định danh nhưng lính tráng quen gọi chỉ huy (thậm chí không phải là người chỉ huy của mình miễn là cấp bậc thuộc hàng trên) là "Thủ trưởng" tuốt !.
Quy định khi gặp sĩ quan cấp trên, cấp dưới phải chào (đưa bàn tay lên vành mũ) nhưng thực tế đa phần gặp nhau gật đầu là xong. Không rõ ngày nay có thói quen đó nưa hay không....
Ảnh minh họa

Thư cô gái Lào gửi người yêu bộ đội VN

NẾU ANH LỠ CÓ NGƯỜI YÊU EM CŨNG SẼ THA THỨ.
Ba mươi năm một bức thư tình được giải mã để bùng nổ những âm hưởng yêu đương ”Cuộc đời đầy bất ngờ và luôn có hậu.” Thanh buột miệng. Thanh tin tưởng rằng, tương lai lại sẽ đem đến cho con người những giá trí đích thực đã từng bị lãng quên.
Yêu đương luôn là sự lựa chọn của từng đôi trai gái, đến thời điểm nào đó Phạm Ngọc Thanh cảm nhận rằng mình đã được yêu sau hơn ba mươi năm dài.
Ngày 15 tháng 03 năm 1979, Sư đoàn bộ binh 315 thế chân sư đoàn 309 tại Ban Lung Tỉnh Ratankiri thuộc Đông Bắc Kampuchia.
Vào đầu năm 1987, một bộ phận của Ban xăng dầu Sư đoàn 315 chiến đấu và công tác ở Mường Sẻn huyện Paksé tỉnh Champasak ( cố đô của Vương quốc Champasak ) Tây Nam Lào.
Thủ phủ của Champasak là Paksé (thành phố cửa sông) , phía Bắc Paksé là sông Sê Pôn và phía Nam là sông Mekong.Từ thế kỷ 14 , Paksé được xem như là trung tâm của đế chế Khmer rộng lớn thời bấy giờ.
Năm 1835, cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi (con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt) chống vua Minh Mạng thất bại, cuộc truy lùng và tàn sát đẫm máu diễn ra. Trong thành phần tham gia khởi nghĩa có một bô phận đông đảo người Chăm. Để trốn tránh cuộc truy sát của vua Minh Mạng, người Chăm bỏ trốn ra nước ngoài. Một bộ phận đến Kampuchia định cư, địa bàn người Chăm cư ngụ tại Kampuchea được gọi là Kompong Chàm (bến cảng, bến đổ của người Chăm), một số khác chạy qua Lào định cư, nơi họ sinh sống người ta gọi là Champasak (sóc của người Chăm). Chiêm Thành, Chăm, Chàm, Champa đều là tên gọi chỉ người Chăm.
Thời gian Mỹ can thiệp vào nội bộ nước Lào và nuôi dưỡng phỉ Vàng Pao , Paksé cũng là nơi ở của toán cố vấn Mỹ.

Nỗi khát nước của lính chiến trường K

RỪNG KHỘP MÙA THAY LÁ
(Trích)
Tôi bước đi như mộng du, đầu óc mụ mị, nặng trĩu, mắt mờ đi và dần chìm vào giấc mơ. Tôi mơ được về nhà ăn tết, nhưng không phải là mơ thấy giò, chả, bánh chưng mà thấy mẹ và các em ào ra đón. Cũng không phải tôi lao vào ôm lấy mẹ, ôm lấy các em sau bao ngày xa cách, mà tôi lao đến, vục đầu xuống cái hồ cạnh nhà, cái hồ mà hàng ngày cả làng vẫn ra đó tắm giặt và gánh nước tưới rau uống lấy uống để. Trong giấc mơ, cả người tôi chìm nghỉm trong nước, miệng tu ừng ực từng ngụm lớn, uống đến no nê... mà miệng vẫn đắng ngắt.
Đang mơ, bỗng thằng Cương giật giật vào quai ba lô tôi hỏi nhỏ:
- Anh Điền, còn nước không cho em một ngụm?
Nhìn khuôn mặt nó đỏ lựng, nhem nhuốc nhọ đen nhọ thỉu, méo xệch vì mệt, thương lắm nhưng vẫn phải động viên nó:
- Tao còn tí xíu thôi, nhưng tao cũng không uống, cố chịu. Khi nào sắp chết, tao với mày sẽ chia nhau. Cố lên đi, có chết cũng chết trên đầu hàng quân Cương ạ.
Nó cố nài nỉ, tôi vẫn kiên quyết không cho, cố giữ lấy những giọt nước cuối cùng phòng khi không còn cơ hội sống. Nài không được, nó lại bỏ tôi, lùi lại phía sau...Nói thật là khi đó, tôi đã lờ mờ nghĩ đến cái chết, nghĩ rằng sẽ chết khát giữa cánh rừng khộp đang cháy nham nhở ở phía tây cái đất nước khốn nạn này.
Khi trời nhá nhem tối, từ đầu hàng quân có tin truyền xuống:
- Phía trước có nước. 

Tìm kiếm Blog này